View
9
Download
0
Category
Preview:
Citation preview
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN LỚP 11-LẦN 2
- Thời gian: từ ngày 30/3/2020 đến 19/4/2020
- Yêu cầu HS:
+ Tự giác ôn tập phần kiến thức cơ bản.
+ Làm phần bài tập vào vở đầy đủ.
+ Các lớp từ 11A7 đến 11A13 bắt buộc làm đủ phần đề tự luyện tập.
+ Nộp lại cho GV văn của lớp mình vào buổi đầu tiên đi học trở lại
- Nếu cần giải đáp thắc mắc liên hệ với các giáo viên
+ Cô Nguyễn Thị Hồng Miên: 0333243881
+ Cô Nguyễn Thị Lan: 084310870
+ Cô Cao Thị Thu Giang: 0985570574
+ Cô Hoàng Thị Minh Thùy: 0983572584
+ Cô Lê Thị Thanh Tuyền: 0983554225
PHẦN I: VĂN HỌC
I. VỘI VÀNG - Xuân Diệu
* Kiến thức cơ bản:
1. Tác giả: Xuân Diệu là nghệ sĩ lớn, nhà văn hóa lớn có sức sáng tạo mãnh liệt, bền bỉ và sự
nghiệp văn học phong phú. Ông đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới,
một nguồn cảm xúc mới với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ
của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say yêu đời tha
thiết.
2. Khái quát về bài thơ:
- XX: “Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước cách mạng, in trong
tập “Thơ thơ” (năm 1938), là bản tuyên ngôn về lẽ sống vội vàng của nhà thơ. Bài
thơ gồm bốn đoạn thơ, có thể chia làm hai phần. Phần một gồm ba đoạn thơ đầu, là
niềm ngất ngây trước cảnh sắc trần gian và nêu những lí giải vì sao phải sống vội
vàng; phần hai là đoạn thơ cuối, nêu cách “thực hành” lẽ sống “vội vàng”.
- Nội dung; nghệ thuật bài thơ:
*Phần đầu: Niềm ngất ngây trước cảnh sắc trần gian và nêu những lí giải vì sao
phải sống vội vàng.
1. Khổ thơ ngũ ngôn đầu bài thơ: thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ – ước
muốn quay ngược quy luật tự nhiên: Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” là những
ước muốn kì lạ, chỉ có ở Xuân Diệu. Bởi thi sĩ sợ “màu nhạt mất”, “hương bay đi” –
sợ rằng hương sắc, vẻ đẹp của trần gian sẽ phai nhạt mất. Ông muốn níu giữ tất cả
hương sắc, vẻ đẹp của trần gian. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao con
người tắt được nắng và buộc được gió, đó thật sự là một ước muốn không thể. Cái
ước muốn lạ lùng, kì dị ấy đã hé mở một tình yêu vô bờ với trần gian thắm đượm
hương sắc này.
2. Khổ thơ thứ hai: Phát hiện và say sưa ca ngợi một thiên đường ngay trên mặt
đất với bao nguồn hạnh phúc kì thú:Bằng những điệp từ “này đây”; nhịp thơ dồn
dập, sôi nổi, trần gian hiện ra với đầy đủ vẻ đẹp, sắc hương của nó. “Này đây” là
“tuần tháng mật” của ong bướm, là thời gian chúng hút nhụy hoa để lấy mật, thời gian
chúng vui sống mãnh liệt nhất. “Này đây” là “hoa” của đồng nội “xanh rì”. Đó là hoa
cỏ tươi thắm giữa một cánh đồng xanh mơn mởn, tràn đầy sức sống. “Này đây” nữa là
“lá” của một “cành tơ” căng tràn nhựa sống, phơ phất trong gió xuân. Còn những đôi
chim “yến anh” đang say đắm trong “khúc tình si”. “Và này đây” nữa là “ánh sáng
chớp hàng mi”. Một liên tưởng độc đáo: ánh sáng trần gian tựa như hàng mi của một
cô gái đẹp, mỗi khi cô gái chớp mắt thì cả trần gian như si mê. Còn nữa, mỗi sáng
sớm, thần Vui lại gõ cửa trần gian, mang đến niềm vui cho nhân loại. Bởi vì thế mà
“tháng giêng” “ngon” như “cặp môi gần”. Tháng giêng mơn mởn non tơ, tháng giêng
quyến rũ như một người tình rạo rực. Trần gian hiện lên trong cảm nhận của nhà thơ
“mới nhất trong các nhà thơ mới” là như thế: tươi đẹp, mơn mởn sức sống, chan chứa
niềm vui, niềm hạnh phúc, ngập tràn tình yêu. Trần gian này chính là một thiên đường
thực thụ, không phải tìm đâu xa. Trần gian này lúc nào cũng tươi xanh mơn mởn như
đang giữa mùa xuân. Thi sĩ như ngất ngây, say đắm trong hương sắc của nó.
Trần gian là một thiên đường, vì thế mà Xuân Diệu tuyên bố:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Tôi không “sung sướng” sao được khi được sống giữa một thiên đường như thế?
Nhưng cũng vì thế mà tôi phải “vội vàng một nửa”. Không vội vàng thì sợ không kịp
mất. Tôi “không chờ” cho đến “nắng hạ” mới tiếc nhớ “mùa xuân”, tôi sẽ không để
cho tuổi xuân qua đi rồi mới tiếc nhớ thời tươi đẹp ấy. Tôi phải sống ngay từ bây giờ,
ngay khi đang còn trẻ, còn đầy sức xuân, khi tâm hồn còn ngập tràn tình yêu. Lời
tuyên bố này thể hiện một quan niệm mới: trong thế giới này, đẹp nhất, quyến rũ nhất
là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu.
3. Khổ thơ thứ ba: lí giải cho sự “vội vàng” thể hiện quan niệm mới mẻ về thời
gian và tuổi trẻ:
Từ “xuân” trong ba câu thơ trên có thể được hiểu là mùa xuân, cũng có thể là
“tuổi xuân”, tuổi trẻ của con người. Những cụm từ “đương tới” – “đương qua”, “còn
non” – “sẽ già” diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Nếu như con người thời trung đại
thấy thời gian tuần hoàn với chu kì bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; hết một vòng, thời
gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu; thì Xuân Diệu đem đến một quan niệm mới
mẻ: thời gian tuyến tính. Thời gian là một dòng chảy vô thủy vô chung, mỗi khoảnh
khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Và cuộc đời tôi cũng sẽ chẳng còn gì nếu tuổi xuân
qua mất.
“Lòng tôi rộng” lắm, với tôi, tuổi trẻ dài bao nhiêu cũng chưa đủ. Nhưng “lượng
trời”, tạo hóa lại cứ “chật”, cứ “keo kiệt” với con người: “không cho dài thời trẻ của
nhân gian”. Tuổi trẻ ngắn ngủi quá, mong manh hữu hạn quá. Hai câu trên thoáng
chút trách móc. Hai câu dưới nồng nhiệt phủ định quan niệm thời gian tuần hoàn của
người xưa, bộc lộ niềm tiếc nuối: đời người không có hai lần tuổi trẻ thì làm gì có
chuyện thời gian tuần hoàn ! Tuổi trẻ, tuổi đẹp nhất của đời người lại ngắn ngủi quá !
Niềm tiếc nuối ấy thể hiện rõ hơn trong hai câu tiếp:
Vũ trụ, đất trời cứ trường tồn mà lại “chẳng còn tôi mãi”, thế nên tôi “bâng
khuâng”, ngậm ngùi “tiếc” cả đất trời.
Thời gian cứ thế trôi đi không thể trở lại, kiếp người lại ngắn ngủi, hữu hạn, tất cả
rồi sẽ phải phai tàn theo thời gian:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
...Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?”
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi” là một cảm nhận mới lạ, độc đáo. “Tháng
năm”, thời gian được cảm nhận bằng “mùi”, “vị chia phôi”. Thi sĩ thấy hiển hiện mỗi
khoảnh khắc của thời gian đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ. Chính thời gian
cũng đang chia tay với tất cả, mỗi phút giây của nó qua đi là đang mất đi vĩnh viễn.
Cho nên, thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông, một lời than triền
miên, bất tận: “than thầm tiễn biệt”. Thời gian trôi qua mau chóng, tất cả rồi sẽ phai
tàn, héo úa theo nó. “Con gió xinh” tưởng không bao giờ mất, thế mà cũng phải “bay
đi”; tiếng chim hót “reo thi” tưởng không bao giờ ngừng nghỉ, thế mà cũng phải
“đứt”. Tất cả, tất cả đều phôi pha, phai tàn trước dòng chảy nghiệt ngã của thời gian.
Thế nên, câu thơ cuối khổ thơ vang lên đầy nuối tiếc: “Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao
giờ nữa…”. Chẳng thể nào kịp nữa nếu không nhanh lên, gấp lên, không “vội vàng”
lên. Đến đây, nhà thơ đã hoàn thành xong lời lí giải vì sao phải sống “vội vàng” : cuộc
sống trần gian đẹp như một thiên đường; trong khi đó, thời gian một đi không trở lại,
và đời người – đặc biệt là tuổi trẻ của con người - lại quá ư ngắn ngủi, hữu hạn, nên
chỉ còn một cách là phải sống vội. Đây là quan niệm nhân sinh mới mẻ của một tâm
hồn luôn khát khao giao cảm với đời.
Phần hai: cách “thực hành” lẽ sống “vội vàng”.
4. Khổ thơ cuối: Nhà thơ nêu cách “thực hành” lẽ sống “vội vàng”
“Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm.
... Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.”
Mở đầu đoạn thơ là lời giục giã : “Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm.” Nhà
thơ giục giã mọi người mà cũng là giục giã chính mình: hãy mau lên, gấp lên để tận
hưởng cuộc sống. “Mau đi thôi!” là câu cảm thán thể hiện sự khẩn trương, hối hả.
“Mùa chưa ngả chiều hôm” là cách nói hình ảnh chỉ con người khi đang còn trẻ, chỉ
trần gian khi đang ở độ xuân, chưa phai tàn hết hương sắc. Nhà thơ giục giã hãy
nhanh lên, gấp lên khi đang còn trẻ, đang còn tràn trề nhựa sống, đừng hoài phí giây
phút nào nữa. Giục giã đã trở thành môtip quen thuộc trong thơ Xuân Diệu:
“Nhanh lên chứ, vội vàng lên với Em, em ơi, tình non sắp già rồi.”
(“Giục giã”)
“Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai,
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.”
Lời giục giã khẩn trương, gấp gáp này đã hé mở lòng yêu đời, ham sống đến tha
thiết, rạo rực của một con người luôn sợ thời gian.
Sáu câu thơ tiếp theo bộc lộ những hành động sống vội vàng:
“Ta muốn ôm,
... Và non nước, và cây, và cỏ rạng.”
Xuân Diệu muốn “ôm, riết, say, thâu” tất cả sự sống, tất cả trần gian vào mình.
Thi sĩ như căng hết cảm giác, xúc giác để sống mãnh liệt, sống hết mình, sống nồng
nàn, say mê. Ông phải hành động thật mạnh mẽ, thật mãnh liệt để cảm nhận hết vẻ
tươi xinh mơn mởn của đất trời, thu nhận hết hương sắc của trần gian. “Ta muốn
ôm” là một câu thơ đặc biệt: chỉ có ba tiếng, lại được đặt ngay giữa dòng thơ, gợi cho
người đọc hình dung ra một con người ham hố đang đứng giữa đất trời, dang rộng
vòng tay, mở rộng tâm hồn để đón nhận hết tất cả sự sống, tất cả đất trời vào lòng
mình. Câu thơ có cấu tạo đặc biệt này đã thể hiện rõ lòng yêu đời cuồng nhiệt, đắm
say của Trảo Nha.
Hệ thống động từ “ôm, riết, say, thâu” chỉ những hành động sống vội vàng,
mãnh liệt có mức độ tăng tiến đã diễn tả đầy đủ quan niệm “Sống toàn tâm, toàn trí,
toàn hồn; Sống toàn thân và thức nhọn giác quan”. Qủa thực, đó là lòng yêu đời đến
cuồng nhiệt của thi nhân.
Thêm nữa, nhà thơ miêu tả trần gian bằng những hình ảnh “sự sống mới bắt
đầu mơn mởn”, “mây đưa”, “gió lượn”, “cánh bướm - tình yêu”, “non nước”,
“cây”, cỏ rạng”. Trần gian ấy thật tươi đẹp, tràn đầy sức sống, rạo rực tình yêu. Cách
miêu tả trần gian ấy cũng bộc lộ lòng yêu đời đến đắm say, rạo rực của Xuân Diệu.
Đặc biệt, câu thơ “và non nước, và cây, và cỏ rạng” là một câu thơ độc đáo
cho thấy Xuân Diệu xứng đáng với mệnh danh “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ
Mới”. Câu thơ lặp lại ba lần từ “và” (nếu như trong văn học trung đại sẽ là một câu
thơ dở) là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Ông muốn thể hiện một “cái tôi” ham hố,
tham lam muốn vơ hết, thu hết, ôm hết tất cả trần gian, đất trời. Tóm lại, những hành
động sống vội vàng, mạnh mẽ muốn “ôm, riết, thâu” cả trần gian, Trảo Nha khẳng
định, với ông “vội vàng” là sống hết mình, cống hiến hết mình, là “Sống toàn tâm,
toàn trí, toàn hồn; Sống toàn thân và thức nhọn giác quan”.
Với Xuân Diệu, sống là hành động thật mãnh liệt, hết mình để có thể :
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Với ông, sống là phải cảm nhận, hưởng thụ hết “mùi thơm”, “ánh sáng”, “thanh
sắc của thời tươi”, nghĩa là phải hưởng thụ hết vẻ đẹp, hương sắc của trần gian, phải
sống sao cho “thời tươi” của đời người thật ý nghĩa, thật đẹp để sau này không hối
tiếc. Các tính từ “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê” có mức độ tăng tiến khiến
chúng ta hình dung Xuân Diệu như một con ong lảo đảo vui sướng sau khi hút mật
ngọt từ nhụy hoa. Ông muốn sống thật hăng say, sống thật mãnh liệt, lúc nào cũng
căng tràn nhiệt huyết, để “thời tươi” – tuổi trẻ - được đẹp đẽ nhất, được “chếnh
choáng”, “đã đầy”, “no nê” với niềm vui sướng từ mật ngọt hương đời.
Ông còn hình dung tuổi xuân của đời người như một cô gái đẹp và gọi tên nó một
cách tha thiết “hỡi xuân hồng”. Cách hình dung cuộc sống như thế cùng với hành
động thật vồ vập “cắn” đã thể hiện sự quý trọng thời trẻ của đời người, đồng thời bộc
lộ rõ lòng yêu cuộc đời đắm say như yêu người yêu của mình.
Tóm lại, với những câu thơ độc đáo, những từ ngữ và nhịp điệu dồn dập, sôi nổi,
hối hả, cuồng nhiệt, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” đã nêu ra cách “thực
hành” lẽ sống “vội vàng” của mình: Vội vàng là chạy đua với thời gian, là quý trọng
từng giây phút của tuổi trẻ, đừng để hoài phí giây phút nào; vội vàng là sống mạnh
mẽ, đủ đầy với từng phút giây của sự sống, “Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn; Sống
toàn thân và thức nhọn giác quan”.
5. Nghệ thuật:
- Bài thơ có sự kết hợp hài giữa mạch cảm xúc và mạch luận lí. Mạch cảm xúc thể
hiện ở lòng yêu đời đắm say, tha thiết, rạo rực của nhà thơ; mạch luận lí là lời lí giải
về lẽ sống vội vàng. Mạch cảm xúc làm cho lí lẽ không trở nên khô khan, triết học,
còn mạch luận lí làm cho mạch thơ được tự nhiên, nhuần nhị. Cùng với cách nhìn,
cách cảm mới, những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ và cách sử dụng ngôn từ, nhịp
điệu sôi nổi dồn dập, hối hả, cuồng nhiệt, nhà thơ đã trình bày một quan niệm nhân
sinh mới mẻ mà vẫn dạt dào cảm xúc, sục sôi nhiệt huyết.
* Ý nghĩa văn bản:
Quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của Xuân Diệu – nghệ sĩ của niềm
khát khao giao cảm với đời.
* Đề luyện tập:
Đề 1: Phân tích 13 dòng thơ đầu trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu:
Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Vội vàng” và nhận xét về nét mới thơ
Xuân Diệu:
“Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm.
... Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.”
Đề 3: Phân tích nét độc đáo trong cảm nhận và diễn tả của nhà thơ Xuân Diệu qua
đoạn thơ sau:
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”
(trích Vội Vàng- Xuân Diệu, SGK Ngữ Văn 11 tập 2)
* Hướng dẫn:
Đề 1: Phân tích một đoạn thơ.
-Yêu cầu về nội dung: Làm rõ nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ.
-Yêu cầu về thao tác: Phân tích là thao tác chính, cần kết hợp các thao tác khác
như:chứng minh, bình luận, so sánh…
-Yêu cầu về tư liệu: Tư liệu chính là những câu thơ trong đoạn thơ đã cho, tư liệu có
liên quan để bổ sung cho ý phân tích.
Lập dàn ý
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả Xuân Diệu, dẫn vào bài thơ “Vội vàng”. Nêu vấn đề: Bài
thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật mà tiêu biểu là đoạn thơ sau:
(ghi nguyên văn đoạn thơ”)
II. Thân bài:
Khái quát: Nêu xuất xứ, thời gian sáng tác, bố cục bài thơ, nội dung chính mỗi phần,
vị trí đoạn thơ ở đề bài.
Phân tích nội dung nghệ thuật đoạn thơ: Các ý chính cần phân tích:
a. Khổ thơ ngũ ngôn đầu bài thơ:
Điệp kết cấu “Tôi muốn …”, sáng tạo từ ngữ “buộc” diễn tả ước muốn phi
lí…Hé mở lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt của thi sĩ.
b. Khổ thơ tiếp theo:
- Bảy câu thơ đầu: điệp từ “này đây”; nhịp thơ dồn dập, sôi nổi, hình ảnh thơ tươi vui,
sáng tạo, cảm nhận mới lạ, độc đáo -> Trần gian hiện lên trong cảm nhận của nhà thơ
“mới nhất trong các nhà thơ mới” là như thế: tươi đẹp, mơn mởn sức sống, chan chứa
niềm vui, niềm hạnh phúc, ngập tràn tình yêu. Trần gian này chính là một thiên đường
thực thụ, không phải tìm đâu xa. Trần gian này lúc nào cũng tươi xanh mơn mởn như
đang giữa mùa xuân. Thi sĩ như ngất ngây, say đắm trong hương sắc của nó.
- Hai câu sau : Lời tuyên bố sống “vội vàng”. Dùng cách nói hình ảnh để khẳng định:
phải sống ngay từ bây giờ, ngay khi đang còn trẻ, còn đầy sức xuân, khi tâm hồn còn
ngập tràn tình yêu.
- Cả đoạn thơ: với phép điệp, nhịp thơ sôi nổi, dồn dập, hình ảnh thơ sáng tạo, cảm
nhận mới lạ diễn tả cuộc sống trần gian như một thiên đường và tuyên bố sống vội
vàng; từ đó thể hiện quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của Xuân Diệu: trong thế giới này,
đẹp nhất, quyến rũ nhất là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu.
III. Kết bài: Kết luận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ, nêu ý nghĩa đoạn thơ.
Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu:
“Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm.
... Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.”
a. Mở bài Giới thiệu về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng
Dẫn dắt vào vấn đề: khổ thơ cuối bài thơ Vội vàng
b. Thân bài
Khái quát chung
Xuất xứ: Trích trong tập “Thơ -Thơ” (1938).
Bố cục: Ba phần:
Câu 1-11: Tâm trạng reo vui trước vẻ đẹp thiên nhiên.
Câu 12-30: Tâm trạng u buồn, hoài nghi.
Câu 31-40: Lòng yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt.
Phân tích
- Cảm hứng bao trùm: Tình yêu cuộc sống đến độ cuồng si và khát khao giao cảm
mãnh liệt của Xuân Diệu đối với cuộc đời
- Đến khổ thơ cuối, mạch thơ đột nhiên thay đổi đột ngột. Tiếc nuối, lo lắng và chợt
nhận ra: Mùa chưa ngả chiều hôm -> Vẫn còn thời gian của một ngày, của mùa xuân,
của tuổi trẻ -> giục giã “Mau đi thôi” -> Thế sống của thời gian: Chạy đua cùng thời
gian, vội vàng sống và tranh thủ sống
- Bức tranh thiên nhiên lại được sống dậy với những phẩm chất đẹp đẽ như ban đầu,
ngồn ngộn sức sống, căng tràn sức xuân
- Sự sống mới bắt đầu, ngồn ngộn một sự sống, căng tràn sức xuân
- Mây đưa và gió lượn: Quấn quýt, giao hòa
- Cánh bướm say với tình yêu
- Non nước, cỏ cây chuếnh choáng trong men say cuộc đời
- Không gian ngập tràn sánh sáng
- Tác giả nhận ra không thể mãi tiếc nuối -> Cảm nhận cảnh sắc ở thời tươi. Thế giới
xuân tình rạo rực đến đắm say => đẹp và đầy sức quyến rũ
- Tình yêu cuộc sống và niềm khao khát giao cảm
- Động thái của chủ thể trữ tình: Ở điệp khúc: Ta muốn... ôm, say, thâu riết
=> cử chỉ vồ vập, đắm say đối với một người tình cuộc sống => bộc lộ tình yêu cuộc
sống đến cuồng si
- Chủ thể trữ tình đã cảm nhận cuộc sống bằng nhiều giác quan: xúc giác, thị giác, và
cả những cảm nhận vô hình
- Từ đại từ xưng tôi -> ta (tôi: ngạo nghễ, ta: chung, nhỏ bé mang 1 thái độ tự nguyện
hòa nhập và đồng điệu với cuộc đời rộng lớn, tự nguyện hòa nhập vào dòng chảy thời
gian, tự nguyện giao cảm với cuộc sống)
- Sự diệu kì đã xảy ra trong hồn thơ của Xuân Diệu, chính tình yêu cuộc sống đã làm
sống lại phẩm chất tươi đẹp, đầy sinh khí như ban đầu, còn đọng lại vẫn là tình yêu
mãnh liệt
- Kết thúc là lúc tình cảm của tác giả mãnh liệt đến độ cao trào của bài thơ
- Xuân Diệu vẫn còn băn khoăn lắm, vẫn còn lo sợ lắm, những đắm say vẫn là đắm
say, khao khát vẫn là khát khao -> Càng yêu càng sợ mất, càng sợ mất càng muốn
yêu, càng muốn níu giữ
- Bộc lộ quan niệm sống của Xuân Diệu: cuộc đời đẹp nhất là vào mùa xuân, đời
người đẹp nhất là lúc tuổi trẻ, tuổi trẻ đẹp nhất là tình yêu -> con người cần trân trọng
những giây phút của tuổi trẻ. Theo Xuân Diệu, thiên nhiên rất đẹp, chứa đựng biết bao
nhiêu điều hấp dẫn, đáng sống vì vậy cần phải biết tận hưởng những gì cuộc sống ban
tặng => Giáo dục con người ý thức về giá trị cuộc sống. Để thèm sống, thích sống,
sống cho ra sống, sống cho ra người
+Nghệ thuật:
Ngôn từ: Cách tân về ngôn từ => tính chất nhà thơ mới của Xuân Diệu, cách sử dụng
những từ ngữ táo bạo, những từ ngữ cảm giác xuất hiện với mật độ dày đặc -> Ôm,
riết, hôn, cắn, chuếnh choáng, đã đầy, no nê
Sắp xếp ngôn từ: Tạo nên những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng nhau theo
chiều tăng tiến, càng lúc càng dâng lên cao trào
- Biện pháp trùng điệp => Điệp cú, cú pháp giữ nguyên nhưng cảm xúc mãnh liệt hơn,
động thái thay đổi: ôm, riết, say, thâu, cắn
- Điệp liên từ, Và non nước, và cây và cỏ rạng. Giới từ: điệp một cách nguyên vẹn với
trạng thía càng ngày càng mãnh liệt. “Cho chuếnh choáng cho đã đầy”, “cho no nê”
- Tính từ chỉ xuân sắc: Động từ chỉ động thía đắm say, những danh từ chỉ những vẻ
đẹp thanh tân, tươi trẻ -> tạo ra hệ thống hình ảnh vô cùng quyến rũ
- Nhịp điệu và giọng điệu: Ta muốn, mau đi thôi -> giục giã, -> vồ vập, đắm say --->
xen kẽ những câu thơ ngắn dài tạo nên sự sôi nổi, có thể cảm nhận được những nhịp
đập hối hả của con tim tác giả
c. Kết bài -Những nhận xét, cảm nhận, đánh giá chung về vấn đề.
- Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân.
Đề 3
Phân tích nét độc đáo trong cảm nhận và diễn tả của nhà thơ Xuân Diệu qua đoạn thơ
sau:
“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”
(trích Vội Vàng- Xuân Diệu, SGK Ngữ Văn 11 tập 2)
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận,
II. Thân bài:
1. Khái quát đề: Nói Xuân Diệu độc đáo trong cách cảm cách nhìn bởi trong thơ ông
nói riêng và trong Vội vàng nói riêng luôn đem đến cho người đọc cái nhìn mới mẻ
xuất phát từ lối tuy dư thơ khác biệt, quan niệm sống tích cực đề cao tuổi trẻ và tinh
yêu và cách diễn đạt sôi nổi, lôi cuốn, hấp dẫn mang phong vị rất riêng.
2. Phân tích để làm sáng tỏ yêu cầu
* Luận điểm 1: Nét độc đáo trong cảm nhận của nhà thơ
- Xuân Diệu đã phát hiện ra thiên đường ngay trên mặt đất này. Hình ảnh thiên nhiên
và cuộc sống gợi lên vừa gần gũi thân quen, vừa tràn ngập xuân sắc, quyến rũ. Nhà
thơ cho thấy vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và thổi vào đó tình yêu rạo rực, đắm say,
ngây ngất.
- Xuân Diệu đã nhìn thiên nhiên qua lăng kinh của tinh yêu, qua cặp mắt “xanh non
biếc rờn” của tuổi trẻ. Vì thế mà thiên nhiên cảnh vật đều tràn ngập xuân tình, quấn
quýt , gọi mời.
- Đó là cái nhìn lấy con người làm chuẩn mực cho thiên nhiên, quy chiếu thiên nhiên
về vẻ đẹp của giai nhân.
* Luận điểm 2: Nét độc đáo trong diễn tả của nhà thơ
- Nhà thơ đã đón chào và chiêm ngưỡng cuộc sống bằng tất cả các giác quan. Cái nhìn
vừa ngỡ ngàng vừa xoa xuýt. Điệp từ “Này đây” cùng với phép liệt kê theo chiều tăng
tiến, cách dùng từ láy(phơ phất), từ ghép(xanh rì) và những cụm từ “tuần tháng mật”,
“khúc tinh si” hòa vào nhịp thơ gấp gáp, khẩn trương vừa diễn tả cảm xúc ngất ngây
vừa như hối thúc, giục giã khiến người đọc không thể làm ngơ, không thể quay lưng.
- Câu thơ “ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” có ý nghĩa bao quát cả đoạn và
có lối diễn đạt táo bạo mới mẻ rất Xuân Diệu. Cái đẹp nằm ở sự bắt đầu, tinh khôi ,
mới mẻ, hồng hào, mơn mởn.Xuân Diệu đã “vật chất hóa” khai niệm thời gian và
truyền cảm giác cho người đọc qua các tính từ “ngon, gần”. Câu thơ không chỉ gợi
hình thể mà còn gợi cả hương thơm và vị ngọt khiến người đọc ngạc nhiên, thú vị.
3. Đánh giá:
Đoạn thơ đã thể hiện quan niệm mới mẻ của nhà thơ về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh
phúc. Mỗi năm đẹp nhất lúc mùa xuân, mùa xuân đẹp nhất lúc tháng giêng. Đời người
đẹp nhất lúc tuổi trẻ và tuổi trẻ hạnh phúc nhất là được sống trong tình yêu. Tất cả đều
được diễn tả qua đoạn thơ ấn tượng, độc đáo trong cách diễn đạt và cảm xúc.
III. Kết bài:kết thúc vấn đề nghị luận
-----------------------------------------------------------
2. TRÀNG GIANG- HUY CẬN
* Kiến thức cơ bản:
1. Tác giả
Huy Cận là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện
đại. Ông sáng tác ở cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng Tháng tám và ở giai đoạn
nào cũng gặt hái nhiều thành công. Trước cách mạng, ông là một trong những đại
biểu xuất sắc của phong trào Thơ mới với hồn thơ ảo não. Thơ ông hàm súc, giàu chất
suy tưởng, triết lí. Một trong những bài thơ tiêu biểu của ông trước cách mạng là
“Tràng giang”. (Nêu vấn đề theo đề bài)
2. Khái quát về bài thơ:
a. XX: Bài thơ được sáng tác vào mùa thu năm 1939, khi đó Huy Cận đang là sinh
viên trường Cao đẳng Canh nông ở Hà Nội. Những chiều buồn, nhớ nhà, Huy Cận
thường ra bến Chèm bên bờ sông Hồng ngắm nhìn dòng nước mênh mang. Bài thơ
được khơi gợi cảm xúc từ đây. Tác phẩm được in trong tập “Lửa thiêng”, viết bằng
thể thơ thất ngôn, gồm một câu đề từ và bốn khổ thơ. Nhan đề bài thơ là “Tràng
giang”, cũng đồng nghĩa với “Trường giang”, nghĩa là “sông dài”. Nhưng việc điệp
lại âm mở “ang” ở nhan đề tạo ra âm hưởng vang xa, không chỉ gợi ra con sông dài vô
tận mà còn rộng lớn mênh mang. Nhan đề bài thơ gợi ra nhiều cảm xúc.
b. Nội dung và nghệ thuật:
b.1 Khổ thơ đầu: mở ra bức tranh thiên nhiên tràng giang:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Ba câu thơ đầu mang đậm màu sắc cổ điển, vẽ ra hình ảnh con thuyền nhỏ nhoi
lênh đênh trôi dạt trên dòng sông rộng lớn, mênh mông. Hai từ láy nguyên “điệp
điệp”, “song song” ở cuối hai câu đầu mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Nó
đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau,
miên man, miên man đến tận nơi nào. Không chỉ vậy, bằng phép đối giữa câu trên
“Buồn điệp điệp” với câu dưới “nước song song”, nhà thơ còn ngầm so sánh nỗi buồn
của mình cũng trùng trùng, điệp điệp, triền miên, vô tận như những con sóng. Trên
dòng sông gợn sóng “điệp điệp”, “song song” ấy là một “con thuyền xuôi mái”, con
thuyền không người lái, trôi vô định, lững lờ theo dòng nước. Hình ảnh con thuyền
trôi nổi, đơn lẻ, vô định dường như càng trở nên bé nhỏ, mất hút đi giữa dòng sông
sóng nước mênh mông, càng tô đậm nỗi buồn, sự cô đơn giữa không gian vô tận của
nhà thơ. Ở câu ba, thuyền và nước vốn đi liền với nhau, thuyền trôi đi cùng với dòng
nước, nước đẩy thuyền trôi theo; thế mà ở đây Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang
chia lìa, xa cách “thuyền về, nước lại”. Cảnh gợi ra sự cô đơn, xa vắng, chia lìa.
Chính vì thế mà gợi ra trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Trăm ngả nước là trăm
ngả sầu. Nỗi “buồn” tăng cấp thành nỗi “sầu” chất chứa, chẳng thể vơi được. Câu thơ
cuối khổ thơ mang nét hiện đại với một hình ảnh rất đời thường: một cành củi khô trôi
dạt giữa “mấy dòng” nước. Phép đảo đưa hình ảnh “củi”, một sự vật bé nhỏ, tầm
thường lên đầu câu làm nổi bật cái nhỏ nhoi của nó; và phép đối giữa “một” cành củi
khô với “mấy” dòng nước càng nhấn mạnh hơn sự nhỏ nhoi, cô độc đến tội nghiệp
của “cành củi khô” với dòng sông mênh mông vô tận. Hình ảnh này gợi liên tưởng
đến kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa dòng đời bất tận. Cả khổ thơ đầu, bằng sự kết hợp
hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại, nghệ thuật đảo, đối và hệ thống từ ngữ giàu
giá trị biểu cảm đã khắc họa bức
tranh thiên nhiên tràng giang rộng lớn vô tận, gợi cảm giác buồn, cô đơn, xa vắng,
chia lìa và
thân phận của những kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữa dòng đời.
b.2 Khổ thơ thứ hai: bức tranh tràng giang được hoàn chỉnh thêm bằng những chi
tiết mới:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng bến cô liêu.”
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng
thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, nhỏ bé, thưa thớt, còn
“đìu hiu” lại gợi sự quạnh quẽ. Tất cả gợi ra khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều, hoang
vắng. Giữa khung cảnh ấy có lẽ con người càng trở nên đơn côi, rợn ngợp, đến độ thốt
lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái: vừa
gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt; vừa có thể là câu hỏi “đâu…” như một
nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự
sống của con người; lại cũng có thể là “đâu có…”, một sự phủ định hoàn toàn, chung
quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Dù
hiểu theo cách nào thì cũng vẫn là quang cảnh vắng lặng, hắt hiu. Ở câu ba, câu bốn,
thiên nhiên càng mở rộng ra cả bốn chiều: cao, sâu, dài, rộng. “Nắng xuống, trời lên”
gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa, bởi dường như đất
và trời ngày càng xa nhau hơn. Không gian trở nên “sâu chót vót”. Đây là cách diễn
đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, nó mang nét đẹp hiện đại. Đôi mắt của nhà
thơ không dừng lại ở bên ngoài của trời mây, nắng, mà như xuyên thấu vào đáy vũ trụ
thăm thẳm, bao la, vô tận. Chưa hết, cõi không gian ấy không chỉ “cao”, “sâu” mà còn
mở ra cả về chiều “dài”, chiều “rộng”: “sông dài, trời rộng”. Cõi thiên nhiên ấy quả là
mênh mông, vô tận, còn những gì thuộc về con người lại bé nhỏ, cô đơn biết bao:
“bến cô liêu”. “Cô liêu” cũng là “cô đơn”, nhưng phải là “cô liêu” thì mới diễn tả hết
cái bé nhỏ, đơn độc đến tội nghiệp. Hình ảnh này gợi ra kiếp người cô đơn, quạnh hiu
đến đáng thương. Với những nét vẽ mới: cồn nhỏ, gió đìu hiu, làng xa, trời sâu chót
vót, bến cô liêu…bức tranh tràng giang không những không sống động hơn, mà càng
chìm sâu vào tĩnh lặng, cô đơn, hiu quạnh.
b.3 Khổ thơ thứ ba: tiếp tục hoàn thành bức tranh tràng giang với những nét vẽ
khác:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ
cổ điển, nó gợi lên sự bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng
trong thơ Huy Cận không phải là một cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo trôi hàng
hàng càng gợi ra sự rợn ngợp trước thiên nhiên, cõi lòng như càng đau đớn, cô đơn.
Giữa không gian tràng giang mênh mông đó không hề có con người, không có chút
sinh hoạt của con người, không có sự giao hòa, nối kết: “Không một chuyến đò
ngang”, “không cầu” để nối hai bờ sông rộng lớn, hoang vắng, thê lương. Cấu trúc
phủ định “không…không…” phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Cầu
hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người dường như đã bị cõi thiên
nhiên nhấn chìm, trôi đi tận nơi nào. Không có gì kéo con người ra khỏi nỗi cô đơn
đang bao trùm, vẫn chỉ có dòng tràng giang rộng lớn mênh mông. Bên cạnh “hàng nối
hàng” của cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng”. “Bờ xanh” “lặng lẽ” tiếp với “bãi
vàng”, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, không gian càng bao la, vô cùng vô tận. Cảnh
có thêm màu sắc nhưng chỉ càng buồn hơn, chia lìa hơn.
b.4 Khổ thơ cuối: hoàn thiện nốt bức tranh tràng giang và trực tiếp bộc lộ cõi lòng
nhà thơ.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Hai câu thơ đầu là bức tranh phong cảnh kì vĩ, nên thơ. Cảnh được gợi lên bởi
bút pháp nghệ thuật cổ điển với hình ảnh mây trắng, cánh chim chiều. “Mây cao”
chồng chất tầng tầng “lớp lớp”, đang “đùn” thành “núi bạc”. Những núi mây trắng
được ánh nắng chiếu vào như dát bạc, hình ảnh thơ mang nét đẹp cổ điển, vừa kì vĩ,
tráng lệ, vừa nên thơ. Có lẽ, câu thơ được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường
của Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.
Huy Cận đã vận dụng tài tình động từ “đùn”, khiến mây như chuyển động, có nội lực
từ bên trong, từng lớp, từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Giữa khung cảnh rộng lớn, tráng
lệ ấy xuất hiện một cánh chim chiều – một hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ, thường
để báo hiệu thời gian chiều tối. Tuy nhiên, trong câu thơ của Huy Cận, nó không chỉ
là báo hiệu thời gian, mà còn gợi ra không gian bao la vô cùng, vô tận bởi hình ảnh
cánh chim nhỏ được đặt trong sự tương phản với không gian mây cao, núi bạc. Hình
ảnh cánh chim nghiêng lệch chở nặng ráng chiều càng gợi ra hình ảnh thi nhân cảm
thấy mình bé nhỏ, cô đơn, bất lực trước thời cuộc. Nét tâm trạng này dọc theo toàn bài
thơ, không phải chỉ riêng của Huy Cận, mà nó là tâm trạng chung, là “nỗi buồn thế
hệ” của các nhà Thơ mới. Nước mất nhà tan, nhân dân nô lệ, chưa đủ niềm tin vào
con đường cách mạng, các nhà Thơ mới tìm cách thoát li thực tại, mỗi người một cách
khác nhau: Thế Lữ thoát “lên tiên”, Lưu Trọng Lư “phiêu lưu trong trường tình”, Chế
Lan Viên, Hàn Mặc Tử “điên cuồng” trong thế giới ma quái, kì dị…Huy Cận ảo não
tìm vào cái vắng lặng, mênh mông, vô tận của vũ trụ để quên đi thực tại đáng buồn.
Tâm trạng của nhà thơ bộc lộ rõ nét hơn trong hai câu cuối. “Dợn dợn” là từ láy
nguyên rất sáng tạo của Huy Cận. Từ láy này đi cùng với cụm từ “vời con nước” cho
thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ
quê hương. Đó là nỗi niềm của một người con mất nước: nhớ quê hương ngay khi
đang đứng giữa quê hương, khi quê hương đã không còn. Đây cũng là tâm trạng
chung của các nhà Thơ mới lúc bấy giờ. Câu thơ cuối được gợi từ câu thơ cổ của Thôi
Hiệu trong bài thơ “Lầu Hoàng Hạc” (Hoàng Hạc lâu):
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”.
Xưa, Thôi Hiệu nhìn khói sóng thì buồn, nhớ quê nhà, còn nay, Huy Cận không cần
tác động của ngoại cảnh mà vẫn “nhớ nhà”, bởi nỗi nhớ đó da diết lắm, sâu sắc lắm.
Trong lòng thi nhân luôn thường trực nỗi nhớ ấy. Thế mới biết tấm lòng yêu quê
hương tha thiết của nhà thơ, mới hiểu được “Tràng giang” là bài thơ “dọn đường cho
lòng yêu giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu).
c. Nghệ thuật cả bài thơ:
- Sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại (Cổ điển: thể thơ thất ngôn;
những hình ảnh thơ quen thuộc trong văn học trung đại. Hiện đại: sự xuất hiện của
những cái tưởng như tầm thường, vô nghĩa; cảm xúc buồn mang dấu ấn “cái tôi” cá
nhân…)
- Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu
cảm.
d. Ý nghĩa văn bản:
Vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng
lớn, niềm khát khao hòa nhập với cuộc đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết
của tác giả.
* Đề luyện tập:
Đề 1: Phân tích khổ thơ sau trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Đề 3: Phân tích bài thơ “Tràng giang” của nhà thơ Huy Cận và nhận xét nét đặc sắc
của bài thơ..
* Hướng dẫn:
Đề 1: Tìm hiểu đề
1. Dạng đề: Phân tích một đoạn thơ.
2. Yêu cầu của đề:
- Yêu cầu về nội dung: Làm rõ nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ.
- Yêu cầu về thao tác: Phân tích là thao tác chính, cần kết hợp các thao tác khác như:
chứng minh, bình luận, so sánh…
- Yêu cầu về tư liệu: Tư liệu chính là những câu thơ trong đoạn thơ đã cho, tư liệu có
liên quan để bổ sung cho ý phân tích.
Lập dàn ý
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả Huy Cận, dẫn vào bài thơ “Tràng giang”. Nêu vấn đề:
Bài thơ có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật mà tiêu biểu là đoạn thơ sau:
(ghi nguyên văn đoạn thơ”)
II. Thân bài:
1. Khái quát: Nêu hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, thể loại, bố cục bài thơ, vị trí đoạn
thơ ở đề bài, về nhan đề bài thơ.
2. Phân tích nội dung nghệ thuật đoạn thơ: Các ý chính cần phân tích:
a. Khổ thơ đầu : Bức tranh thiên nhiên tràng giang:
- Ba câu đầu: mang màu sắc cổ điển.
+ Câu đầu: Hình ảnh “sóng”, cụm từ “gợn tràng giang”, từ láy “điệp điệp” -> diễn tả
những con sóng liên tiếp vỗ vào nhau, nối đuôi nhau, lan ra rộng dần, xa dần, gợi nỗi
buồn triền miên như những con sóng.
+ Câu hai: Hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, từ láy “song song” -> thuyền và nước
không đi liền với nhau mà “song song”, gợi cảm giác rời rạc, buồn tẻ.
+ Câu ba: Hình ảnh “thuyền về nước lại”, cụm từ “sầu trăm ngả” -> thuyền và nước
chia lìa, nỗi buồn tăng cấp thành nỗi sầu, nỗi sầu lan tỏa khắp không gian, trăm ngả
nước là trăm nỗi sầu.
Cảnh tràng giang gợi cảm giác buồn, cô đơn, xa vắng, chia lìa.
- Câu cuối : mang màu sắc hiện đại.
Phép đảo đưa hình ảnh “củi” lên đầu câu gợi ấn tượng về sự nhỏ nhoi; phép đối giữa
“một”
cành củi khô với “mấy” dòng nước nhấn mạnh sự cô đơn, lạc lõng -> gợi liên tưởng
đến thân phận những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa dòng đời.
b. Khổ thơ tiếp theo, cũng là khổ thơ cuối bài thơ, vừa hoàn thiện bức tranh tràng
giang, vừa trực tiếp bộc lộ nỗi lòng nhà thơ.
- Hai câu đầu : bức tranh thiên nhiên tràng giang đậm chất cổ điển.
+ Câu đầu: Hình ảnh “mây”, “núi bạc”, từ “lớp lớp”, từ “đùn” -> khắc họa khung
cảnh tràng giang rộng lớn, hùng vĩ, tráng lệ.
+ Câu hai: Hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” giữa bầu trời rộng lớn mênh mông ->
gợi sự nhỏ bé đến tội nghiệp.
- Hai câu sau:
+ “Lòng quê” : tấm lòng với quê hương; “dợn dợn” : đong đầy.
+ Tâm trạng “nhớ nhà”; vận dụng sáng tạo thơ cổ.
Lòng yêu quê hương đất nước thầm kín của nhà thơ.
c. Nghệ thuật đoạn thơ:
- Sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại (Cổ điển: thể thơ thất ngôn;
những hình ảnh thơ quen thuộc trong văn học trung đại. Hiện đại: sự xuất hiện của
những cái tưởng như tầm thường, vô nghĩa; cảm xúc buồn mang dấu ấn “cái tôi” cá
nhân…)
- Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu
cảm.
III. Kết bài : Kết luận chung về nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ, nêu ý nghĩa đoạn
thơ.
-----------------------------------
ĐÂY THÔN VĨ DẠ- HÀN MẶC TỬ
* Kiến thức cơ bản:
1. Tác giả Hàn Mặc Tử
- Hàn Mặc Tử là con người tài hoa mà bất hạnh, là “ngôi sao chổi trên bầu thơ Việt
Nam” (Chế Lan Viên). Là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt trong
phong trào Thơ mới, ông để lại cho đời những vần thơ vừa “điên loạn”, “đau thương”
vừa thiết tha, trong sáng. Tiêu biểu cho những vần thơ trong sáng, thiết tha ấy là bài
thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. (Nêu vấn đề theo đề bài)
2. Khái quát về bài thơ:
a.XX: Bài thơ được viết năm 1938, khi Hàn Mặc Tử đã mắc căn bệnh nan y. Thi
phẩm được in trong tập “Thơ điên”, được khơi nguồn cảm hứng từ tấm bưu ảnh mà
Hoàng Thị Kim Cúc (cô gái thôn Vĩ mà thi sĩ đã yêu, một tình đơn phương) gửi cho
ông. Bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn, gồm ba khổ thơ.
b. Nội dung và nghệ thuật:
b 1. Khổ thơ đầu: là bức tranh thôn Vĩ vào buổi bình minh:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc.
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Câu thơ mở đầu là câu hỏi : sao anh lại không trở về thôn Vĩ chơi? Đây là câu
hỏi tu từ, hỏi không yêu cầu trả lời. Ở đây, nhà thơ tự phân thân ra để tự hỏi mình.
Câu hỏi thoáng chút trách móc, hờn giận, nhưng chủ yếu là bộc lộ nỗi lòng nhà thơ.
Câu thơ bảy tiếng thì có sáu tiếng đầu liên tục là thanh bằng. Sáu thanh bằng liên tục
ấy tạo ra âm hưởng chơi vơi. Có lẽ nỗi nhớ chơi vơi về thôn Vĩ khiến Hàn Mặc Tử đã
mở đầu bài thơ bằng âm hưởng chơi vơi ấy. Cuối câu hỏi là một thanh sắc chói gắt,
xoáy vào lòng người, làm người đọc cảm nhận được nỗi xót xa, tiếc nuối vì đã không
trở về thôn Vĩ thân yêu. Câu thơ bộc lộ rõ nỗi nhớ chơi vơi và niềm xót xa tiếc nuối
của thi sĩ khi không có cơ hội trở về thôn Vĩ.
Sau câu hỏi như mời gọi ấy là bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ. Đó là cảnh ở một
khu vườn thôn Vĩ vào buổi sáng bình minh, có những ánh nắng đầu tiên của một ngày
chiếu dọi lên hàng cau và cả khu vườn ánh lên sắc xanh như ngọc. Cảnh thôn Vĩ được
nhìn từ xa nên sự vật đầu tiên mà tác giả trông thấy là “nắng hàng cau” – nắng ban
mai chiếu trên hàng cau cao vút. Đó là thứ “nắng mới lên”, thứ nắng gợi ra sự ấm áp,
trong trẻo, tinh khôi. Điệp từ “nắng” hai lần trong câu hai gợi tả một không gian tràn
ngập ánh nắng, dường như cả khu vườn đang tắm gội dưới ánh bình minh. Tới gần
hơn, nhà thơ nhìn thấy vườn “xanh” “mướt” “như ngọc”. “Mướt” là từ tả độ bóng, sự
óng ả, mượt mà tràn đầy sức sống của cây lá trong vườn. Từ cảm thán “quá” như một
tiếng reo vui kinh ngạc trước vẻ đẹp bất ngờ của khu vườn. Nó lại ánh lên sắc “xanh
như ngọc”. Có lẽ, vào buổi sáng sớm, cây lá còn đẫm sương đêm, được ánh nắng dọi
lên nên ánh lên long lanh “như ngọc”. Cảnh thôn Vĩ hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ
thật gần gũi, thật đẹp, thật trong trẻo, tinh khôi.
Thấp thoáng sau cảnh vật là hình ảnh con người. Con người thôn Vĩ hiện ra với
khuôn “mặt chữ điền” – khuôn mặt của người phúc hậu, hiền lành. Khuôn mặt ấy lại
thấp thoáng đằng sau “lá trúc” nên càng trở nên duyên dáng, đáng yêu.
Cả khổ thơ một là bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ vào buổi bình minh đẹp trong
trẻo, tinh khôi, tràn đầy sức sống và con người thôn Vĩ phúc hậu, duyên dáng, đáng
yêu. Đằng sau bức tranh có cảnh và người đó, người đọc cảm nhận được tấm lòng yêu
đời, yêu người đáng quý của nhà thơ bất hạnh.
b 2. Khổ thơ thứ hai : chuyển sang một cảnh khác: cảnh dòng sông đêm trăng
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Gió - mây là đôi bạn tâm giao trong vũ trụ. Gió thổi đưa mây bay đi, cả hai cùng
hướng. đó là quy luật tự nhiên. Nhưng trong câu thơ của Hàn Mặc Tử thì “gió theo lối
gió, mây đường mây”, gió - mây chia lìa đôi nẻo. đây không còn là hình ảnh của thị
giác nữa, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa của một con người luôn sợ
sẽ phải xa rời trần thế. Mặc cảm ấy đã chia lìa cả những thứ tưởng như không thể chia
lìa. Ở câu hai, “dòng nước” được miêu tả “buồn thiu”. Dòng nước trôi chậm, lững lờ
đến tĩnh lặng. “Hoa bắp” thì chỉ “lay” nhẹ, chuyển động khẽ khàng, vô hồn. Cảnh thật
tĩnh lặng, mang đậm nỗi buồn, hiu hắt. So với khổ thơ đầu, cảnh ở đây hoàn toàn
khác. Nắng tắt, chiều xuống, rồi trăng lên. Câu ba, câu bốn tả cảnh dòng sông có trăng
soi chiếu. Chắc trăng sáng lắm nên soi tỏ con thuyền. Thuyền “chở” đầy trăng, cả
dòng nước tràn đầy ánh trăng trở thành dòng “sông trăng”. Đêm trăng thật đẹp, thật
lung linh, huyền ảo. Thế mà có gì đó nghe da diết mà khắc khoải : “Có chở trăng về
kịp tối nay?”. Câu hỏi tu từ và động từ “kịp” gợi ra sự chờ đợi đến khắc khoải. Có về
“kịp” tối nay không? Dường như, nếu trăng không về “kịp” thì kẻ bị số phận bỏ rơi
trong đau khổ ấy sẽ hoàn toàn tuyệt vọng, đau thương. Với các thi nhân, trăng là
người bạn thân thiết. Lí Bạch bất chợt bắt gặp ánh trăng ở đầu giường thì nhớ về quê
hương (“Tĩnh dạ tứ” - Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh). Bác Hồ của chúng ta ở trong
tù có trăng làm bạn (“vọng nguyệt” - Ngắm trăng), khi ra tù làm cách mạng lại có
trăng cùng “bàn bạc việc quân” (“Nguyên tiêu” - Rằm tháng giêng)…Còn với Hàn
Mặc Tử lúc này, trăng là tri âm tri kỉ, là cứu cánh duy nhất để con người bất hạnh này
thoát khỏi cô đơn và mặc cảm chia lìa. Nỗi niềm khắc khoải chờ đợi trăng ấy của nhà
thơ khiến người đọc nhận ra khát khao giao cảm với đời, với người của thi nhân.
b3. Khổ thơ cuối: Nếu như khổ một, khổ hai nỗi nhớ chủ yếu hướng về cảnh thì
khổ thơ thứ ba lại hướng về con người:
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Con người hiện ra trong “mơ” hư ảo, chập chờn. Đó lại là “khách đường xa”, là
khách ở nơi xa xôi. Phép điệp lặp lại hai lần cụm từ “khách đường xa” càng tô đậm
thêm sự xa xôi, hư ảo. Đến câu thơ thứ hai, dường như thiếu nữ thôn Vĩ hiện ra rõ
ràng hơn trong màu “trắng” của “áo em”. Sắc “trắng” được cực tả “trắng quá” để
miêu tả vẻ đẹp trong trắng, trinh khiết của “em”. Nhưng sắc trắng ấy cũng làm tôi
“nhìn không ra”. Thì ra là vậy. “Em” vẫn chập chờn, hư ảo quá, xa xôi quá, khó với
tới quá. Với tôi, em là như vậy. Niềm đau ấy khiến thi sĩ quay trở lại với thực tại của
mình: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây”, nơi tôi đang sống đây, trong cõi
lòng tôi đây, thì chỉ còn là “sương khói mờ nhân ảnh”, chỉ còn sự u ám, lạnh lẽo, cô
đơn. Cuối bài thơ là một câu hỏi : “Ai biết tình ai có đậm đà?” Tình yêu đơn phương
với Hoàng Cúc khiến nhà thơ day dứt, băn khoăn: Không biết, em có biết tình tôi
dành cho em đậm đà lắm hay không? Không biết tình cảm của em với tôi có chút gì
đậm đà chưa? Câu thơ chứa đựng niềm day dứt mà vẫn rất tha thiết của một con
người đang yêu nhưng lại sợ tình yêu không thành. Nó khiến cho người đọc thêm cảm
thương cho thi sĩ tài hoa mà bạc mệnh, yêu say đắm mà suốt đời lại phải sống trong
cô đơn, tật bệnh.
b.4. Cuối cùng, không thể không nhắc đến đại từ “ai” rải rác trong bài thơ: Cả
bốn lần, đại từ phiếm chỉ này xuất hiện trong bài thơ đều mơ hồ, ám ảnh:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?”
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?”
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Con người nhà thơ nói đến là phiếm chỉ, xa vắng trong hoài niệm, mông lung
trong cảm xúc. Hi vọng về mối tình đơn phương ấy như đang nhạt nhòa theo sương
khói. Không chỉ thế, đại từ “ai” còn tạo ra nét duyên dáng “rất Huế” cho cả bài thơ.
c. Nghệ thuật cả bài thơ:
- Với trí tưởng tượng phong phú cùng với nghệ thuật so sánh, nhân hóa; thủ pháp lấy
động tả tĩnh, sử dụng câu hỏi tu từ và những hình ảnh sáng tạo, có sự hòa quyện giữa
thực và ảo, Hàn Mặc Tử đã dẫn người đọc trở về với thôn Vĩ thơ mộng, hữu tình;
đồng thời thể hiện lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc của nhà thơ.
d. Ý nghĩa văn bản:
- Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ và lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc
của nhà thơ.
* Đề luyện tập:
Đề 1: Phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Đề 2: Phân tích vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên trong khổ thơ sau:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc.
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
(“Đây thôn Vĩ Dạ” – Hàn Mặc Tử)
Đề 3: Cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử
Đề 4 :“Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước; là tiếng lòng của
một thi sĩ tha thiết yêu đời, yêu người.”
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- HMT để làm sáng tỏ ý kiến trên.
Đề 5: Tâm trạng nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ-Hàn Mặc Tử
* Hướng dẫn:
Đề 1: Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm:
+ Đây thôn Vĩ Dạ được rút ra từ tập Thơ điên. Khi hai người cùng ở Quy Nhơn, Hàn
Mặc Tử đã từng yêu thầm Hoàng Thị Kim Cúc. Khi về Huế, Hoàng Cúc nghe tin Hàn
Mặc Tử bệnh bèn gởi vào tặng Hàn Mặc Tử tấm bưu ảnh phong cảnh và lời chúc sớm
lành bệnh. Từ đó, đã gợi cho ông những kỉ niệm một thời từng sống ở Huế và sáng tác
bài thơ này.
+ Từ những kỉ niệm về Huế, nhà thơ đã khắc họa nên bức tranh tuyệt về cảnh vật,
con người xứ Huế. Đồng thời, mượn câu chuyện tình đơn phương của mình để kín
đáo gởi gắm tình yêu quê hương xứ sở.
III. Thân bài: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
1. Phân tích khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.
- Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân
thiết:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
- Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của
màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.
- Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt
chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương
vốn dĩ ở thôn quê.
2. Phân tích khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.
- Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình
thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi
nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồn thiu, chia sẻ với
tâm trạng nhà thơ.
- Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì
lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
- Câu phiếm định: "thuyền ai?", rồi lại "bến sông trăng". Quả thật, đúng như Hoài
Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong "Thi nhân Việt Nam": "Vườn thơ của người rộng
rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh".
3. Phân tích khổ cuối: Cảnh vật, con người đều chìm sâu vào mộng ảo.
- Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật
cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân
ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.
Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà thơ vẫn cứ
âm thầm muốn gởi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội
nghiệp:
Ai biết tình ai có đậm đà?
- Ta chưa thể quyết rằng cậu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến
mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê
hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà,
chan chứa tình quê đến thế.
III. Kết bài
- Hàn Mặc Tử đã ra đi khi hãy còn quá trẻ. Thế nhưng dấu ấn thơ Hàn Mặc Tử là
dấu ấn của trái tim nồng nàn, cuồng say, khát khao yêu và sống.
- Hàn Mặc Tử trong đời thơ của mình đã để lại cho đời những tác phẩm thơ mà ta
không dễ gì hiểu được vì sự kì dị và tính siêu thực của nó. Thế nhưng Đây thôn Vĩ
Dạ vừa siêu thực lại vừa gần gũi thông qua bức tranh cảnh vật, con người xứ Huế.
- Hàn Mặc Tử không sinh ra ở Huế. Thi nhân đến rồi lại đi, mang theo một bóng
hình, một kỉ niệm đẹp khó phôi pha.
- Cũng như các bài thơ trữ tình khác, mạch cảm xúc bao giờ cũng thuộc về chủ thể
trữ tình. Riêng Hàn Mặc Tử, mầm li biệt dường như là một ám ảnh khôn nguôi trong
thơ ông. Phải chăng vì căn bệnh ngặt nghèo nên tất cả như phân chia thành hai vùng
sáng - tối, đôi mảnh tâm trạng nhưng đều đựng sự chi phối của một dự cảm, một thực
tiễn mất mát - chia lìa. Có lẽ "Đây thôn Vĩ Dạ" cũng không phải là ngoại lệ?
--------------------
Đề 2: cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài Đây thôn Vĩ Dạ
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
- Dẫn dắt vấn đề: Hình ảnh tinh khôi, thuần khiết của phong cảnh và con người xứ
Huế được mô tả thông qua hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
2. Thân bài
* Khổ 1:
- Câu thơ đầu:
Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ: làm cho mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng
khuâng, khó tả.
Câu hỏi tu từ vừa như một lời mời gọi vừa như có sự trách móc, hờn dỗi.
- Ba câu thơ sau: khung cảnh và con người Vĩ Dạ
Nắng hàng cau, nắng mới lên: hình ảnh buổi sớm mai với những tia nắng vừa rực rỡ
vừa dịu dàng, trong trẻo.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc:
Biện pháp so sánh: khiến cho cảnh vật nơi đây hóa thành chốn hữu tình.
“Mướt”: gợi lên một sức sống đầy mãnh liệt, mọi thứ đều tươi mới, tràn trề sự sống..
Nhịp thơ uyển chuyển, kết hợp với từ ngữ mang tính hình tượng cao -> cảnh vật nơi
đây như càng thêm huyền bí, đẹp đẽ.
- Câu cuối của khổ thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” gợi ra nhiều suy nghĩ và
liên tưởng.
Hình ảnh của một vườn trúc xanh tươi, che mát một khoảng sân của một ngôi nhà.
Vẻ đẹp e ấp của một cô gái xứ Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi ra vẻ đẹp duyên
dáng mà cũng kín đáo.
* Khổ 2: Sự chuyển biến về tâm trạng của nhân vật trữ tình – tâm trạng nặng trĩu.
Hai câu thơ đầu: gợi cảnh chia lìa sầu não đến sâu thẳm.
Điệp từ “gió” và “mây” cùng nhịp điệu của câu thơ -> khiến khung cảnh chia li hiện
lên rõ ràng.
Hình ảnh trăng gợi lên cho người đọc một niềm tin, niềm hi vọng.
Nghệ thuật ẩn dụ, câu hỏi tu từ “có chở trăng về kịp tối nay”: gợi lên nỗi khao khát,
chờ đợi nhưng đồng thời cũng mang một dự báo, một sự lo lắng phân vân.
Đại từ phiếm chỉ “Ai”
3. Kết bài
Tóm lược lại ý chính của nghệ thuật và nội dung của hai khổ thơ đầu.
Nghệ thuật: sử dụng nhiều biện pháp tu từ, hình ảnh thơ trong sáng, gợi nhiều liên
tưởng.
Nội dung: Miêu tả khung cảnh nên thơ, bình dị của thôn Vĩ và sự chuyển biến tâm
trạng của nhân vật trữ tình trong hai khổ thơ đầu.
--------------------------
Đề 4
1/ Giới thiệu vấn đề :
- Giới thiệu khái quát về tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- Giới thiệu luận đề : “Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước; là
tiếng lòng của một thi sĩ tha thiết yêu đời, yêu người.”
2/ Phân tích
a. Bức tranh đẹp về một miền quê đất nước :
- Khổ thơ thứ nhất :
+ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi làm sống dậy kỷ niệm về thôn Vĩ, nói
rộng hơn về xứ Huế, trong tâm hồn đằm thắm và thơ mộng của Hàn Mặc Tử. Cảnh
buổi sớm nơi thôn Vĩ: Nắng mới lên, chiếu sáng, lấp loáng những hàng cau. Vĩ Dạ có
những hàng cau thẳng tắp thân cao vượt lên trên các mái nhà và những tán cây.
Những tàu cao con bóng loáng sương đêm như hút lấy ánh sáng lúc ban mai.
+ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” là câu thơ không có gì đặc sắc tân kỳ lắm về
mặt sáng tạo hình ảnh và từ ngữ, nhưng càng nghĩ càng thấy tả những vườn cây tươi
tốt, xum xuê của Vĩ Dạ cũng chỉ có thể nói như thế mà thôi. Mỗi ngôi nhà ở Vĩ Dạ,
nói chung ở Huế, được gọi là những nhà vườn. Vườn bọc quanh nhà, gắn với ngôi nhà
xinh xinh thường là nhà trệt, thành một cấu trúc thẩm mĩ chặt chẽ. Xuân Diệu gọi mỗi
cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt. Vì thế vườn được chăm sóc chu đáo
– Những cây cảnh và cây ăn quả đều xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ, dường như được
cắt tỉa, lau chùi, mài giũa thành những cành vàng lá ngọc. Sự ví von ở đây được nâng
lên theo hướng cách điệu hoá. Khuynh hướng cách điệu hóa được đẩy lên cao hơn
nữa ở câu thứ tư: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Đã gọi là cách điệu hóa thì không
nên hiểu theo nghĩa tả thực, tuy rằng cách điệu hoá cũng xuất phát từ sự thực: thấp
thoáng đằng sau những hàng rào xinh xắn, những khóm trúc, có bóng ai đó kín đáo,
dịu dàng, phúc hậu.
- Khổ thơ thứ hai, dòng kỷ niệm vẫn tiếp tục. Nhớ Huế không thể không nhớ dòng
sông Hương. Dòng sông Hương, gió và mây. Con thuyền ai đó đậu dưới ánh trăng nơi
vắng... Bốn câu thơ như diễn tả cái nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi của Huế.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Cái tinh tế ở đây tả làn gió thổi rất nhẹ, không đủ cho mây bay, không đủ cho nước
gợn, nhưng gió vẫn run lên nhè nhẹ cho hoa bắp lay. Tất nhiên đây phải là cảnh sông
Hương chảy qua Vĩ Dạ lững lờ trôi về phía cửa Thuận. Đúng là nhịp điệu của Huế rồi.
Hai câu tiếp theo đầy trăng. Cảnh trong kỷ niệm nên cảnh cũng chuyển theo lôgic của
kỷ niệm. Cảnh sông Hương không gì thơ mộng hơn là dưới ánh trăng – Hàn Mặc Tử
cũng không mê gì hơn là mê trăng. Trăng trở thành nhân vật có tính huyền thoại trong
nhiều bài thơ của ông. Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí hư
ảo, như là trong mộng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Phải ở trong mộng thì sông mới có thể là “sông trăng” và thuyền mới có thể “chở
trăng về” như một du khách trên sông Hương... Hình ảnh thuyền chở trăng không gì
mới, nhưng “sông trăng” thì có lẽ là của Hàn Mặc Tử.
- Khổ thứ ba: Người xưa nơi thôn Vĩ.
Nhớ cảnh không thể không nhớ người. Người phù hợp với cảnh Huế không gì hơn là
những cô gái Huế. Ai làm thơ về Huế mà chẳng nhớ đến những cô gái này (Huế đẹp
và thơ của Nam Trân. Dửng dưng của Tố Hữu...) Khổ thơ dường như mở đầu bằng
một lời thốt ra trước một hình ảnh ai đó tuy mờ ảo nhưng có thực:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Mờ ảo vì “khách đường xa” và “nhìn không ra” nhưng có thực vì “áo em trắng quá”.
Hình ảnh biết bao thân thiết nhưng cũng rất đỗi xa vời. Xa, không chỉ là khoảng cách
không gian mà còn là khoảng cách của thời gian, và mối tình cũng xa vời – vì vốn xưa
đã gắn bó, đã hứa hẹn gì đâu. Vì thế mà “ai biết tình ai có đậm
đà?”
“Ai” là anh hay là em? Có lẽ là cả hai. Giữa hai người (Hàn Mặc Tử và cô gái mà nhà
thơ đã từng thầm yêu trộm nhớ) là “sương khói” của không gian, của thời gian, của
mối tình chưa có lời ước hẹn, làm sao biết được có đậm đà hay không? Lời thơ cứ
bâng khuâng hư thực và gợi một nỗi buồn xót xa. Nhưng khổ thơ không chỉ minh hoạ
cho mối tình cụ thể giữa nhà thơ và người bạn gái. Đặt trong dòng kỷ niệm về Huế, ta
thấy hiện lên trong sương khói của đất kinh đô hình ảnh rất đặc trưng của các cô gái
Huế. Những cô gái Huế thường e lệ quá, kín đáo quá nên xa vời, hư ảo quá. Những cô
gái ấy khi yêu, liệu tình yêu có đậm đà chăng? Đây không phải là sự đánh giá hay
trách móc ai. Tình yêu càng thiết tha, càng hay đặt ra những nghi vấn như vậy.
b. Tiếng lòng của một thi sĩ tha thiết yêu đời, yêu người:
- Tình trong thơ bao giờ cũng là tình riêng. Nhưng tình riêng chỉ có ý nghĩa khi nói
được tình của mọi người. Phép biện chứng của tình cảm nghệ sĩ là như vậy. Đối với
sự tiếp nhận của người đọc, nổi lên trước hết trong khổ thơ này, cũng như trong toàn
bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế.
- Bài thơ là một mạch liên tưởng từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Quá khứ trong
trẻo, ấm áp và đầy sức sống; hiện tại hiu hắt, buồn bã, chia lìa; tương lai xa xôi nhạt
nhòa trong sương khói. Đồng thời với dòng thời gian là sự di chuyển cảm xúc từ cõi
thực qua cõi mơ để cuối cùng tới cõi hư vô. Qua dòng thời gian và không gian người
đọc có thể nhận ra tình yêu say đắm, mãnh liệt của một thi sĩ lãng mạn với cuộc đời
cùng nỗi bất hạnh, đau đớn, tuyệt vọng của ông khi phải chia lìa, cách biệt với cuộc
đời.
3/ Đánh giá chung:
- Bài thơ là một bức tranh đẹp về thôn Vĩ Dạ - xứ Huế - một miền quê đất nước.
- Bài thơ còn là tiếng lòng của một thi sĩ tha thiết yêu đời, yêu người.
- Bút pháp nghệ thuật đặc sắc (cách dùng từ, đặt câu, tạo nhịp điệu, các biện pháp tu
từ) đã góp phần làm rõ tâm trạng cảm xúc của nhân vật trữ tình cũng như miêu tả bức
tranh thiên nhiên.
-----------------------------
Đề bài: Dàn ý tâm trạng nhân vật trữ tình trong Đây thôn Vĩ Dạ
I/ Mở bài:
- Giới thiệu một cách ngắn gọn tác giả tác phẩm( không nên quá tham chép các thông
tin trong sgk, tránh dài và không cần thiết)
- Giới thiệu và cảm nhận về sự nghiệp, phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử.
- Cảm nhận khái quát nhân vật trữ tình trong "Đây thôn vĩ dạ"
II/ Thân bài:
a/ Tâm trạng khát khao được trở về với cuộc sống trần gian đầy tươi đẹp.
- Câu hỏi:" Sao anh không về chơi thôn Vĩ" vừa là lời mời( của một cô gái với tác
giả), vừa là lời trách( Hàn Mặc Tử tự trách chính bản thân mình sao đã quá lâu không
trở về thăm lại chốn xưa)-> Niềm khát khao được về lại một cuộc sống tươi đẹp, về
lại với mọi người.
- Hàn mặc tử khát khao được trở về thôn Vĩ, vì cuộc sống quá đẹp, tràn đầy sinh khí
và nhựa sống, Hàn Mặc Tử yêu say đắm vẻ đẹp đó:
+ ( Phân tích bức tranh khu vườn thôn Vĩ)
- Càng khao khát nhớ nhung, Hàn mặc tử lại càng tiếc nuối cuộc sống.
b/ Tâm trạng cô đơn của nhân vật trữ tình.
- Nhân vật trữ tình phải chịu đựng nỗi đau đầy bất hạnh: dù đang trong quãng thời
gian thanh xuân đẹp nhất cuộc đời nhưng lại phải xa lìa cuộc sống, xa lìa với tất cả
những gì thân thương nhất.
+ Hình ảnh gió đi đường gió/ mây đường mây làm liên tưởng đến bi kịch cuộc đời của
tác giả.
- Chính vì đau đớn, Hàn Mặc Tử chỉ còn cách tìm đến ánh trăng bầu bạn, điều này
cho thấy sự cô đơn đến tuyệt vọng của tác giả.
- Nhưng ánh trăng ấy có thể không về kịp, Hàn Mặc Tử bày tỏ nỗi lo lắng, bồn chồn.
- Hàn Mặc Tử thực sự khát khao được chia sẻ và đồng điệu.
c/ Tâm trạng hoài nghi.
- Hàn Mặc Tử nhận thức rõ sự khác biệt giữa thế giớ mình đang sống và thế giới của
mọi người
- Ông hoài nghi rằng trong một thế giới như vậy, thì" ai biết tình ai có đậm đà"?
=> Tâm trạng của nhân vật trữ tình mang nhiều sắc thái, cung bậc tình cảm cảm xúc,
thể hiện nhiều khía cạnh phức tạp.
III/ Kết bài.
- Khẳng định lại giá trị tác phẩm.
- Nêu cảm nhận của bản thân
------------------------------------------
4. CHIỀU TỐI (MỘ)- HỒ CHÍ MINH
* Kiến thức cơ bản:
Tác giả Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới.
Người không chỉ là một nhà cách mạng kiệt xuất mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn.
Người để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Một trong số
đó là bài thơ “Chiều tối”.
2. Tác phẩm Chiều tối
a- XX: Bài thơ thuộc tập thơ “Nhật kí trong tù” – viết trong khoảng thời gian người bị
chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và giải đi khắp các nhà lao ở tỉnh Quảng Tây
(Trung Quốc). “Chiều tối” là bài thứ 31 trong 134 bài của tập thơ, được gợi cảm hứng
trong lần Người bị giải đi từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo. Bài thơ được
viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.
b. Giá trị nội dung
Khắc họa sinh động hình ảnh thiên nhiên qua cánh chim và chòm mây cùng với hoạt
động của con người miền sơn cước khi màn đêm đang dần dần buông xuống
Tấm lòng nhân đạo cao cả, luôn luôn hướng tới ánh sáng, sự sống và tương lai của
Bác. Đặt trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ, khi đang bị tù đày, gông cùm xiềng xích
nhưng tâm hồn của con người ấy vẫn hoàn toàn tự do ta thấy ngời sáng lên vẻ đẹp của
người chiến sĩ - nghệ sĩ Hồ Chính Minh. Đó là một tình yêu thiên nhiên, tình thương
với những con người cùng khổ trong tâm hồn người thi sĩ và ý chí sắt đá trong suy
nghĩ của người chiến sĩ.
=> Bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét đẹp hiện đại; là sự kết hợp khéo
léo giữa chất thép và chất tình, giữa tinh thần của người thi sĩ và ý chí của người
chiến sĩ.
c. Giá trị nghệ thuật
- Bút pháp vừa đậm màu sắc cổ điển vừa thể hiện tinh thần cách mạng thời đại:
+ Cổ điển: Thể thơ tứ tuyệt hàm súc; bút pháp chấm phá, gợi hơn là tả; thi đề, hình
ảnh quen thuộc; nhân vật trữ tình hòa hợp với thiên nhiên, ung dung tự tại
+ Hiện đại : Nhân vật trữ tình chiếm vị trí chủ thể trong bức tranh phong cảnh. Tư
tưởng và hình tượng thơ vận động từ bóng tối , lạnh lẽo ra ánh sáng, ấm áp, luôn
hướng đến sự sống, lạc quan..
- Ngôn ngữ trong bài thơ hàm súc, chân thực nhưng giàu sức gợi, giàu cảm xúc khiến
bài thơ không chỉ chân thực mà còn mang cả tâm hồn của con người ấy.
Bác cũng sử dụng các biện pháp tu từ trong bài Chiều tối như: điệp ngữ vòng, ẩn dụ,
bút pháp miêu tả thời gian để vừa tả cảnh vừa tả tâm tư của chính mình, gửi gắm nỗi
lòng qua từng câu từng chữ.
* Đề luyện tập:
Đề 1: Em hãy nêu cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Bác trong bài thơ Chiều tối của Hồ Chí
Minh
Đề 2: Cảm nhận nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối - Hồ Chí Minh.
Đề 3: Phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối.
* Hướng dẫn:
1. Mở bài:
- Ai cũng mong muốn mình có một mái ấm gia đình, đó không có gì là xa lạ, khó hiểu
nhưng với Bác Hồ khiến tôi khá bất ngờ, suốt đời vì nước, vì dân, không một chút
riêng tư, bài thơ "Chiều tối" có lẽ đã hé mở cho chúng ta nhìn thấy một thoáng ước
mơ thầm kín về một mái ấm gia đình, một chỗ dừng chân trên con đường dài xa vạn
dặm.
2. Thân bài
"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không"
+ Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp
- Không gian rộng lớn cao xa, thoáng đãng nhưng gợn buồn ở sự trống vắng, lẻ loi.
- Đây là những chi tiết quen thuộc trong thơ ca tạo ra cho bài thơ mang một màu sắc
cổ điển
- Bức tranh cảnh vật mang nét đặc trưng của thơ cổ ước lệ, tượng trưng nhưng vẫn rất
gần gũi hoà hợp với nhân vật trữ tình, cánh chim mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn hay
chính là sự mỏi mệt của người tù sau một ngày đầy ải, chòm mây lẻ loi hay chính là
nỗi cô đơn của người tù nơi đất khách quê người, cảnh vật được bao phủ bởi tâm
trạng của nhân vật trữ tình, người tù như tìm thấy sự đồng cảm, sẻ chia từ thiên nhiên.
"Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng"
+ Ấm áp, vui vẻ
- Hình tượng thơ đã có sự chuyển động của thiên nhiên chuyển sang cuộc sống con
người, tâm trạng nhà thơ đang buồn cũng trở nên vui tươi, dường như nhà thơ đã quên
hẳn nỗi buồn của riêng mình để hoà nhập vào niềm vui của mọi người.
- Hình ảnh cô gái không phải thoáng qua để trang điểm cho bức tranh mà là trọng tâm
của bức tranh, cũng không phải cô gái khuê các, lãng mạn mà là người lao động, cái
đẹp trong cuộc sống đã đi vào trong thơ một cách tự nhiên tạo nên một vẻ đẹp khoẻ
khoắn, sinh động, bếp lửa rực hồng gợi nên một gia đình ấm áp, sum họp, nó là vẻ
đẹp của cuộc sống, đồng thời cũng là niềm khao khát mái ấm gia đình.
- Chuyển động thời gian bằng bút pháp liên tưởng rất đặc trưng của thơ Đường: dùng
cái sáng để tả cái tối. Chỉ khi bóng tối đã bao trùm thì bếp lửa mới rực hồng.
- Bản dịch thêm vào chữ "tối" không sai nhưng làm mất đi cái ý vị của thơ Đường.
3. Kết bài:
- Nêu cảm nhận chung của em về tâm hồn của Bác.
--------------------------
Đề 2: Cảm nhận nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối - Hồ Chí Minh
1. Mở bài – Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác của tập thơ Nhật kí trong tù: năm 1942, Hồ Chí Minh
trên con đường hoạt động cách mạng bị quân Tưởng Giới Thạch bắt ở Trung Quốc và
rơi vào cảnh ngộ tù đày gian lao khổ ải, trong lúc phong trào cách mạng ở nước ta
đang rất cần sự có mặt của Người.
– Nhật kí trong tù được viết trong một tình thế đặc biệt: "Ngâm thơ ta vốn không ham
– Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây". Một tập nhật kí chỉ nhằm ghi lại một cách
chân thật những gì tác giả nếm trải ở chốn lao tù, vậy mà qua Nhật kí trong tù, chúng
ta thấy hiện lên hình tượng nhân vật trữ tình Hồ Chí Minh – một tâm hồn lớn, một trí
tuệ lớn, một dũng khí lớn.
2. Thân bài
Cần làm nổi bật những nội dung cơ bản sau:
– Tâm hồn lớn: đó là một trái tim tràn đầy tình yêu thương và nhạy cảm trước thiên
nhiên, cuộc sống.
+ Một tâm hồn luôn rộng mở để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên: dù ở bất kì hoàn
cảnh nào (trong ngục, trên đường chuyển lao), dù thể xác luôn bị đày đoạ, Người vẫn
phát hiện và rung động trước cái đẹp (một làn hương hoa bay vào nhà ngục, một ánh
trăng lọt qua khe cửa buồng giam, một buổi chiều nơi núi rừng với "Chim ca rộn núi,
hương bay ngát rừng",…) bằng trái tim đồng điệu của một thi nhân.
+ Nhưng hơn hết, đó là một trái tim đồng cảm, yêu thương mọi thân phận, mọi cảnh
ngộ; đồng cảm với mọi nỗi buồn; trân trọng mọi niềm vui và lòng tốt của con người
(từ một tiếng khóc trẻ thơ, một cuộc gặp gỡ "Anh đứng trong cửa sắt
– Em đứng ngoài cửa sắt" đến hình ảnh một cô thiếu nữ xay ngô bên bếp lửa, một
cảnh "Làng xóm ven sông đông đúc thế – Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh", một
Trưởng ban họ Mạc "Chẳng dùng quyền thế, chỉ dùng ân",…). Trong bất kì hoàn
cảnh nào, Người đều quên đi nỗi buồn, nỗi đau của riêng mình để chia sẻ hết mình nỗi
buồn và niềm vui của con người.
– Trí tuệ lớn: đó là một trí tuệ sáng suốt, thể hiện ở tầm nhìn sắc sảo, sâu rộng trước
những biểu hiện của cuộc sống xung quanh:
+ Người đã nhận ra hiện thực xã hội Trung Hoa với tất cả mặt trái của nó và đã thể
hiện bằng một ngòi bút châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay (một xã hội Lai Tân "vẫn
thái bình” mà mọi guồng quay đều đảo ngược; một người phụ nữ có chồng trốn đi
lính đã được "Quan trên xót nỗi em cô quạnh – Nên lại mời em tạm ở tù";…).
+ Người đã nhận ra những quy luật sâu sắc từ những biểu hiện thường nhật của cuộc
sống (Trong ngục giờ đây còn tối mịt – Ánh hồng trước mặt đã bừng soi; Hết mưa là
nắng hửng lên thôi; Hết khổ lá vui vốn lẽ đời,…), để trong cảnh ngục tù, Người vẫn
suy nghĩ vẽ cách mạng, về trách nhiệm của một thi nhân – chiến sĩ: "Nhà thơ cũng
phải biết xung phong",..
– Dũng khí lớn: Hồ Chí Minh có một sức mạnh tinh thần lớn lao. Người luôn lạc quan
trước mọi cảnh ngộ chốn lao tù. Người cảm thấy mình dù bị xiềng xích, dây trói mà
vẫn như "khanh tướng vẻ ung dung", cảnh ghẻ lở mà "Gảy đàn, trong ngục thảy tri
âm",… Không một trở lực nào ngăn cản được trái tim và khối óc của Người. Hơn
mười ba tháng bị giam giữ, đày đoạ chốn ngục tù, Người vẫn nghĩ suy và cống hiến
cho cách mạng, vẫn ung dung tự tại, làm chủ bản thân mình.
3. Kết bài
– Một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn đã làm nên hình tượng một con
người luôn tự thấy mình là "khách tự do" giữa chốn lao tù. Một con người vừa ung
dung tự tại như một bậc hiền triết lại vừa chủ động, tự tin, phóng khoáng giữa thiên
nhiên, trời đất với một tấm lòng, một trái tim rộng mở "Ôm cả non sông, mọi kiếp
người" (Tố Hữu – Bác ơi!).
– Rút ra bài học nhận thức và hành động cho bản thân trước hình tượng Hồ Chí Minh
trong Nhật kí trong tù.
----------------------------------------
Đề 3: Phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối-HCM
1. Mở bài – Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác của tập thơ Nhật kí trong tù: năm 1942, Hồ Chí Minh
trên con đường hoạt động cách mạng bị quân Tưởng Giới Thạch bắt ở Trung Quốc và
rơi vào cảnh ngộ tù đày gian lao khổ ải, trong lúc phong trào cách mạng ở nước ta
đang rất cần sự có mặt của Người.
– Nhật kí trong tù được viết trong một tình thế đặc biệt: "Ngâm thơ ta vốn không ham
– Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây". Một tập nhật kí chỉ nhằm ghi lại một cách
chân thật những gì tác giả nếm trải ở chốn lao tù, vậy mà qua Nhật kí trong tù, chúng
ta thấy hiện lên hình tượng nhân vật trữ tình Hồ Chí Minh – một tâm hồn lớn, một trí
tuệ lớn, một dũng khí lớn.
2. Thân bài
2.1. Hai câu đầu – Bức tranh thiên nhiên
Phiên âm: Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ/ Cô vân mạn mạn độ thiên không
Dịch thơ: Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
a. Hình ảnh cánh chim – “quyện điểu”: Được vận dụng bút pháp chấm phá – thủ pháp
nghệ thuật quen thuộc trong Đường thi, bức tranh thiên nhiên của Hồ Chí Minh hiện
lên qua hình ảnh cánh chim tuy giản đơn nhưng giàu sức gợi.
* Gợi thời gian: Dựa vào sắc thái của cánh chim “quyện” (mệt), ta hình dung ra một
bầy chim tan tác, đang cố gắng vẫy đôi cánh mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn cực nhọc,
chúng bỏ lại phía sau bóng chiều tàn, bỏ lại những vất vả để sinh tồn mà tìm về chốn
nghỉ. Hoàng hôn trùm lên đất trời cũng là lúc đôi cánh “quy lâm” của chúng thêm
nặng với thanh trắc của từ “quyện” đè nặng lên từng chuyển động.
* Gợi không gian: Không chỉ gọi xuống bóng xế tà, cánh chim mỏi ấy trở thành điểm
nhấn, lột tả một không gian bao la, rộng lớn của núi rừng. Giữa khoảng trời mênh
mông vùng sơn cước, xa xa phía bìa rừng là bầy chim nhỏ cất cánh bay, theo từng lần
vỗ cánh, khi bóng của chúng càng thu nhỏ, bầu trời chiều càng trở nên im vắng, trống
trải, mênh mông hơn. Đây chính là nghệ thuật lấy động tả tĩnh thường được bắt gặp
trong thơ xưa.
* Gợi tâm trạng: Không phải người đi đường nào cũng có thể nhìn ra được vẻ mệt
mỏi ẩn sau cánh chim chiều, Hồ Chí Minh phải là người có tình yêu thiên nhiên sâu
sắc lắm, gắn kết với thiên nhiên vô cùng, mang cái hồn thi sĩ sâu lắng lãng mạn khôn
tả mới dùng được chữ “quyện” để miêu tả bầy chim đang tất tả bay về rừng kia.
Nhưng như vậy chưa đủ, Người không chỉ yêu, mà còn thấu hiểu cảnh. Bởi bản thân
Hồ Chí Minh cũng như cánh chim kia, mệt mỏi, ủ rũ, chán chường và cực nhọc. Bầy
chim về tổ sau một ngày kiếm mồi, tuy vất vả, nhưng vẫn còn tự do. Còn Bác, là tù
nhân bị áp giải từ nhà lao này sang nhà ngục kia, hành trình “năm mươi ba cây số một
ngày”, từ lúc “gà gáy một lần đêm chửa tan”. Qua bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc trưng
của Đường thi, nỗi khổ của người tù xa xứ đã được bộc lộ trọn vẹn trước người đọc
như vậy.
+ Nét cổ điển: Đây không phải lần đầu người đọc thấy nhà thơ gửi tâm trạng mình
vào cánh chim chiều. Ta đã nghe Nguyễn Du buồn than trong “Truyện Kiều”: “Chim
hôm thoi thóp về rừng”, cũng đã nghe tiếng lòng của Bà Huyện Thanh Quan trong hai
câu thơ trích bài “Chiều hôm nhớ nhà”: “Ngàn mai lác đác chim về tổ/ Rặng liễu bâng
khuâng khách nhớ nhà.” Tuy mỗi người một nỗi song ẩn dưới bóng chim, nỗi buồn
nào cũng da diết.
+ Nét hiện đại: Trong thơ Đường, người đọc dễ dàng bắt gặp những cánh chim lọt
thỏm giữa bầu không như trong thơ Liễu Tống Nguyên: “Thiên sơn điểu phi tuyệt/
Vạn kính nhân trung diệt” (“Nghìn non chim bay mất hút/ Muôn nẻo dấu người vắng
không”). Bên cạnh đó, những thi nhân xưa miêu tả cánh chim nhưng hầu như không
vẽ cho chúng một lối về, cánh chim cứ bay trong mông lung vô tận; nhà thơ nổi tiếng
của Trung Quốc, Vương Bột từng viết “Lạc hà dữ cô lộ tề phi” (“Ráng chiều với cò lẻ
cùng bay“) và cả Đỗ Phủ cũng “vẽ”: “Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên” (Một
hàng cò trắng bay vút lên trời xanh). Tuy nhiên, là một tác gia có phong cách nghệ
thuật đa dạng, độc đáo, Hồ Chí Minh không chịu gò bó những vần thơ của mình trong
khuôn khổ nét đẹp cổ điển mà thổi vào thơ linh hồn hiện đại. Cánh chim của Bác ủ rũ,
nhưng vẫn đập cánh bay về rừng “tìm chốn ngủ” để lấy sức cho một ngày dài tiếp
theo. Bác cho thấy sức sống và ý chí của bầy chim nhỏ, điều mà thơ xưa ít đề cập
tới.b. Hình ảnh chòm mây – “cô vân”: Cũng giống như “quyện điểu”, “cô vân” là hình
ảnh ước lệ tượng trưng, là thi liệu quen thuộc trong thơ Đường, là một trong những
nét chấm phá đặc sắc giữa khung cảnh “Chiều tối”.
5. TỪ ẤY- TỐ HỮU
* Kiến thức cơ bản:
1. Tác giả và bài thơ:
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam.
Con đường thơ của Tố Hữu gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách
mạng đầy gian khổ hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc. Ông
có nhiều tập thơ lớn với nhiều bài thơ hay, trong đó có “Từ ấy”. (Nêu vấn đề theo đề
bài).
2. Khái quát về bài thơ:
“Từ ấy” là tập thơ đầu tay của Tố Hữu, được sáng tác từ năm 1937 đến năm
1946. Tập thơ có ba phần: Máu lửa, Xiềng xích, Gỉai phóng. Bài thơ “Từ ấy” nằm
trong phần “Máu lửa” của tập thơ này. Bài thơ được viết để ghi nhận một kỉ niệm
đáng nhớ, tạo nên một bước ngoặt trong cuộc đời Tố Hữu, đó là khi nhà thơ được
đứng vào hàng ngũ những người cộng sản, phấn đấu vì một lí tưởng cao đẹp. Bài thơ
được viết theo thể thất ngôn, chia làm ba khổ, ghi lại những tâm trạng của nhà thơ khi
bắt gặp lí tưởng của Đảng.
3. Nội dung, nghệ thuật bài thơ:
3.1. Khổ thơ đầu, nhà thơ diễn tả niềm say mê, vui sướng khi gặp lí tưởng Cộng
sản:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim.
Hồn tôi là một vườn hoa lá.
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”
Hai câu đầu được viết theo bút pháp tự sự, nhà thơ kể lại một kỉ niệm không
quên của đời mình. “Từ ấy” là mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
cuộc đời cách mạng Tố Hữu, khi đó nhà thơ mới 18 tuổi, đang hoạt động sôi nổi trong
Đoàn Thanh niên Cộng sản Huế, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết nạp vào
Đảng. Bằng những hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt trời chân lí”, “chói qua tim”, Tố
Hữu khẳng định lí tưởng Cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn
nhà thơ. Nguồn sáng âý không phải là ánh thu vàng nhẹ hay ánh xuân dịu dàng, mà là
ánh sáng rực rỡ của một ngày “nắng hạ”. Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và
là mặt trời khác thường – “mặt trời chân lí”. Nếu mặt trời của đời thường tỏa ánh
sáng, hơi ấm và sự sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tưởng
đúng đắn, hợp lẽ phải. Cách gọi lí tưởng là “mặt trời chân lí” như thế thể hiện thái độ
thành kính, ân tình của nhà thơ. Thêm nữa, những động từ “bừng” – chỉ ánh sáng phát
ra đột ngột, “chói” – chỉ ánh sáng có sức xuyên mạnh, càng nhấn mạnh: ánh sáng của
lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm
hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng và tình cảm.
Ở hai câu sau, bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh đã
diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng
cộng sản. Nhà thơ thấy tâm hồn mình như một thế giới tràn đầy sức sống với hương
sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hót.
Đối với vườn hoa lá ấy thì còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Đối với tâm hồn
người thanh niên đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” thì còn gì đáng quý hơn khi có
một lí tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt. Tóm lại, Tố Hữu sung sướng đón nhận lí
tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh ánh sáng mặt trời. Chính lí tưởng cộng sản đã làm
tâm hồn nhà thơ tràn đầy sức sống, niềm yêu đời, làm cho cuộc đời có ý nghĩa hơn.
3.2. Khổ thơ thứ hai biểu hiện những nhận thức mới về lẽ sống:
“Tôi buộc hồn tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi,
Để hồn tôi với bao hồn khổ,
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao cái
“tôi” cá nhân chủ nghĩa. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm
mới về lẽ sống của ông là sự gắn bó hài hòa giữa cái “tôi” cá nhân và “cái ta” chung
của mọi người. Với động từ buộc, câu một thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và và
quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi” cá nhân để sống
chan hòa với mọi người “trăm nơi”. Với từ ‘trang trải” ở câu hai cho thấy tâm hồn nhà
thơ trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với những kiếp người
cùng khổ.
Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là
thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Câu ba khẳng định trong
mối liên hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao
khổ. Ở câu bốn, “khối đời” là một ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung
cảnh ngộ, đoàn kết chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể
hiểu : khi “cái tôi” chan hòa trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vào một tập thể cùng
lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội “mạnh khối đời”. Tóm lại, Tố Hữu đã đặt
mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ, ở đấy nhà
thơ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới.
3.3. Khổ thơ cuối cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu:
“Tôi đã là con của vạn nhà,
Là em của vạn kiếp phôi pha,
Là anh của vạn đầu em nhỏ,
Không áo cơm cù bất cù bơ.”
Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí
tưởng cộng sản không chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình
cảm ích kỷ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần
chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình cảm thân yêu ruột thịt. Những điệp từ “là”
cùng với các từ “con, em, anh” và số từ ước lệ “vạn” (chỉ số lượng đông đảo), nhấn
mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết, cho thấy nhà thơ đã
cảm nhận sâu sắc mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Cách
gọi quần chúng là “kiếp phôi pha” – chỉ những người lao động vất vả, thường xuyên
dãi nắng dầm mưa để kiếm sống; là “vạn đầu em nhỏ, không áo cơm cù bất cù bơ” –
chỉ những em bé không nơi nương tựa, phải sống lang thang vất vưởng nay đây mai
đó, đã cho thấy tấm lòng đồng cảm, xót thương chân thành của nhà thơ, đồng thời
cũng thấy được lòng căm giận của nhà thơ trước bao bất công, ngang trái của cuộc đời
cũ. Chính vì những kiếp người “phôi pha”, những em bé “không áo cơm cù bất cù bơ”
âý mà Tố Hữu sẽ hăng say hoạt động cách mạng. Họ cũng chính là đối tượng sáng tác
của nhà thơ.
4. Nghệ thuật cả bài thơ:
“Từ ấy” là tuyên ngôn cho tập thơ “Từ ấy” nói riêng và cho toàn bộ sáng tác của
Tố Hữu nói chung. Với những ẩn dụ, so sánh độc đáo; những hình ảnh thơ tươi sáng,
giàu ý nghĩa tượng trưng; ngôn ngữ gợi cảm giàu nhạc điệu và giọng thơ sảng khoái,
nhịp điệu thơ hăm hở, bài thơ đã thể hiện thành công niềm vui sướng, say mê rạo rực
của người thanh niên yêu nước Tố Hữu trong buổi đầu bắt gặp lí tưởng cộng sản. Từ
“Từ ấy” trở đi, Tố Hữu sẽ đấu tranh hết mình cho giai cấp cần lao.
5. Ý nghĩa văn bản:
Niềm vui lớn, lẽ sống lớn, tình cảm lớn trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cộng sản.
* Đề luyện tập:
Đề 1: Phân tích bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu.
Đề 2: Lí tưởng sống của thanh niên ngày nay qua bài thơ Từ ấy-Tố Hữu.
Đề 3: Phân tích hình tượng người chiến sĩ trong bài thơ Từ ấy- Tố Hữu và Chiều tối-
Hồ Chí Minh.
* Hướng dẫn:
Đề 1: Phân tích bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu.
1. Hoàn cảnh ra đời
Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca
của Tố Hữu, là cái mốc đánh dấu thời điểm (1937) và được kết nạp Đảng năm 1938 -
Tố Hữu giác ngộ và gặp ánh sáng lí tưởng cộng sản. Đó cũng chính là tuyên ngôn
nghệ thuật của Tố Hữu. Tự nhận định về Từ ấy, anh viết: "Từ ấy: là một tâm hồn
trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu
tranh".
2. Nội dung
Tâm nguyện cao đẹp của người thanh niên trẻ trung nhiệt tình cách mạng: Niềm
say mê mãnh liệt và vui sướng tràn trề cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển
biến sâu sắc trong tâm hồn khi gặp gỡ và được giác ngộ lí tưởng cộng sản.
3. Tứ thơ
Tứ thơ "Từ ấy" bắt nguồn từ cảm hứng của thời điểm Tô Hữu đón nhận lí tưởng
cách mạng.
II. Thân bài
1. Khổ 1: Diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng
- Hai câu đầu viết theo bút pháp tự sự: "Từ ấy trong tôi..." Từ ấy, là lúc nhà thơ
mới vào tuổi 18 thật trẻ trung được mặt trời "chân lí" cách mạng soi sáng đường đời.
Hình ảnh ẩn dụ "nắng hạ" cho nguồn nhiệt lượng cách mạng làm bùng sáng tâm hồn
nhà thơ, "mặt trời chân lí" là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa.
Câu thơ ca ngợi ánh sáng điệu kì của cách mạng. Đó là thứ ánh sáng của tư tường
cộng sản - ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.
- Hai câu thơ sau của khổ thơ đầu, chợt vụt thoát bay bổng, dạt dào cảm hứng lãng
mạn. Những vang động và vui tươi tràn ngập trong tâm hồn được so sánh bằng
những hình ảnh và âm thanh lấy từ thiên nhiên tạo vật: "vườn hoa lá", "đậm hương"
"rộn tiếng chim".
- Đón nhận ánh sáng cách mạng là Tố Hữu đã đón nhận một con đường thênh
thang tươi sáng cho cuộc đời, cho hồn thơ: một cuộc đời có ý nghĩa thiêng liêng, to
lớn, một hồn thơ bát ngát tình yêu cách mạng, yêu đồng bào.
2. Khổ 2: Biểu hiện những nhận thức về lẽ sông
- Hai dòng đầu : nhà thơ khẳng định quan niệm mới mẽ về lẽ sống là sự gắn bó hài
hòa giữa "cái tôi" cá nhân với "cái ta" chung của mọi người.
- Động từ "buộc" là một ngoa dụ để thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm
sắt đá của Tố Hữu để vượt qua "ranh giới" của "cái tôi" để chan hòa mọi người "Tôi
buộc lòng tôi với mọi người".
- Từ đó, tâm hồn nhà thơ vươn đến "trăm nơi" (hoán dụ) và "trang trải" sẻ chia
bằng những đồng cảm sâu sắc, chân thành và tự nguyện đến với những con người cụ
thể.
- Hai dòng thơ sau bộc lộ tình yêu thương con người bằng tình yêu giai cấp rõ ràng.
Nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ "Để hồn tôi với bao hồn khổ" và
từ đó như một biện chứng mang cái tất yếu là sức mạnh tổng hợp "Gần gũi nhau
thêm mạnh khối đời". Ta cũng gặp điều đó trong thơ Nguyễn Khoa Điềm — nhà thơ
trưởng thành trong thời kì chống Mĩ xâm lược: "khi chúng ta cầm tay mọi người -
Đất nước vẹn tròn, to lớn".
Tóm lại, Tố Hữu đã khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống, mà
chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.
3. Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ
- Trước khi gặp cách mạng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Khi ánh sáng
cách mạng như "Mặt trời chân lí chói qua tim", đã giúp nhà thơ vượt qua những tầm
thường ích kỉ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn đến một tình yêu "vẹn tròn to
lớn".
- Nhà thơ tự nhận mình "là con của vạn nhà" trong nghĩa đồng bào thiêng liêng
nhất; là em của "vạn kiếp phôi pha" gần gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp
đời lao khổ, bất hạnh, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương; là anh của "vạn đầu
em nhỏ" "cù bất cù bơ". Từ những cảm nhận ấy đã giúp nhà thơ say mê hoạt động
cách mạng với những thiết tha cao đẹp công hiến đời mình góp phần giải phóng đất
nước, giải phóng những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm lược.
II. Kết bài
- Hồn thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm biết ơn sâu sắc cách mạng.
- Thơ Tố Hữu rõ ràng là thơ trữ tình - chính luận, hướng người đọc đến chân trời
tươi sáng.
- Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một nhà thơ vô sản chân chính.
- Giọng thơ chân thành, sôi nổi, nồng nàn.
- Hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ giàu tính dân tộc.
-----------------------
Đề 2: Lí tưởng sống của thanh niên ngày nay qua bài thơ Từ ấy-Tố Hữu.
1. Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và nêu ra được vấn đề cần phân tích:
lí tưởng sống của thanh niên ngày nay qua bài Từ ấy.
Tham khảo một số đoạn mở bài mẫu sau:
Bài số 1:
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng nổi tiếng, ông có những tác phẩm thơ nổi tiếng
như Việt Bắc (1947-1954),Gió lộng (1955-1961), Ra trận (1962-1971), Máu và hoa
(1972-1977),…. Một trong những tác phẩm nổi tiếng là bài thơ Từ ấy. Bài thơ Từ
ấy là bài thơ mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ
đồng thời là một chân lí sống của tác giả trong cuộc sống. Chân lý sống của thanh
niên qua bài thơ được thể hiện rất rõ. Chúng ta cùng đi tìm hiểu chân lý sống của
người thanh niên qua bài thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn những vấn đề trong bài.
Bài số 2:
Trong những năm kháng chiến trường kì, Đảng Cộng Sản chính là ngòi châm cho
kho thuốc tinh thần của nhân dân. Chính ánh sáng mà Đảng Cộng Sản mang tới đã
phá tan đi bầu khí quyển nặng nề mờ mịt sương khói của thời đại, mở ra cả một chân
trời mới dấy lên trong lòng những lớp thanh niên của thời đại một lòng nồng nàn yêu
nước được âm ỉ cháy trong tim bấy lâu trở nên hừng hực khí thế cùng với lí tưởng
thiết tha cao cả với tổ quốc, với nhân dân, với cuộc đời mình. Những lí tưởng cao đẹp
này đã đi vào thơ cách mạng với tất cả nhiệt huyết dâng hiến để truyền cảm hứng cho
tất cả thanh niên mọi thời đại. Qua bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, ta không thể không
xúc động trước lí tưởng sống của người thanh niên trẻ mới giác ngộ lí tưởng Đảng và
cháy trong mình một khát vọng lớp thanh niên thời đại đáng tự hào.
2. Thân bài: Lý tưởng sống của thanh niên ngày nay qua bài Từ ấy
- Lý tưởng là gì?
là có mục đích cao đẹp
là cái mà ta muốn thực hiện trong tương lai
là mục đích phấn đấu, mục đích muốn hướng đến trong cuộc sống.
- Vì sao thanh niên cần phải sống có lí tưởng?
Có lí tưởng sẽ có hướng phấn đấu để vươn lên.
Lí tưởng sống cao đẹp là điều kiện để con người sống có ý nghĩa; giúp con người
hoàn thiện vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách.
- Lý tưởng thể hiện qua bài Từ ấy:
Sự giác ngộ lí tưởng Đảng của chàng thanh niên (hai câu đầu)
Những cảm xúc khát khao mãnh liệt của người thanh niên sau khi giác ngộ lí tưởng
(hai câu tiếp)
- Lí tưởng sống mà người thanh niên hướng tới:
Sống vì cộng đồng, sống chan hòa, đoàn kết, yêu thương (khổ 2)
Không phân biệt giai cấp, sống yêu thương đồng bào như máu thịt (khổ 3)
- Liên hệ tới thế hệ trẻ ngày nay
3. Kết bài: Khẳng định đây là lí tưởng cao đẹp, vĩ đại, là một trong những yếu tố tiên
quyết trong chiến thắng dân tộc. Nêu cảm nhận của em về lý tưởng sống của thanh
niên ngày nay qua bài Từ ấy.
--------------------------------------------------------------------------
PHẦN II: LÀM VĂN, TIẾNG VIỆT
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN:
I. Thao tác lập luận bác bỏ
1. Mục đích và yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ
- Khái niệm:
Bác bỏ là dùng lí lẽ và chứng cứ để gạt bỏ những quan điểm, ý kiến sai lệch, thiếu
chính xác; từ đó nêu lên ý kiến thuyết phục người nghe, người đọc.
- Mục đích: Nhằm phê phán cái sai để bảo vệ chân lí của đời sống và chân lí của nghệ
thuật.
- Yêu cầu:
+ Chỉ ra cái sai hiển nhiên, dùng lí lẽ và dẫn chứng khách quan, trung thực để bác bỏ
ý kiến, nhận định sai trái.
+ Khi bác bỏ cần có thái độ khách quan, đúng mực, có văn hóa tranh luận.
II. Cách bác bỏ
- Bố cục bài nghị luận bác bỏ:
+ Mở bài: Nêu rõ ý kiến sai lệch.
+ Thân bài: Dùng dẫn chứng kết hợp lí lẽ để bác bỏ.
+ Kết bài: Nêu ý kiến,quan điểm đúng hoặc rút ra bài học, việc làm cần thiết.
- Cách thức bác bỏ:
+ Nêu và phân tích quan điểm và ý kiến sai lệch, dẫn chứng minh họa tác hại của sai
lầm, dẫn chứng trái ngược để phủ nhận hoặc dùng lí lẽ trực tiếp phê phán sai lầm.
+ Khẳng định ý kiến, quan điểm đúng đắn của mình.
- Giọng điệu bác bỏ:
+ Rắn rỏi, dứt khoát.
+ Mang tính chiến đấu, có tính thuyết phục cao.
I. Tiểu sử tóm tắt
1.Mục đích,yêu cầu của tiểu sử tóm tắt
1/Tiểu sử tóm tắt là gì? Đó là một văn bản thông tin một cách khách quan trung thực
những nét cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp của một cá nhân.
2/Mục đích:Nhằm giới thiệu cho người đọc,người nghe về cuộc đời,sự nghiệp,cống
hiến của người được nói tới.
- Những hiểu biết đó giúp cho người quản lí tìm hiểu,theo dõi và sắp xếp,phân công
công việc hợp lí,hiệu quả.
- Ngoài ra nắm được tóm tắt tiểu sử của nhà văn,nhà thơ chúng ta có cơ sở hiểu đúng
,hiểu sâu về tác phẩm của họ.
3/Yêu cầu:
-Thông tin:khách quan,chính xác về người được nói tới.Do đó phải ghi cụ thể,chính
xác về số liệu,mốc thời gian,thành tích, đóng góp nổi bậc của người được nói đến
-Nội dung và độ dài:Cần phù hợp với mục đích viết tóm tắt
-Văn phong:Cần cô đọng,trong sáng,không sử dụng biện pháp tu từ
Cách viết Tiểu sử tóm tắt - Chọn tài liệu để viết tiểu sử tóm tắt: Cụ thể, chính xác, chân thực và tiêu biểu:
- Để chuẩn bị cho bài viết tiểu sử tóm tắt cần:
+ Phải sưu tầm những tài liệu tiêu biểu có liên quan (tài liệu đó phải mạng tính cụ thể,
chính xác, trung thực, toàn diện).
* Bản tiểu sử tóm tắt gồm 4 phần:
- Nhân thân
- Hoạt động xã hội
- Đóng góp, thành tựu tiêu biểu
- Đánh giá chung
III. LUYỆN TẬP
Viết tiểu sử tóm tắt
- Xác định mục đích và yêu cầu:
+ Mục đích: Giới thiệu một đoàn viên ưu tú tham gia ứng cử vào ban chấp hành Hội
liên hiệp thanh niên của tỉnh (thành phố).
+ Yêu cầu:
Phải khách quan chính xác
Thành tích, đóng góp của đoàn viên phải cụ thể về thời gian, số liệu
Bản tiểu sử ngắn gọn
Văn phong: trong sáng, cô đọng không sử dụng những yếu tố biểu cảm, phép tu từ
- Xác định nội dung trình bày trong bản tiểu sử:
+ Giới thiệu khái quát về nhân thân ( họ tên, ngày tháng năm sinh, trình độ học vấn,
nơi sinh sông…)
+ Các năng lực và kết quả học tập của ứng viên
+ Đánh giá, nhận xét chung về ứng viên đó.
- Tìm hiểu người giới thiệu để có những thông tin cần thiết.
- Viết tiểu sử tóm tắt
-----------------------------------------------------
ĐỀ TỰ LUYỆN TẬP
ĐỀ 1
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Nền tảng của sự thành công nằm ở tính kỷ luật tự giác và được thể hiện thông
qua sự tự chủ. Tự chủ là lòng can đảm được sử dụng đúng lúc, là khả năng tự chế
ngự và kiểm soát tất cả các trạng thái cảm xúc của bản thân. Nếu ví con người như
một chiếc thuyền thì tính tự chủ chính là bánh lái, giữ cho thuyền đi đúng hướng, vượt
qua những sóng gió của cuộc đời. Người hạnh phúc nhất chính là người có thể làm
chủ được bản thân.
Điềm tĩnh là một trong những biểu hiện của sự tự chủ. Người giữ được điềm
tĩnh luôn ẩn chứa trong mình nguồn sức mạnh to lớn. Điềm tĩnh giúp con người giữ
được sự sáng suốt trong khi những người khác không còn kiên nhẫn. Khi bị ai đó đổ
lỗi, khi mọi lời chỉ trích đều dồn về bạn, khi bạn liên tục vấp ngã hay khi bị bạn bè
quay lưng…ấy là những lúc bạn cần đến tính tự chủ và sự điềm tĩnh. Biết chế ngự bản
thân và giữ được sự điềm tĩnh, bạn sẽ có được bình yên cũng như sẵn sàng đấu tranh
cho những mục tiêu cao cả của đời mình. Hãy cố gắng giữ được vẻ bình tĩnh và cái
tâm bình thản, sáng suốt trong mọi tình huống, bạn nhé!
(Không gì là không có thể - George Matthew Adams, Thu Hằng dịch)
Đọc văn bản trên và thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Theo tác giả, những lúc bạn cần đến tính tự chủ và sự điềm tĩnh là lúc nào?
Câu 2. Chỉ ra và nêu tác dụng biện pháp tu từ trong câu: Nếu ví con người như một
chiếc thuyền thì tính tự chủ chính là bánh lái, giữ cho thuyền đi đúng hướng, vượt qua
những sóng gió của cuộc đời
Câu 3. Theo anh, chị, tại sao tác giả khẳng định: Người hạnh phúc nhất chính là
người có thể làm chủ được bản thân.
Câu 4. Thông điệp Anh/ chị mà tâm đắc nhất qua văn bản là gì? Nêu lí do chọn thông
điệp đó.
Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn
khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ ý nghĩa của sự tự chủ của con người trong cuộc
sống.
Câu 2. (5,0 điểm)
“...Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
( Trích Vội vàng- Xuân Diệu, Ngữ văn 11, tập 2, NXB HN 2017, Trang 23)
Anh/Chị cảm nhận đoạn thơ trên, từ đó nhận xét ngắn gọn về nét mới trong thơ Xuân
Diệu.
-------------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ 2
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Mặc dù chúng ta đang có một cuộc sống đầy đam mê và có những mục tiêu rõ
ràng để phấn đấu, nhưng chúng ta hẳn cũng khó lòng tránh được có lúc lâm vào
nghịch cảnh. Liệu chúng ta sẽ đứng dậy sau cơn phong ba đó, hay hoàn toàn bị gục
ngã. Điều này phụ thuộc vào cách chúng ta đối đầu với chúng. Trước những thác
ghềnh, chông gai trên đường khiến chúng ta cảm thấy nản lòng và hoài nghi, thì niềm
tin mãnh liệt vào bản thân là điều cần thiết hơn bao giờ hết để chúng ta vượt qua
những trắc trở đó.
Đôi khi niềm tin chúng ta có được cũng chỉ đơn giản là học được từ người
khác. Tìm hiểu xem những người đi trước đã đối phó với khó khăn tương tự như thế
nào giúp chúng ta tìm ra giải pháp cho mình. Những tấm gương về những con người
đầy nghị lực và giàu lòng quả cảm, có khả năng trụ vững sau bao cơn giông tố của
cuốc đời luôn là tâm điểm cho chúng ta noi theo.
Đó là nghị lực của Walt Disney trong việc thực hiện ước mơ của mình sau năm
lần phá sản. Bất chấp số phận, Helen Keller đã không cam chịu để người đời thương
hại. Ngược lại bà đã dũng cảm vượt qua nghịch cảnh, trở thành tấm gương sáng cho
hàng triệu người noi theo…
Niềm tin vào bản thân là nội lực thúc đẩy thái độ tích cực, dẫn dắt chúng ta đạt
được mục tiêu của mình. Thành công không bao giờ đến với những ai yếu đuối và có
thái độ buông xuôi.
( Điều kì diệu của thái độ sống, Mac Anderson, NxbTổng hợp TP.Hồ Chí Minh
năm 2008, tr14)
Đọc văn bản trên và thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Văn bản tập trung bàn về vấn đề gì?
Câu 2. Chỉ ra và nêu tác dụng biện pháp tu từ trong câu:"Trước những thác
ghềnh, chông gai trên đường khiến chúng ta cảm thấy nản lòng và hoài nghi, thì niềm
tin mãnh liệt vào bản thân là điều cần thiết hơn bao giờ hết để chúng ta vượt qua
những trắc trở đó."
Câu 3. Theo anh/ chị, việc đưa ra dẫn chứng hai nhân vật Walt Disney và Helen
Keller có tác dụng gì?
Câu 4. Anh chị có đồng tình với quan điểm: Đôi khi niềm tin chúng ta có được
cũng chỉ đơn giản là học được từ người khác hay không? Vì sao?
Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn
khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về sức mạnh nghị lực của con người trong cuộc
sống.
Câu 2. (5,0 điểm)
“... Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
( Trích Tràng giang- Huy Cận, Ngữ văn 11, tập 2, NXB HN 2017, Trang 29)
Phân tích đoạn thơ trên trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận để làm sáng tỏ vẻ
đẹp cổ điển và hiện đại.
------------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ 3
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Ở quanh con, người tử tế vẫn nhiều
Vẫn còn có bao điều tốt đẹp
Xa danh lợi hãy chịu nhiều thua thiệt
Hãy vì người, nếu mong họ vì con.
Rách cho thơm, dẫu đói thì phải sạch
Tình thương yêu không mua được bằng tiền
Cần gỗ tốt, nước sơn còn phải tốt
Oán bên lòng, ơn khắc dạ đừng quên.
Nếu vấp ngã, con tự mình đứng dậy
Muốn tập bơi, cứ nhảy xuống giữa dòng
Thà mất cả, cố giữ gìn danh dự
Sống thẳng mình, mặc kệ thế gian cong.
(Nói với con, Nguyễn Huy Hoàng ,Nguồn http://baophunuthudo.vn/article)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. Việc vận dụng tục ngữ dân gian trong đoạn thơ thứ hai có tác dụng gì?
Câu 3. Anh,chị hiểu nội dung các dòng thơ sau như thế nào?
Ở quanh con, người tử tế vẫn nhiều
Vẫn còn có bao điều tốt đẹp
Xa danh lợi hãy chịu nhiều thua thiệt
Hãy vì người, nếu mong họ vì con.
Câu 4. Những lời tâm sự “nói với con”của nhà thơ được thể hiện trong đoạn trích gợi
cho anh/chị suy nghĩ gì?
Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn
khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của việc “Sống thẳng mình” của con
người trong cuộc sống hôm nay.
Câu 2. (5,0 điểm)
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
( Đây thôn Vĩ Dạ- Hàn Mặc Tử)
Anh/Chị cảm nhận vẻ đẹp của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
---------------------------------------------------------------------------------------------
ĐỀ 4
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Khó có thể nói có ai đó là hoàn hảo, mặt nào cũng tốt, khi nào cũng tốt và ai
đó là hoàn toàn ngược lại, không có gì đáng giá cả, cuộc đời họ là một màu đen
tuyền.
Ngay cả người được coi là xấu nhất, nếu chịu khó nhìn kỹ, theo dõi kỹ, ta vẫn
cảm nhận được không ít điều hay lẽ phải với những nét hấp dẫn mà chưa chắc người
bình thường đã có. Còn người tốt thì cũng đừng có nghĩ rằng không có lúc nào họ
xấu hoặc có những mặt những tính chất khác người khó chịu, làm nhiều người phiền
muộn.
Vấn đề ta thường thấy ở đây là có người tốt nhiều, người tốt ít, người xấu
nhiều, người xấu ít hoặc người này bản chất là tốt hay người kia bản chất là xấu.
Nhà văn hóa M. Twain (Mỹ) có dùng một hình ảnh khá chí lý: "Ai cũng có một
vầng trăng và một đám mây đen". Câu nói đó có ý nghĩa tích cực là khuyên răn con
người hãy luôn làm cho ánh hào quang của vầng trăng thêm rực rỡ và xóa dần màu
xám xịt của đám mây đen. Người tốt cũng đừng chủ quan là mình sẽ không biến chất
và người xấu cũng không phải không giáo dục được, không tự tu dưỡng điều chỉnh
mình được.
Đời người là một sự phấn đấu không ngừng, một sự điều chỉnh bổ sung liên
tục.
(Phong cách sống của người đời, Nhà báo Trường Giang, https://www.chungta.com )
Đọc văn bản trên và thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Theo tác giả, Vấn đề ta thường thấy là vấn đề gì?
Câu 2. Chỉ ra và nêu tác dụng 01 biện pháp tu từ trong câu: "Ai cũng có một
vầng trăng và một đám mây đen".
Câu 3. Theo anh/chị,việc xóa dần màu xám xịt của đám mây đen thể hiện trong
văn bản có tác dụng gì?
Câu 4. Lời khuyên về người tốt và người xấu của tác giả gợi anh/chị suy nghĩ
gì?
Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn
khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ ý nghĩa sự phấn đấu không ngừng của con người
trong cuộc sống.
Câu 2. (5,0 điểm)
Phân tích hình tượng người chiến sĩ trong bài thơ Từ ấy- Tố Hữu và Chiều tối (Mộ)-
Hồ Chí Minh.
------------------------------------------------------------------------------
Chúc các em phòng dịch COVID- 19 thật tốt và làm bài tập đầy đủ!
Recommended