136
BKHOA HC VÀ CÔNG NGHCC AN TOÀN BC XVÀ HT NHÂN S: /BC-ATBXHN CNG HOÀ XÃ HI CHNGHĨA VIT NAM Độc lp - Tdo - Hnh phúc Hà Ni, ngày tháng 6 năm 2015 BÁO CÁO QUC GIA Vcông tác qun lý nhà nước trong lĩnh vc an toàn bc xvà ht nhân năm 2015 LI GII THIU Bc xđồng vphóng xđã được ng dng khá rng rãi nước ta và mang li hiu qucao trong các lĩnh vc ca đời sng kinh tế - xã hi, đặc bit trong y tế và công nghip. Đin ht nhân đang được các cơ quan có liên quan trin khai thc hin theo Nghquyết s41/QH12-NQ ngày 25/11/2009 ca Quc Hi vchtrương xây dng nhà máy đin ht nhân Ninh Thun. Tuy nhiên, vic ng dng bc xđồng vphóng xcũng như phát trin đin ht nhân đều tim n nguy cơ mt an toàn, có thgây nh hưởng đến con người và môi trường. Vì vy, công tác qun lý nhà nước van toàn bc xvà ht nhân cn phi được quan tâm đầu tiên khi trin khai các ng dng này. Cho nên, các nước đều phi thiết lp hthng khuôn khn lut pháp van toàn bc xvà ht nhân cũng như xây dng cơ quan pháp quy ht nhân để thc hin công tác qun lý nhà nước van toàn bc xvà ht nhân. Theo quy định ca Lut Năng lượng nguyên tnăm 2008 thì BKhoa hc và Công nghlà Cơ quan qun lý nhà nước van toàn bc xvà ht nhân, trong đó ti Điu 8 đã quy định Cơ quan an toàn bc xvà ht nhân thuc BKH&CN sgiúp Bthc hin chc năng qun lý nhà nước vlĩnh vc này. Vi vai trò ca Cơ quan an toàn bc xvà ht nhân thuc BKH&CN, trong nhng năm qua Cc An toàn bc xvà ht nhân đã nlc cgng trong vic hoàn thin khuôn khlut pháp, tăng cường năng lc thm định an toàn, đẩy mnh các hot động thanh tra, kim tra, đào to cán b,... góp phn thc hin tt công tác qun lý nhà nước van toàn bc xvà ht nhân Vit Nam. Đối vi lĩnh vc ng dng bc xđồng vphóng x, chúng ta đã ban hành vcơ bn đầy đủ các văn bn quy phm pháp lut, tchc tt công tác cp phép và thanh tra vic chp hành các quy định ca pháp lut. Tuy nhiên, trong nhng năm gn đây vn để xy ra các scmt an toàn và an ninh ngun phóng x, gây lo lng cho công chúng vhiu lc và hiu quca vic thc thi các quy định ca pháp lut van toàn bc xvà ht nhân, chng hn scmt ngun phóng xti Nhà máy sn xut thép Pomina 3 tnh Bà Ra-Vũng Tàu, svic mt ngun phóng xti Công ty cphn xi măng Bc Kn DATC, vvic tht lc ngun phóng xti Công ty cphn tp đoàn Tân Mai. Vđin ht nhân, chúng ta đã ban hành

Ộ ỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỘ Ủ NGHĨA VIỆT NAM CỤC AN TOÀN … · công chúng về hiệu lực và hiệu quả của việc thực thi các quy định của pháp luật

  • Upload
    others

  • View
    12

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CỤC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN

Số: /BC-ATBXHN

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Hà Nội, ngày tháng 6 năm 2015

BÁO CÁO QUỐC GIA Về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn bức xạ và hạt nhân

năm 2015

LỜI GIỚI THIỆU

Bức xạ và đồng vị phóng xạ đã được ứng dụng khá rộng rãi ở nước ta và mang lại hiệu quả cao trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt trong y tế và công nghiệp. Điện hạt nhân đang được các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện theo Nghị quyết số 41/QH12-NQ ngày 25/11/2009 của Quốc Hội về chủ trương xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận. Tuy nhiên, việc ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ cũng như phát triển điện hạt nhân đều tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn, có thể gây ảnh hưởng đến con người và môi trường. Vì vậy, công tác quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân cần phải được quan tâm đầu tiên khi triển khai các ứng dụng này. Cho nên, các nước đều phải thiết lập hệ thống khuôn khổn luật pháp về an toàn bức xạ và hạt nhân cũng như xây dựng cơ quan pháp quy hạt nhân để thực hiện công tác quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân.

Theo quy định của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 thì Bộ Khoa học và Công nghệ là Cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân, trong đó tại Điều 8 đã quy định Cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân thuộc Bộ KH&CN sẽ giúp Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Với vai trò của Cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân thuộc Bộ KH&CN, trong những năm qua Cục An toàn bức xạ và hạt nhân đã nỗ lực cố gắng trong việc hoàn thiện khuôn khổ luật pháp, tăng cường năng lực thẩm định an toàn, đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra, đào tạo cán bộ,... góp phần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân ở Việt Nam. Đối với lĩnh vực ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ, chúng ta đã ban hành về cơ bản đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức tốt công tác cấp phép và thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong những năm gần đây vẫn để xảy ra các sự cố mất an toàn và an ninh nguồn phóng xạ, gây lo lắng cho công chúng về hiệu lực và hiệu quả của việc thực thi các quy định của pháp luật về an toàn bức xạ và hạt nhân, chẳng hạn sự cố mất nguồn phóng xạ tại Nhà máy sản xuất thép Pomina 3 tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, sự việc mất nguồn phóng xạ tại Công ty cổ phần xi măng Bắc Kạn DATC, vụ việc thất lạc nguồn phóng xạ tại Công ty cổ phần tập đoàn Tân Mai. Về điện hạt nhân, chúng ta đã ban hành

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

2

về cơ bản đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật cho đến giai đoạn phê duyệt địa điểm và phê duyệt dự án đầu tư. Các bất cập trong một số văn bản do thiếu kinh nghiệm khi soạn thảo đã được Cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân trao đổi với chủ đầu tư nhà máy điện hạt nhân để tìm cách khắc phục không làm ảnh hưởng đến tiến độ của dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Công tác quản lý nhà nước về an ninh và thanh sát hạt nhân được quan tâm để bảo đảm thực hiện cam kết quốc gia tại các Hội nghị Thượng đỉnh an ninh hạt nhân từ năm 2010 và các điều ước quốc tế về an ninh và không phổ biến hạt nhân mà Việt Nam đã ký kết.

Với trách nhiệm của Cơ quan an toàn bức xạ và hạt nhân theo quy định tại Điều 8 của Luật NLNT, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân hàng năm xuất bản Báo cáo quốc gia về công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn bức xạ và hạt nhân ở Việt Nam bao gồm quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, an ninh nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân, cơ sở hạt nhân, thanh sát hạt nhân, thanh tra an toàn bức xạ và hạt nhân, quản lý phóng xạ môi trường, ứng phó sự cố, chuẩn đo lường bức xạ, kiểm soát chiếu xạ nghề nghiệp, chiếu xạ dân chúng, kiểm định và hiệu chuẩn, thực thi các điều ước quốc tế, hợp tác quốc tế, giới thiệu cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân ở trung ương và địa phương, hoạt động của Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia và Tiểu ban An toàn và an ninh hạt nhân.

Báo cáo là tài liệu tham khảo tốt cho các cấp lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; các Bộ, ngành và địa phương để hiểu rõ về thực trạng công tác quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân của Việt Nam năm 2015. Trên cơ sở đó sẽ có các chỉ đạo và đầu tư cần thiết để tăng cường năng lực quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân ở Trung ương và địa phương góp phần xây dựng và hoàn thiện đồng bộ, đầy đủ các cơ sở hạ tầng an toàn và an ninh hạt nhân của Việt Nam theo yêu cầu của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên phục vụ triển khai an toàn và hiệu quả các ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ cũng như xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở nước ta.

Vương Hữu Tấn

Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

3

MỤC LỤC

LỜI GIỚI THIỆU ........................................................................................................ 1

MỤC LỤC ................................................................................................................... 3

I. XÂY DỰNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ HƯỚNG DẪN PHÁP QUY VÀ TIÊU CHUẨN AN TOÀN .......................................................................... 8

1.1. Văn bản quy phạm pháp luật ................................................................................. 8

1.2. Thực hiện nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung Luật năng lượng nguyên tử ......................... 9

1.3. Xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật .............................................................. 9

II. CẤP PHÉP ............................................................................................................ 11

2.1. Giới thiệu về hệ thống cấp phép theo quy định của Luật Năng lượng nguyên tử . 11

2.2.Các loại giấy phép do Bộ trưởng Bộ KH&CN cấp ............................................... 11

2.3. Các loại giấy phép do Cục trưởng Cục ATBXHN cấp ........................................ 12

2.4. Các loại giấy phép do Giám đốc Sở KH&CN cấp ............................................... 13

2.5. Đánh giá chung về công tác cấp phép năm 2015 ................................................. 13

III. THANH TRA, XỬ LÝ VI PHẠM ....................................................................... 14

3.1. Giới thiệu về hệ thống thanh tra chuyên ngành an toàn bức xạ và hạt nhân ......... 14

3.2. Hoạt động thanh tra của Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia ............................. 15

3.2.2. Thanh tra, xử lý vi phạm các cơ sở ứng dụng bức xạ trong công nghiệp .......................................................................................................................... 16

3.2.3. Thanh tra, xử lý vi phạm các cơ sở hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT ................................................................................................................ 17

3.2.4. Thanh tra, xử lý vi phạm các cơ sở nghiên cứu và đào tạo ................. 17 3.2.5. Thanh tra, xử lý vi phạm các cơ sở y tế (Y học hạt nhân, xạ trị và X-

quang y tế) ......................................................................................................... 17 3.2.6. Thanh tra, xử lý vi phạm các cơ sở xuất nhập khẩu ........................... 18

3.3. Hoạt động thanh tra của các sở khoa học và công nghệ các tỉnh, thành phố trong cả nước ...................................................................................................................... 18

3.4. Đánh giá chung về công tác thanh tra, xử lý vi phạm về an toàn bức xạ và hạt nhân năm 2015 ................................................................................................................... 19

3.5. Kiến nghị - đề xuất qua hoạt động thanh tra ........................................................ 20

IV. THAM GIA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ .................................................................... 21

4.1. Thực hiện các công ước về an toàn hạt nhân ....................................................... 21

4.2. Thực hiện Điều ước quốc tế về không phổ biến hạt nhân .................................... 25

4.3. Tình hình triển khai thực hiện điều ước quốc tế về an ninh hạt nhân ................... 26

4.4. Tình hình khai thác sử dụng cơ sở dữ liệu của Trung tâm dữ liệu quốc tế của Tổ chức CTBTO phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ........................................................ 27

4.5. Hoạt động của Tổ Công tác liên bộ về điều ước quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân . 28

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

4

4.6. Thực thi các điều ước khác trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử: ...................... 29

4.7. Đánh giá chung tình hình thực hiện các điêu ước quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân .................................................................................................................................. 30

V. TÌNH HÌNH BẢO ĐẢM AN TOÀN BỨC XẠ TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG BỨC XẠ VÀ ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ ........................................................... 32

5.1. Công tác kiểm soát chiếu xạ cá nhân ................................................................... 32

5.2. Tình hình đảm bảo an toàn bức xạ của Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt ............ 33

5.3. Tình hình đảm bảo an toàn bức xạ tại các cơ sở chiếu xạ công nghiệp ................ 37

5.4. Tình hình đảm bảo an toàn bức xạ tại các cơ sở xạ trị và y học hạt nhân ............. 39

5.5. Tình hình đảm bảo an toàn bức xạ tại các cơ sở chụp ảnh phóng xạ công nghiệp 41

5.6. Tình hình đảm bảo an toàn bức xạ tại các cơ sở quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng ........................................................ 44

VI. AN TOÀN ĐỐI VỚI LÒ PHẢN ỨNG HẠT NHÂN ĐÀ LẠT ............................ 49

6.1 Giới thiệu chung: ................................................................................................. 49

6.2. Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật cho lò phản ứng nghiên cứu: ............ 49

6.3 Hoạt động quản lý an toàn lò phản ứng Đà Lạt .................................................... 49

6.4. Đánh giá chung về công tác bảo đảm an toàn lò phản ứng Đà Lạt năm 2015 ....... 50

VII. AN NINH NGUỒN PHÓNG XẠ, VẬT LIỆU HẠT NHÂN VÀ CƠ SỞ HẠT NHÂN ....................................................................................................................... 50

7.1. Tình hình quản lý an ninh nguồn phóng xạ ......................................................... 50

7.2. Tình hình quản lý an ninh vật liệu hạt nhân và cơ sở hạt nhân ............................. 51

7.3. Xây dựng năng lực hỗ trợ kỹ thuật phục vụ quản lý an ninh nguồn phóng xạ và vật liệu hạt nhân, cơ sở hạt nhân ...................................................................................... 52

VIII. THANH SÁT HẠT NHÂN ............................................................................... 54

8.1. Hoạt động thanh sát năm 2015 ............................................................................ 54

8.2. Xây dựng năng lực kỹ thuật phục vụ thanh sát hạt nhân ...................................... 55

8.3. Kết luận .............................................................................................................. 55

IX. QUẢN LÝ CHẤT THẢI PHÓNG XẠ, NGUỒN PHÓNG XẠ VÀ NHIÊN LIỆU HẠT NHÂN ĐÃ QUA SỬ DỤNG ............................................................................ 57

9.1. Giới thiệu về hệ thống quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng ............................................................................................. 57

9.2. Quản lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà lạt .................................................................................................................................. 58

9.3. Hoạt động của kho lưu giữ chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua sử dụng của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà lạt ......................................................................... 58

9.4. Hoạt động của kho lưu giữ nguồn phóng xạ đã qua sử dụng của Liên doanh dầu khí Vietsopetro ở Vũng Tàu. ...................................................................................... 59

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

5

9.6. Hoạt động xây dựng năng lực hỗ trợ kỹ thuật phục vụ quản lý nhà nước về chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ, nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng ....................... 60

X. ỨNG PHÓ SỰ CỐ BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN .................................................... 61

10.1. Tình hình xây dựng Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân quốc gia ........ 61

10.2. Tình hình xây dựng và phê duyệt kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân của các tỉnh, thành trong cả nước ..................................................................................... 61

10.4. Hoạt động diễn tập ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân ....................................... 62

10.5. Hoạt động thanh tra trong các trường hợp xảy ra sự cố ..................................... 62

10.6. Hoạt động xây dựng năng lực hỗ trợ kỹ thuật phục vụ công tác ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân ..................................................................................................... 63

XI. QUẢN LÝ PHÓNG XẠ MÔI TRƯỜNG ............................................................ 64

11.1. Giới thiệu chung về hệ thống quản lý phóng xạ môi trường .............................. 64

11.2. Hoạt động của trạm quan trắc tại trung tâm HTKT An toàn bức xạ hạt nhân và ứng phó sự cố - Cục An toàn bức xạ và hạt nhân ....................................................... 65

11.3. Hoạt động quản lý phóng xạ môi trường của địa phương .................................. 66

XII. HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ AN TOÀN DỰ ÁN ĐIỆN HẠT NHÂN NINH THUẬN ..................................................................................................................... 67

12.1. Công tác thẩm định Báo cáo phân tích an toàn cho NMĐHN Ninh Thuận 1 ..... 67

12.2. Công tác xử lý hồ sơ Báo cáo PTAT NMĐHN Ninh Thuận 2 ........................... 69

12.3. Tình hình thực hiện các kết luận thanh tra năm 2014 và kết quả thanh tra năm 2015 đối với Ban Quản lý dự án điện hạt nhân Ninh Thuận ....................................... 69

12.4. Công tác kiểm tra đánh giá địa điểm dự án ĐHN Ninh Thuận của HĐATHNQG và Bộ KH&CN .......................................................................................................... 70

XIII. HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO AN TOÀN BỨC XẠ VÀ ĐÀO TẠO CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT ............................................... 73

13.1. Giới thiệu chung về hoạt động đào tạo an toàn bức xạ và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Luật NLNT ................................................................... 73

13.2. Hoạt động đào tạo chuyên môn nghiệp vụ ......................................................... 73

13.3. Hoạt động đào tạo ATBX.................................................................................. 73

13.4. Hoạt động đào tạo nhân lực của Cơ quan pháp quy hạt nhân ............................. 74

13.5. Đào tạo theo các kênh hợp tác song phương ...................................................... 75

XIV. HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN .............................................. 78

14.1. Công tác thông tin tuyên truyền phổ biến pháp luật ........................................... 78

14.2. Công tác xuất bản các ấn phẩm của Cơ quan pháp quy hạt nhân ....................... 78

14.3. Duy trì và cập nhật thông tin trên Cổng thông tin điện tử của Cục ATBXHN ... 79

14.4. Hoạt động thông tin khoa học phục vụ công tác quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân ............................................................................................................ 79

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

6

14.5. Triển khai Đề án 370 về thông tin, tuyên truyền phát triển điện hạt nhân. ......... 80

14.6. Các hoạt động khác ........................................................................................... 81

14.7. Đánh giá chung ................................................................................................. 81

XV. HỢP TÁC QUỐC TẾ ......................................................................................... 82

15.1. Tổng quan về hoạt động hợp tác quốc tế về an toàn, an ninh và không phổ biến hạt nhân ..................................................................................................................... 82

15.2. Hợp tác đa phương ............................................................................................ 82

15.3. Hợp tác song phương ........................................................................................ 84

XVI. CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN Ở TRUNG ƯƠNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG ..................................................................... 87

16.1. Chức năng, nhiệm vụ ........................................................................................ 87

16.2. Mô hình tổ chức ................................................................................................ 88

16.3. Nguồn nhân lực ................................................................................................. 89

16.4. Ngân sách Nhà nước ......................................................................................... 90

16.5. Tình hình thu phí và lệ phí cấp phép ................................................................. 90

XVII. CÁC CƠ QUAN TƯ VẤN VỀ AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN .......... 91

17.1. Hoạt động của Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia (ATHNQG) năm 2015 ...... 91

17.2. Hoạt động cuả Tiểu ban An toàn và an ninh hạt nhân năm 2015 ....................... 96

17.3. Kết luận .......................................................................................................... 100

XVIII. CÁC SỰ CỐ BỨC XẠ NĂM 2015 VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ............ 102

18.1. Các sự cố bức xạ năm 2015 ........................................................................ 102

18.1.2. Sự cố mất nguồn phóng xạ tại Công ty cổ phần xi măng Bắc Kạn DATC. ............................................................................................................. 103

Việc sử dụng dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng hiện nay đã lỗi thời và hầu như không còn được các công ty sản xuất xi măng sử dụng, điều này dẫn đến nguy cơ tiềm ẩn đối với việc mất nguồn phóng xạ như ở Công ty cổ phần xi măng Bắc Kạn là khá lớn. Để tránh tình trạng này tái diễn cần chú trọng vào việc thống kê chính xác số lượng các nhà máy xi măng lò đứng trên cả nước, trên cơ sở đó có công văn nhắc nhở các cơ sở này chấp hành nghiêm túc các quy định đảm bảo an toàn an ninh các nguồn phóng xạ, không tự ý di dời các nguồn phóng xạ khỏi dây chuyền sản xuất, tiến hành thanh lý mua bán các nguồn mà không có sự báo cáo cáo xin ý kiến tới các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, hạt nhân (Cục ATBXHN, Sở KHCN địa phương). Các Sở KHCN cần ưu tiên quan tâm triển khai công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên đối với các cơ sở có dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng sử dụng nguồn phóng xạ trên địa bàn địa phương, nhắc nhở các cơ sở chấp hành tốt việc đảm bảo an ninh cho nguồn phóng xạ, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. ......................................... 104

18.2. Kế hoạch tăng cường công tác bảo đảm an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ ............................................................................................................................. 106

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

7

XIX. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN GIAI ĐOẠN 2011-2015 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG GIAI ĐOẠN 2016-2020 ............................................................................................................... 109

19.1. Kết quả giai đoạn 2011-2015 .......................................................................... 109

19.2. Định hướng nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2016-2020 .................................... 131

XX. CÁC PHỤ LỤC ............................................................................................... 136

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

8

I. XÂY DỰNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ HƯỚNG DẪN PHÁP QUY VÀ TIÊU CHUẨN AN TOÀN

1.1. Văn bản quy phạm pháp luật

a) Thực hiện kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.

Thực hiện kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân đã chủ trì soạn thảo, trình Bộ trưởng ban hành được 05 thông tư:

- Thông tư số 12/2015/TT-BKHCN ngày 20/7/2015 quy định về phân tích an toàn đối với nhà máy ĐHN điện hạt nhân.

- Thông tư số 28/2015/TT-BKHCN ngày 30/12/2015 ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với thiết bị chụp X quang tổng hợp dùng trong y tế”.

- Thông tư số 02/2016/TT-BKHCN ngày 25/3/2016 ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với thiết bị chụp cắt lớp vi tính dùng trong y tế”.

- Thông tư số 04/2016/TT-BKHCN ngày 4/4/2016 quy định về thẩm định báo cáo đánh giá an toàn bức xạ trong hoạt động thăm dò, khai thác quặng phóng xạ.

- Thông tư số 06/2016/TT-BKHCN ngày 22/4/2016 quy định về việc cấp Giấy đăng ký và cấp Chứng chỉ hành nghề đối với một số hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử.

Ngoài ra, Cục đã phối hợp với các đơn vị liên quan của Bộ Tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ soạn thảo, trình Lãnh đạo hai bộ ký ban hành Thông tư liên tịch số 112/2015/TTLT-BTC-BKHCN ngày 29/7/2015 hướng dẫn cơ chế phối hợp và xử lý trong việc kiểm tra, phát hiện chất phóng xạ tại các cửa khẩu.

b) Thực hiện nhiệm vụ xây dựng văn bản đột xuất do Lãnh đạo Bộ giao.

Thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ về tăng cường bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân đã chủ trì soạn thảo, trình Bộ trưởng ban hành Thông tư số 13/2015/TT-BKHCN ngày 21/7/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 23/2010/TT-BKHCN ngày 29/11/2010 về bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ.

c) Thực hiện nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung Kế hoạch 248

Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận, Bộ Khoa học và Công nghệ (đơn vị chủ trì là Cục An toàn bức xạ và hạt nhân) đã phối hợp với các Bộ ngành

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

9

liên quan tiến hành rà soát, đề xuất chỉnh sửa bản Kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phục vụ điện hạt nhân được phê duyệt theo công văn số 248/TTg-KTN ngày 19/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ để cập nhật, đề xuất ban hành Kế hoạch phù hợp hơn với tình hình thực tiễn và yêu cầu quản lý.

Trên cơ sở ý kiến của các Bộ ngành và tích hợp với Kế hoạch tổng thể về phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân (Quyết định 2241/QĐ-TTg); Bộ KH&CN đã dự thảo Khung văn bản quy phạm pháp luật phục vụ triển khai dự án Điện hạt nhân, đã xin ý kiến các Bộ ngành và đang hoàn thiện, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét ban hành.

1.2. Thực hiện nhiệm vụ sửa đổi, bổ sung Luật năng lượng nguyên tử

Việc sửa đổi, bổ sung Luật năng lượng nguyên tử tiếp tục được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2016 (Nghị quyết số 89/2015/QH13 ngày 09/6/2015). Được Chính phủ giao là cơ quan chủ trì, trong năm 2015 Bộ Khoa học và Công nghệ (đơn vị chủ trì là Cục An toàn bức xạ và hạt nhân) đã triển khai các nhiệm vụ thực hiện Dự án Luật năng lượng nguyên tử (sửa đổi), cụ thể:

- Ban hành Quyết định kiện toàn Ban soạn thảo và Tổ biên tập Dự án Luật (Quyết định số 2068/QĐ-BKHCN ngày 17/8/2015 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ).

- Tổ chức họp Ban soạn thảo và Tổ biên tập phiên thứ nhất vào ngày 24/9/2015.

- Tổ chức họp Tổ biên tập, chuyên gia để xây dựng dự thảo.

Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, Bộ Khoa học và Công nghệ đã có công văn đề nghị lùi thời gian trình Luật năng lượng nguyên tử (sửa đổi) đến năm 2018 (Công văn số 4438/BKHCN-PC ngày 17/11/2015) và đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đồng ý (Công văn số 10450/BKHCN-PC ngày 15/12/2015 của Văn phòng Chính phủ).

1.3. Xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật

Năm 2015, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ phối hợp với Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng lập kế hoạch xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn và nhiệm vụ thẩm định, công nhận việc áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn cho dự án nhà máy điện hạt nhân.

Cục ATBXHN đã phối hợp với TĐC hoàn thiện 11 TCVN về an toàn phục vụ triển khai Thông tư 30/2012/TT-BKHCN quy định về yêu cầu an toàn trong thiết kế NMĐHN. Hiện Cục đang thảo luận với các đơn vị có liên quan để hoàn thiện và ban hành các tiêu chuẩn này.

Liên quan đến thẩm định áp dụng các Tiêu chuẩn an toàn theo quy định tại Thông tư 21.2013/TT-BKHCN, Cục đã phối hợp với EVN chỉnh sửa bổ sung các nội dung còn bất cập của Thông tư 21/2013/TT-BKHCN. Hai bên đã thống nhất các nội dung cần chỉnh sửa và đã trình Bộ KH&CN để sớm ban hành

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

10

Thông tư 21 sửa đổi. Việc chỉnh sửa các bất cập của Thông tư 21 đã được các đối tác nước ngoài hợp tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân đánh giá cao, góp phần tạo điều kiện cho việc triển khai thuận lợi Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

11

II. CẤP PHÉP

2.1. Giới thiệu về hệ thống cấp phép theo quy định của Luật Năng lượng nguyên tử

Theo quy định của Luật Năng lượng nguyên tử (NLNT) hiện hành, các tổ chức cá nhân tiến hành công việc bức xạ sau phải có giấy phép:

a) Vận hành lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu và nhà máy điện hạt nhân; b) Vận hành thiết bị chiếu xạ gồm máy gia tốc; thiết bị xạ trị; thiết bị

chiếu xạ khử trùng, xử lý vật liệu và sử dụng các thiết bị bức xạ khác; c) Sản xuất, chế biến chất phóng xạ; d) Lưu giữ, sử dụng chất phóng xạ; đ) Thăm dò, khai thác, chế biến quặng phóng xạ; e) Làm giàu urani; chế tạo nhiên liệu hạt nhân; g) Xử lý, lưu giữ, chôn cất chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử

dụng và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng; h) Xây dựng, thay đổi quy mô và phạm vi hoạt động, chấm dứt hoạt động

của cơ sở bức xạ, cơ sở hạt nhân; i) Sử dụng vật liệu hạt nhân ngoài chu trình nhiên liệu hạt nhân; k) Nhập khẩu, xuất khẩu chất phóng xạ, vật liệu hạt nhân nguồn, vật liệu

hạt nhân và thiết bị hạt nhân; l) Đóng gói, vận chuyển vật liệu phóng xạ; m) Vận chuyển vật liệu phóng xạ quá cảnh lãnh thổ Việt Nam; n) Vận hành tàu biển, phương tiện khác có động cơ chạy bằng năng lượng

hạt nhân; o) Hoạt động khác tạo ra chất thải phóng xạ. Liên quan đến Nhà máy điện hạt nhân, Nghị định số 70/2010/NĐ-CP

22/6/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử về Nhà máy điện hạt nhân và một số các Thông tư do Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã được ban hành nhằm thiết lập quy trình thủ tục, nội dung thẩm định hồ sơ đề nghị cấp phép đối với nhà máy điện hạt nhân

Liên quan đến cấp phép đối với Lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu và các cơ sở hạt nhân khác, Bộ KH&CN đang xây dựng các hướng dẫn quy trình thủ tục và nội dung thẩm định hồ sơ đề nghị cấp phép đối với lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu.

Về cấp phép tiến hành công việc bức xạ liên quan đến các chất phóng xạ, nguồn phóng xạ và thiết bị bức xạ, Bộ KH&CN đã ban hành Thông tư số 08/2010/TT-BKHCN ngày 22/7/2010 hướng dẫn chi tiết về việc khai báo, cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ và cấp chứng chỉ nhân viên bức xạ đối với các công việc bức xạ.

2.2.Các loại giấy phép do Bộ trưởng Bộ KH&CN cấp

Theo quy định tại Điều 23 Thông tư 08/2010/TT-BKHCN - Thẩm quyền cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ và chứng chỉ nhân viên bức xạ, Bộ

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

12

Khoa học và Công nghệ cấp các loại giấy phép tiến hành công việc bức xạ và chứng chỉ nhân viên bức xạ sau:

a) Giấy phép vận hành thiết bị chiếu xạ;

b) Giấy phép sản xuất chất phóng xạ;

c) Giấy phép chế biến chất phóng xạ;

d) Giấy phép vận chuyển quá cảnh chất phóng xạ, vật liệu hạt nhân nguồn, vật liệu hạt nhân;

đ) Giấy phép đóng gói, vận chuyển vật liệu hạt nhân nguồn, vật liệu hạt nhân;

e) Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu hạt nhân nguồn, vật liệu hạt nhân và thiết bị hạt nhân;

g) Chứng chỉ nhân viên bức xạ cho kỹ sư trưởng lò phản ứng hạt nhân, trưởng ca vận hành lò phản ứng hạt nhân, người quản lý nhiên liệu hạt nhân, nhân viên vận hành lò phản ứng hạt nhân.

Năm 2015, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp 16 giấy phép cho 2 loại hình công việc bức xạ là vận hành thiết bị chiếu xạ và sản xuất chất phóng xạ (Phụ lục số 02)

2.3. Các loại giấy phép do Cục trưởng Cục ATBXHN cấp

Theo quy định tại Điều 23 Thông tư 08/2010/TT-BKHCN, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân có thẩm quyền cấp các loại giấy phép tiến hành công việc bức xạ và chứng chỉ nhân viên bức xạ cho các loại hình cụ thể như sau:

a) Sử dụng thiết bị bức xạ;

b) Sử dụng chất phóng xạ;

c) Lưu giữ chất phóng xạ;

d) Xử lý, lưu giữ chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng;

đ) Xuất khẩu chất phóng xạ;

e) Nhập khẩu chất phóng xạ, vật liệu hạt nhân nguồn, vật liệu hạt nhân, thiết bị hạt nhân;

f) Đóng gói, vận chuyển chất phóng xạ;

g) Xây dựng cơ sở bức xạ;

h) Thay đổi quy mô và phạm vi hoạt động cơ sở bức xạ;

i) Chấm dứt hoạt động cơ sở bức xạ.

j) Cấp chứng chỉ nhân viên bức xạ đảm nhiệm các công việc quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Năng lượng nguyên tử.

Năm 2015, Cục ATBXHN cấp 714 giấy phép các loại (bao gồm cả giấy phép xuất nhập khẩu, vận chuyển nguồn phóng xạ). (Phụ lục số 02)

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

13

2.4. Các loại giấy phép do Giám đốc Sở KH&CN cấp

Theo quy định tại Điều 23 Thông tư 08/2010/TT-BKHCN, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền cấp giấy phép sử dụng thiết bị X-quang chẩn đoán y tế, cấp chứng chỉ nhân viên bức xạ cho người phụ trách an toàn tại cơ sở X-quang chẩn đoán y tế hoạt động trên địa bàn.

Năm 2015, Các Sở KH&CN đã cấp (Phụ lục số 3): 1164 giấy phép sử dụng thiết bị X quang chẩn đoán y tế.

2.5. Đánh giá chung về công tác cấp phép năm 2015

Công tác cấp phép của Cục ATBXH - Công tác cấp phép nhìn chung đáp ứng tốt các yêu cầu đòi hỏi của

nhiệm vụ quản lý nhà nước theo phân công của Bộ KH&CN, được các cơ sở tiến hành công việc bức xạ đánh giá cao trong điều kiện nguồn nhân lực còn rất hạn chế;

- Cục ATBXHN đã xử lý, cấp và thẩm định, trình Bộ KH&CN cấp tổng cộng 729 giấy phép các loại và nhiều chứng chỉ nhân viên bực xạ, chứng chỉ hành nghề dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử, không để trễ về thời gian theo quy định, không để các cơ sở có bất kỳ phàn nàn nào, chất lượng xử lý hồ sơ được nâng lên.

- Cục ATBXHN đã có nhiều cải tiến trong xử lý hồ sơ cấp phép và tuân thủ đầy đủ các quy định của hệ thống quản lý chất lượng theo ISO đã được cấp chứng nhận góp phần cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện phát triển cho các ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình tại Việt Nam. Đặc biệt có sự phân công và phối hợp tốt của Phòng Cấp phép và các đơn vị trong Cục trong xử lý hồ sơ, thẩm định an toàn và kế hoạch ứng phó sự cố, bảo đảm chất lượng xử lý hồ sơ và tiến độ thực hiện.

Công tác cấp phép của các Sở KH&CN

- Trong năm 2015, trên phạm vi toàn quốc các Sở KH&CN đã xử lý và cấp 1168 giấy phép tiến hành công việc bức xạ trong X quang chẩn đoán y tế (tăng hơn 40% so với năm 2014). Kết quả này góp phần nâng cao công tác quản lý an toàn bức xạ tại địa phương và phản ánh việc tích cực tháo gỡ các khó khăn, bất cập để hoàn thiện chức năng quản lý của các sở KH&CN. Tuy nhiên việc chấp hành báo cáo kết quả cấp phép của một số địa phương vẫn chưa kịp thời, do đó ảnh hưởng phần nào đến thống kê số liệu chung.

- Định kỳ hàng tháng, Cục ATBXHN gửi giấy phép tiến hành công việc bức xạ của các cơ sở tiến hành công việc bức xạ trên địa bàn đến các Sở KH&CN địa phương để quản lý, kiểm tra giám sát việc chấp hành công tác bảo đảm an toàn của cơ sở được cấp phép. Nhìn chung, các sở KH&CN đã kịp thời thống kê phục vụ công tác quản lý các cơ sở bức xạ, quản lý nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ trên địa bàn.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

14

III. THANH TRA, XỬ LÝ VI PHẠM

3.1. Giới thiệu về hệ thống thanh tra chuyên ngành an toàn bức xạ và hạt nhân

Hiện nay, các cơ quan thực hiện hoạt động thanh tra trong hệ thống thanh tra ATBXHN gồm: Thanh tra Bộ KHCN, Cục ATBXHN và Thanh tra Cục, Thanh tra Sở KHCN các địa phương. Trong đó, Cục ATBXHN là cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và Thanh tra Cục là tổ chức tham mưu và thực hiện thanh tra chuyên ngành của Cục. Chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan nói trên hiện tại được thực hiện theo Luật Thanh tra 2010 và Nghị định số 213/2013/NĐ – CP ngày 20/12/2013 về Tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành Khoa học và Công nghệ.

Thanh tra Bộ KHCN là cơ quan kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện thanh tra và hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra đối với cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ATBXHN và Thanh tra Sở KHCN các địa phương.

Cục ATBXHN, Thanh tra Cục là tổ chức có vai trò chính trong việc thực hiện các hoạt động thanh tra trong lĩnh vực này, tiến hành thanh tra đối với tất cả các cơ sở tiến hành công việc bức xạ và các cơ sở tiến hành các hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử trên phạm vi cả nước.

Thanh tra Sở KHCN các địa phương thực hiện hoạt động thanh tra các cơ sở tiến hành công việc bức xạ thuộc phạm vi quản lý trên địa bàn.

Thực hiện công tác thanh tra trong lĩnh vực ATBXHN, nhất là trong bối cảnh các dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận đang tiến gần tới giai đoạn khởi công xây dựng, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực có kiến thức chuyên ngành ATBXHN đủ sâu, kiến thức nghiệp vụ thanh tra được trau dồi liên tục, đồng thời có sự hỗ trợ của các thiết bị đo, đánh giá kỹ thuật cao. Tuy nhiên, hệ thống tổ chức thanh tra chuyên ngành ATBXHN đang gặp nhiều khó khăn do nguồn nhân lực thanh tra tại Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở KHCN các địa phương có nghiệp vụ thanh tra nhưng kiến thức chuyên môn chủ yếu là ở các chuyên ngành khác kiêm nhiệm, trang thiết bị hỗ trợ hầu như không có, trong khi đó Thanh tra Cục ATBXHN tuy là lực lượng chủ chốt tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành trong phạm vi cả nước nhưng lại có vị thế bị hạn chế trong hệ thống thanh tra do các quy định của pháp luật đối với cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và điều này gây trở ngại không nhỏ đến hiệu quả thực thi công vụ cũng như hướng phát triển của Thanh tra Cục. Để khắc phục các khó khăn hiện tại, đồng thời đáp ứng yêu cầu công tác trong thời gian tới, Thanh tra Cục ATBXHN đang xây dựng mô hình tổ chức, yêu cầu nguồn nhân lực và trang thiết bị phù hợp để đề xuất các cấp có thẩm quyền xem xét và phê duyệt.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

15

3.2. Hoạt động thanh tra của Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia

Năm 2015, Cục ATBXHN đã triển khai thực hiện 13 đợt thanh tra đối với 73 đơn vị có hoạt động bức xạ và hạt nhân trên toàn quốc (72 đơn vị bức xạ và Ban Quản lý Dự án ĐHN Ninh Thuận). Trọng tâm thanh tra của Cục ATBXHN tập trung vào các cơ sở công nghiệp sử dụng nhiều nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ, các đơn vị kiểm tra không phá hủy (NDT) sử dụng nguồn bức xạ di động, những đơn vị chưa được thanh tra trong nhiều năm hoặc có biểu hiện không tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật, các cơ sở y tế sử dụng nhiều thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ trong khám chữa bệnh. Trong năm 2015 Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra đột xuất đối với hầu hết các đơn vị sản xuất thép có sử dụng nguồn phóng xạ trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, nhằm chấn chỉnh công tác bảo đảm an toàn, an ninh nguồn phóng xạ của các đơn vị này, tránh tình trạng làm thất lạc nguồn phóng xạ như trường hợp của Nhà máy luyện phôi thép – Chi nhánh Công ty cổ phần thép Pomina. Đặc biệt trong năm 2015 Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra hoạt động khảo sát, đánh giá địa điểm nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận.

Kết quả thanh tra, kiểm tra đối với các đối tượng thanh tra trong một số lĩnh vực trọng tâm năm 2015 được chi tiết, cụ thể như sau:

3.2.1. Thanh tra, xử lý vi phạm các cơ sở hạt nhân

Cuộc thanh tra đối với Ban Quản lý dự án điện hạt nhân Ninh Thuận (Ban QLDA) được tiến hành với 3 đợt làm việc khác nhau. Nội dung thanh tra tập trung vào việc áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn trong hoạt động khảo sát; công tác giám sát của Ban QLDA đối với các tổ chức tư vấn, các nhà thầu chính và nhà thầu phụ thực hiện hoạt động khảo sát và việc bảo đảm chất lượng trong hoạt động khảo sát chi tiết tại khu vực địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 2, khảo sát đối với đứt gãy Đông Hòn Gió tại khu vực Trạm Bằng và công tác lấy mẫu phân tích.

Kết quả thanh tra cho thấy: Hoạt động khảo sát bổ sung đối với địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 2 đã được thực hiện dựa trên Phương án Khảo sát kỹ thuật bổ sung được đệ trình bởi Công ty điện nguyên tử Nhật Bản và phê duyệt bởi Ban QLDA. Tuy nhiên, các quy chuẩn, tiêu chuẩn áp dụng cho hoạt động khảo sát bổ sung chưa được dịch đầy đủ sang tiếng Việt trước khi tiến hành khảo sát.

Về công tác giám sát, Ban QLDA đã thực hiện công tác giám sát đối với Tư vấn Nhật Bản và các nhà thầu phụ. Mặc dù vậy, vẫn còn có một số khiếm khuyết nhỏ trong ghi chép thông tin của Ban QLDA.

Về việc bảo đảm chất lượng cho hoạt động khảo sát bổ sung, Ban QLDA đã thực hiện việc giám sát theo các quy trình của Ban QLDA xây dựng nhưng chưa xây dựng được quy trình bảo đảm chất lượng tổng thể theo quy định tại

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

16

Điều 13 của Nghị định 70/2010/NĐ-CP CP ngày 22/6/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử về Nhà máy điện hạt nhân, chưa lập thành hồ sơ khắc phục sự không phù hợp xảy ra trong quá trình khảo sát bổ sung.

Ban QLDA có cố gắng và bước đầu tiếp thu một số kiến nghị của Đoàn thanh tra. Bên cạnh đó vẫn còn một số nội dung kiến nghị của các Đoàn thanh tra trước đây chưa được Ban QLDA thực hiện hoặc thực hiện chưa kịp thời.

3.2.2. Thanh tra, xử lý vi phạm các cơ sở ứng dụng bức xạ trong công nghiệp

Trong năm 2015, Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra 53 cơ sở công nghiệp chiếm 72,6% tổng số các đơn vị được thanh tra, đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với 12 đơn vị chiếm 80% tổng số các đơn vị bị lập Biên bản vi phạm hành chính năm 2015. Trọng tâm hoạt động thanh tra của Cục ATBXHN đối với các cơ sở ứng dụng bức xạ trong công nghiệp là các đơn vị lớn sử dụng nguồn bức xạ di động trên nhiều địa bàn, các đơn vị NDT, các đơn vị sử dụng nguồn phóng xạ trong dây chuyền sản xuất,…các đơn vị sử dụng nhiều nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ. Phần lớn các đơn vị đều có ý thức trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về khai báo, cấp phép, theo dõi liều xạ cá nhân cho nhân viên bức xạ. Còn một số điểm yếu phổ biến là tổ chức hệ thống quản lý về bảo đảm an toàn bức xạ chưa hiệu quả. Các đơn vị đã theo dõi liều cho nhân viên bức xạ nhưng chưa thực hiện đầy đủ hoặc để xảy ra tình trạng liều chiếu cao mà không làm rõ nguyên nhân, đặc biệt là với các đơn vị sử dụng nguồn phóng xạ trong chụp ảnh phóng xạ công nghiệp ngoài hiện trường. Đối với các đơn vị sản xuất có sử dụng nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ vẫn còn tình trạng nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ đã được lắp đặt, sử dụng mà chưa có giấy phép hoặc giấy phép đã hết hạn; đơn vị đã ngừng sử dụng hoặc chuyển giao thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ nhưng không có báo cáo cho cơ quan quản lý.

Với những thiếu sót, vi phạm của các cơ sở được phát hiện qua công tác thanh tra còn chưa ở mức nghiêm trọng, các đoàn thanh tra chủ yếu xử lý bằng hình thức nhắc nhở, yêu cầu đơn vị có biện pháp khắc phục tương xứng trong một khoảng thời gian giới hạn. Các trường hợp hành vi vi phạm có tính chất nghiêm trọng, kéo dài hoặc lặp lại đều được các đoàn thanh tra lập biên bản xử lý vi phạm hành chính, yêu cầu khắc phục kịp thời. Công tác theo dõi sau thanh tra cho thấy việc khắc phục các thiếu sót và chấp hành quyết định xử phạt của các đơn vị hầu hết đều đã được thực hiện đầy đủ, kịp thời; nhận thức và hiểu biết của các đơn vị về đảm bảo ATBXHN cũng như hiểu biết về các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này đã được nâng cao rõ rệt.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

17

3.2.3. Thanh tra, xử lý vi phạm các cơ sở hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT

Năm 2015, Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra đối với 02 đơn vị hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử, chiếm 2,7% tổng số đơn vị được Cục ATBXHN thanh tra. Kết quả thanh tra cho thấy các cơ sở này thực hiện chưa tốt yêu cầu về xin cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ đối với các thiết bị bức xạ sử dụng trong hoạt động dịch vụ, công tác quản lý hồ sơ dịch vụ chưa tốt; hầu hết các cơ sở dịch vụ được thanh tra chưa xây dựng hệ thống quản lý chất lượng cho các hoạt động dịch vụ do đơn vị mình thực hiện, dẫn đến những hạn chế, như: nhầm lẫn, sai sót trong kết quả dịch vụ; trả kết quả đọc liều xạ cá nhân cho khách hàng không đúng thời hạn. Các hạn chế này thường xảy ra ở các cơ sở lớn, thực hiện nhiều loại dịch vụ. Đây cũng chính là các bất cập trong hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử đã được nhiều cơ sở tiến hành công việc bức xạ phản ánh qua các Đoàn thanh tra của Cục ATBXHN.

Qua các đợt thanh tra đối với các cơ sở hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử, các Đoàn thanh tra của Cục ATBXHN đã chỉ ra những thiếu sót, hạn chế trong công tác hoạt động dịch vụ của các đơn vị này và đã yêu cầu các đơn vị nghiêm chỉnh khắc phục các hạn chế, thiếu sót để đảm bảo về chất lượng các dịch vụ do mình cung cấp.

3.2.4. Thanh tra, xử lý vi phạm các cơ sở nghiên cứu và đào tạo

Đối với các cơ sở nghiên cứu và đào tạo, trong năm 2015 Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra 03 đơn vị, chiếm 4,1% tổng số đơn vị được Cục ATBXHN thanh tra. Các đơn vị nghiên cứu, đào tạo này hầu hết sử dụng các nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ trong các công việc: tiến hành thí nghiệm, triển khai nghiên cứu khoa học. Kết quả thanh tra cho thấy, các đơn vị này chưa thực hiện tốt một số các quy định pháp luật về an toàn bức xạ như: xin cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ (2/3 đơn vị chưa có giấy phép), quản lý hồ sơ, theo dõi liều xạ cá nhân cho các nhân viên bức xạ, nội quy an toàn bức xạ, kiểm đếm nguồn phóng xạ định kỳ, kiểm xạ khu vực tiến hành công việc bức xạ, báo cáo công tác đảm bảo an toàn bức xạ định kỳ cho Cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, hạt nhân.

3.2.5. Thanh tra, xử lý vi phạm các cơ sở y tế (Y học hạt nhân, xạ trị và X-quang y tế)

Trong năm 2015, Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra đối với 06 cơ sở y tế. Gồm:

1- Bệnh viện Đa khoa Tỉnh Bắc Ninh;

2- Bệnh viện Tim Hà Nội;

3- Bệnh viện Phổi Trung ương;

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

18

4- Bệnh viện Ung bướu Hà Nội;

5- Bệnh viện Ung bướu thành phố Cần Thơ;

6- Bệnh viện Quân y 175.

Phần lớn các bệnh viện này đều có hoạt động đồng thời về y học hạt nhân, xạ trị và X-quang y tế (trừ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Ninh đang xin cấp phép hoạt động về YHHN và Bệnh viện Tim Hà Nội). Đây là các bệnh viện lớn, có tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro bức xạ nếu không được quản lý chặt chẽ. Kết quả thanh tra cho thấy: 50% số đơn vị được thanh tra còn chưa làm tốt các quy định về xin cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ, thực hiện theo dõi liều kế cá nhân, lập sổ theo dõi vận hành thiết bị. Một số các quy định đã được các đơn vị này đã thực hiện tương đối tốt, như: có nội quy an toàn, chế độ biển báo nơi sử dụng nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ, kế hoạch ứng phó sự cố. Một điều bất cập đối với các cơ sở có hoạt động y học hạt nhân là các cơ sở này chưa có biện pháp kiểm soát hiệu quả đối với các bệnh nhân được điều trị bằng dược chất phóng xạ, dẫn đến tình trạng gây nhiễm bẩn phóng xạ quanh khu vực khoa y học hạt nhân. Việc kiểm xạ môi trường xung quanh khoa y học hạt nhân các cơ sở thực hiện còn chưa đầy đủ.

3.2.6. Thanh tra, xử lý vi phạm các cơ sở xuất nhập khẩu

Trong năm 2015, Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra đối với 08 đơn vị hoạt động về nhập khẩu, xuất khẩu nguồn phóng xạ chiếm 11% tổng số các đơn vị được tiến hành thanh tra của năm. Kết quả thanh tra cho thấy: hầu hết các đơn vị hoạt động xuất/nhập khẩu chất phóng xạ chưa thực hiện báo cáo cho Cục ATBXHN việc nhập khẩu chất phóng xạ trong vòng 7 ngày sau mỗi đợt nhập khẩu theo quy định điều kiện của giấy phép, việc thực hiện giao nhận nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ chưa có biên bản bàn giao ký nhận, hoặc biên bản bàn giao chưa phản ánh đúng thời điểm và địa điểm giao nhận, việc trang bị liều kế đầy đủ cho tất cả nhân viên và thực hiện đọc kết quả liều xạ định kỳ theo quy định thực hiện chưa được tốt, hệ thống quản lý đảm bảo an toàn bức xạ của một số đơn vị bức xạ tổ chức chưa hiệu quả.

3.3. Hoạt động thanh tra của các sở khoa học và công nghệ các tỉnh, thành phố trong cả nước

Theo kết quả tổng hợp từ 42 báo cáo về công tác quản lý ATBX trong năm 2015 của 42/63 Sở KHCN các tỉnh, thành phố trên toàn quốc gửi Cục ATBXHN, tính đến cuối năm 2015 các Sở KHCN đã tiến hành thanh tra được 489 đơn vị có hoạt động bức xạ trên địa bàn các tỉnh, thành phố. Trong đó, số lượng các cơ sở X-quang y tế vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong số các cơ sở được Sở KHCN thanh tra (khoảng 91%), số lượng các cơ sở sử dụng nguồn phóng xạ được các Sở KHCN chủ động tiến hành thanh tra vẫn chiếm tỷ lệ khá hạn chế. Trong tổng số các cơ sở bức xạ được các Sở KHCN thanh tra có 43 cơ sở bị lập biên bản xử lý vi phạm hành chính, chiếm 8,8% trên tổng số cơ sở được thanh

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

19

tra, với tổng số tiền xử phạt là 285,5 triệu đồng. Ngoài hoạt động thanh tra, trong năm 2015 các Sở KHCN cũng đã tiến hành kiểm tra được 342 đơn vị, góp phần chấn chỉnh kịp thời các hạn chế trong công tác bảo đảm an toàn bức xạ tại các cơ sở tiến hành công việc bức xạ. Số liệu tổng hợp kết quả thanh, kiểm tra của các Sở KHCN nêu trên có thể thấp hơn so với thực tế, vì có 14 Sở KHCN gửi báo cáo không đúng theo công văn yêu cầu của Cục ATBXHN và một số Sở KHCN không gửi báo cáo về công tác quản lý ATBX, như Sở KHCN các tỉnh, thành phố: Hậu Giang, Hải Phòng, Nam Định, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Phúc.

3.4. Đánh giá chung về công tác thanh tra, xử lý vi phạm về an toàn bức xạ và hạt nhân năm 2015

Hoạt động thanh tra, xử lý vi phạm về an toàn bức xạ và hạt nhân năm 2015 do Cục ATBXHN tiến hành đạt chất lượng tốt. Hoạt động đoàn thanh tra kể từ giai đoạn xây dựng kế hoạch, lựa chọn đối tượng thanh tra đến các công tác chuẩn bị trước thanh tra, thu thập dữ liệu, triển khai thanh tra và các công tác sau thanh tra được thực hiện một cách bài bản, linh hoạt và chuyên sâu, đồng thời việc đưa ra các đề xuất, kiến nghị cho các đối tượng thanh tra mang tính thiết thực, có ý nghĩa an toàn cao góp phần giáo dục, tuyên truyền, chấn chỉnh các đơn vị trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật về ATBXHN hiệu quả hơn.

Qua công tác thanh tra, xử lý vi phạm năm 2015 cho thấy các cơ sở được thanh tra đã có cố gắng thực hiện các quy định của pháp luật về an toàn bức xạ và hạt nhân, cụ thể:

- Số lượng các cơ sở thực hiện tốt quy định về giấy phép chiếm 65% tổng số các đơn vị được Cục thanh tra trong năm 2015;

- Các đơn vị đều đã có quyết định bổ nhiệm người phụ trách an toàn (gần 100%), người phụ trách an toàn đã có chứng chỉ nhân viên bức xạ và giấy chứng nhận đào tạo ATBX, tuy nhiên quyết định bổ nhiệm còn chưa nêu đầy đủ thẩm quyền, trách nhiệm của người phụ trách an toàn và người phụ trách an toàn trên thực tế chưa được tạo điều kiện để hoàn thành tốt trách nhiệm và vai trò của mình.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong công tác bảo đảm an toàn bức xạ tại các cơ sở vẫn còn tồn tại vi phạm các quy định pháp luật. Một số vi phạm điển hình của các cơ sở là: chưa thực hiện theo dõi liều xạ cá nhân đầy đủ cho các nhân viên hoặc thực hiện không đúng ít nhất 3 tháng/lần theo quy định (63% cơ sở vi phạm); chưa lập sổ nhật ký sử dụng thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ (71% cơ sở); chưa thực hiện đầy đủ các quy định về bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ như xây dựng nội quy bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ và kiểm đếm

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

20

nguồn phóng xạ định kỳ (52%); Quy trình vận hành, sử dụng thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ còn sơ sài (50%); chưa thực hiện đúng và đầy đủ yêu cầu kiến nghị của các Đoàn thanh tra về ATBX (47%).

Đối với hoạt động khảo sát địa điểm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận: Qua các đợt thanh tra của những năm trước Ban QLDA đã bước đầu thấy được tầm quan trọng trong hoạt động thanh tra an toàn hạt nhân của cơ quan quản lý nhà nước. Do vậy, việc tuân thủ các quy định pháp luật trong công tác khảo sát và đánh giá địa điểm của Ban QLDA đã thực hiện tốt hơn, Ban QLDA cũng đã có tinh thần hợp tác với đoàn thanh tra tốt hơn trong quá trình làm việc và đã đáp ứng tương đối tốt yêu cầu cung cấp các thông tin, tài liệu của Đoàn thanh tra cũng như tiếp thu thực hiện các kiến nghị của Đoàn thanh tra.

3.5. Kiến nghị - đề xuất qua hoạt động thanh tra

Qua hoạt động thanh tra, xử lý vi phạm các đoàn thanh tra phát hiện một số khó khăn, vướng mắc và bất cập trong thực tiễn làm hạn chế việc thực thi đúng các quy định pháp luật của các cơ sở. Để khắc phục các hạn chế, bất cập này cần thực hiện một số giải pháp như sau:

1. Bộ KHCN cần làm việc với Bộ Giao thông vận tải để thống nhất việc tiếp nhận, vận chuyển hàng hóa có chứa chất phóng xạ theo quy định của Luật Năng lượng nguyên tử để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vận chuyển nguồn phóng xạ đã qua sử dụng xuất khẩu trả lại nhà sản xuất bằng phương tiện hàng không hoặc đường biển thuận lợi và bảo đảm an toàn;

2. Bộ KHCN đầu tư nâng cấp phần cứng và phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu nguồn phóng xạ cho Cục và bảo đảm nguồn nhân lực để thực hiện nhiệm vụ này.

3. Các Sở KHCN khi xây dựng kế hoạch thanh tra hàng năm cần thảo luận với Cục ATBXHN để thống nhất bảo đảm được tần suất thanh tra các cơ sở bức xạ trên địa bàn theo quy định của pháp luật.

4. Bộ Quốc phòng cần đẩy nhanh dự án xây dựng kho quốc gia chung để lưu giữ tập trung các nguồn phóng xạ đã qua sử dụng hạn chế việc phải lưu giữ các nguồn này rải rác tại các cơ sở và tránh nguy cơ xảy ra sự cố mất nguồn phóng xạ như trong thời gian qua. Đây là chủ trương đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý cần triển khai sớm.

5. Bộ KHCN cần có đề xuất trong các văn bản pháp luật về chính sách phụ cấp ưu đãi đối với cán bộ Sở KHCN chuyên trách về ATBX tại địa phương để cuốn hút người có năng lực, chuyên môn về làm việc tại Sở.

6. Tiếp tục hoàn thiện quy trình nội bộ về cấp phép và thẩm định để khắc phục các bất cập trong công tác quản lý ATBX và được phát hiện qua các đợt thanh tra năm 2015.

7. Bộ KHCN bổ sung chỉ tiêu công chức cho Cục ATBXHN, đặc biệt bổ sung công chức, tăng cường nhân lực cho Thanh tra Cục ATBXHN.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

21

IV. THAM GIA ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ

Thực hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, bảo đảm an toàn, an ninh, đến nay Việt Nam đã tham gia hầu hết các điều ước quốc tế quan trọng nhất trong lĩnh vực hạt nhân.

Trong lĩnh vực an toàn hạt nhân, ta đã tham gia: Công ước Thông báo sớm về tai nạn hạt nhân (1987); Công ước Trợ giúp trong trường hợp tai nạn hạt nhân hoặc khẩn cấp phóng xạ (1987); Công ước An toàn hạt nhân (2010) và Công ước chung về An toàn quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và An toàn quản lý chất thải phóng xạ (2013).

Trong lĩnh vực chống phổ biến hạt nhân, ta đã tham gia: Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (năm 1982); Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế về việc áp dụng thanh sát theo Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (Hiệp định Thanh sát) (năm 1989); Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân (năm 1997); Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện (năm 2006); ký (năm 2007) và phê chuẩn (năm 2012) Nghị định thư bổ sung cho Hiệp định Thanh sát.

Trong lĩnh vực an ninh hạt nhân, ta đã tham gia Công ước Bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân và Phần sửa đổi (năm 2012); và cam kết thực hiện Quy tắc ứng xử về an toàn và an ninh nguồn phóng xạ và Hướng dẫn bổ sung về xuất khẩu, nhập khẩu nguồn phóng xạ.

Trong những năm qua, cùng với việc triển khai dự án điện hạt nhân, việc thực hiện các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân cũng được đẩy mạnh.

4.1. Thực hiện các công ước về an toàn hạt nhân

I. Công ước An toàn hạt nhân

Công ước An toàn hạt nhân (ATHN) có hiệu lực vào ngày 24/10/1996 nhằm mục tiêu hướng dẫn bảo đảm duy trì an toàn hạt nhân ở mức độ cao trên toàn thế giới thông qua việc xây dựng một chuẩn quốc tế về an toàn. Công ước khuyến khích các bên tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn được quốc tế công nhận. Tính đến tháng 4 năm 2014, có 77 nước tham gia Công ước và 10 nước đã ký Công ước nhưng chưa trở thành thành viên chính thức.

An toàn hạt nhân là vấn đề mang tính toàn cầu, sự cố xảy ra ở một nước có thể có ảnh hưởng qua biên giới sang các nước khác. Vì vậy, mà việc bảo đảm an toàn hạt nhân cũng mang tính toàn cầu, là trách nhiệm chung của cộng đồng quốc tế, mặc dù trách nhiệm đầu tiên là thuộc về quốc gia có quyền tài phán đối với công trình hạt nhân. Tham gia các hoạt động trong khuôn khổ Công ước An toàn hạt nhân, Việt Nam có quyền yêu cầu các quốc gia láng giềng chia sẻ thông tin về các hoạt động hạt nhân dân sự ở nước họ, dự kiến tình huống sự cố xảy ra có thể ảnh hưởng đến nước ta để có kế hoạch ứng phó cần thiết.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

22

Việc tham gia Công ước ATHN giúp các quốc gia còn thiếu kinh nghiệm có thể nhận được trợ giúp quốc tế trong việc nâng cao năng lực bảo đảm an toàn hạt nhân của quốc gia mình. Thông qua cơ chế trao đổi thông tin, các Bên tham gia còn nhận được thông tin có liên quan từ quốc gia khác mà hoạt động hạt nhân của họ tiềm ẩn nguy hại cho con người và môi trường trên lãnh thổ của mình, để có thể xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của sự cố từ bên ngoài khi nó xảy ra.

Hoạt động của Công ước dựa trên các Hội nghị đánh giá thường kỳ 3 năm/ lần và các Hội nghị bất thường khi có các vấn đề an toàn xuất hiện được đặt ra bởi các quốc gia thành viên.

Việt Nam ký tham gia CNS từ năm 2010. Sau khi trở thành thành viên chính thức, Việt Nam đã tham gia Hội nghị đánh giá lần thứ 5 (năm 2011), Hội nghị bất thường sau sự cố Fukushima (năm 2012), Hội nghị đánh giá lần thứ 6 (năm 2014) và Hội nghị ngoại giao để xem xét đề xuất sửa đổi công ước của Thụy sĩ (năm 2015). Sau đây xin báo cáo các hoạt động năm 2015, cụ thể là Hoạt động tham gia Hội nghị ngoại giao 2015. Hoạt động của các năm trước đã được trình bày trong các báo cáo trước đây của Cục ATBXHN

1. Đề xuất sửa đổi Công ước của Thụy Sĩ

Tại Hội nghị đánh giá thường kỳ lần 6, Thụy Sĩ đã đề xuất bổ sung thêm một khoản mới trong Điều 18 của Công ước (về thiết kế và xây dựng NMĐHN), cụ thể “Nuclear power plants shall be designed and constructed with the objectives of preventing accidents and, should an accident occur, mitigating its effects and avoiding releases of radionuclides causing long-term off-site contamination. In order to identify and implement appropriate safety improvements, these objectives shall also be applied at existing plants”.

Đề xuất này được đưa ra sau khi nghiên cứu bài học từ các sự cố (nghiêm trọng) trước đây đã để xảy ra phát tán phóng xạ ra ngoài nhà máy gây ảnh hưởng lâu dài cho con người và môi trường.

Đề xuất này có lợi cho các quốc gia đang xem xét cấp phép xây dựng các lò phản ứng nhà máy điện hạt nhân mới.

Được sự đồng ý của Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ và Đại sứ Việt Nam tại Áo, Đoàn Việt Nam đã bỏ phiếu ủng hộ đề xuất của Thụy Sĩ 1.

Kết quả có 42 phiếu ủng hộ, 2 phiếu chống (Hoa Kỳ và Canada, với lý do sẽ mất rất nhiều thời gian cho quy trình, thủ tục thông qua một Công ước được sửa đổi), 12 phiếu trắng. Nhật và các nước EU bỏ phiếu ủng hộ, Nga và Hàn Quốc bỏ phiếu trắng. Dựa trên kết quả bỏ phiếu này, Hội nghị đánh giá đã thông qua kế hoạch tổ chức Hội nghị ngoại giao (Diplomatic Conference) trong vòng 1 năm tới để tiếp tục thảo luận về đề xuất này.

1 Thông tư 30/2012/TT-BKHCN về an toàn trong thiết kế nhà máy điện hạt nhân mới ban hành trong

năm 2012 của Việt Nam cũng đưa ra yêu cầu này.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

23

2. Kết quả đạt được

Ngày 9/2/2015, đại diện 76 quốc gia thành viên và Tổ chức Năng lượng nguyên tử Châu Âu (Euratom) đã tham dự Hội nghị ngoại giao.

Để chuẩn bị cho Hội nghị này, nhóm làm việc không chính thức (IWG) đã xem xét đề nghị sửa đổi của Thụy sĩ trong vòng 8 tháng trước đó. Để Hội nghị đạt được mục tiêu trong khi không có sự nhất trí về sửa đổi Công ước, Nhóm làm việc đã đưa ra sáng kiến, thảo luận, đồng thuận trình lên Hội nghị dự thảo Tuyên bố về An toàn hạt nhân – Những nguyên tắc thực hiện mục tiêu Công ước ATHN nhằm ngăn chặn sự cố hạt nhân, giảm thiểu hậu quả phóng xạ. Có hơn 20 nước tham gia phát biểu, ghi nhận những cố gắng của cộng đồng quốc tế nâng cao an toàn hạt nhân trong thời gian qua, đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc đồng thuận để Hội nghị đạt được kết quả. Các nước có nền điện hạt nhân phát triển như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh, Canada, Ấn Độ, Nam Phi đã lái Hội nghị theo hướng ra Tuyên bố bởi Tuyên bố không có giá trị bắt buộc như Công ước và do đó không phải áp dụng các tiêu chuẩn an toàn của NMĐHN mới cho các NMĐHN đang hoạt động theo đề xuất của Thụy sĩ, do đó sẽ giảm bớt kinh phí rất lớn trong nâng cấp an toàn hạt nhân. Thụy sĩ và Na uy bày tỏ mong muốn hơn nữa các biện pháp an toàn hạt nhân, song để nhất trí, họ chấp nhận biện pháp thông qua Tuyên bố này. Tuy có bất đồng, song các nước đều có nhu cầu chung là Hội nghị phải đạt kết quả tích cực trong việc tăng cường an toàn hạt nhân. Thụy sĩ, EU mong muốn sửa đổi nhưng biết rằng nếu phải đưa ra bỏ phiếu sẽ thất bại nên chấp nhận hình thức đưa ra Tuyên bố, song yêu cầu đưa ra tối đa nội dung đề nghị sửa đổi và cam kết thực hiện vào Tuyên bố. Các nước phản đối sửa đổi đã tích cực vận động hành lang và phải nhân nhượng, chấp thuận nhiều nội dung của đề nghị sửa đổi với những cam kết cụ thể do Thụy sĩ và EU đưa ra.

Đoàn Việt Nam đã phát biểu tại Hội nghị về các nội dung: hoan nghênh đề xuất sửa đổi của Thụy sĩ và việc triệu tập Hội nghị ngoại giao sửa đổi Công ước; các nước cần có sự đồng thuận để Hội nghị thành công; hoan nghênh các quốc gia có thái độ xây dựng, linh hoạt và thực tế; bày tỏ ủng hộ dự thảo Tuyên bố Hội nghị, cho rằng đây là cam kết chính trị mạnh mẽ trong việc tiếp tục tăng cường an toàn hạt nhân.

Kết quả, tất cả các nước đều ủng hộ thông qua dự thảo Tuyên bố Hội nghị gồm 3 phần: phần mở đầu ghi nhận những cố gắng của các nước và cộng đồng quốc tế trong việc tăng cường an toàn hạt nhân kể từ sau sự cố Fukushima; phần chính gồm các yêu cầu và biện pháp cần triển khai; phần cuối nêu các khuyến nghị với IAEA và các nước không phải thành viên công ước.

3. Các hoạt động khác:

Trong năm 2015, Cục ATBXHN với vai trò là cơ quan thường trực của Tổ công tác và các điều ước quốc tế đã có các nghiên cứu chuẩn bị xây dựng Báo cáo quốc gia của Công ước ATHN để trình cho IAEA vào năm 2016.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

24

II. Công ước chung về An toàn quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và An toàn quản lý chất thải phóng xạ

Việt Nam tham gia Công ước chung về An toàn quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và An toàn quản lý chất thải phóng xạ (gọi tắt là Công ước chung) từ tháng 10/2013 và trở thành thành viên của Công ước từ tháng 01/2014.

Công ước chung về An toàn quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và An toàn quản lý chất thải phóng xạ là một cơ chế đa phương với mục tiêu chính là thiết lập và khuyến khích các quốc gia cam kết cùng thực hiện một khuôn khổ pháp lý chung, thống nhất về việc quản lý an toàn chất thải phóng xạ, nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng. Phạm vi điều chỉnh của Công ước là nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng và chất thải phóng xạ sinh ra từ các ứng dụng hạt nhân dân sự. Nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng và chất thải phóng xạ từ các chương trình quân sự không thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước này.

Từ khi là thành viên của Công ước, Việt Nam đã tham gia đầy đủ các cuộc họp trong khuôn khổ Công ước, bao gồm Cuộc họp bất thường vào tháng 5/2014 và Cuộc họp đánh giá định kỳ vào tháng 5/2015. Sau đây xin báo cáo các hoạt động năm 2015, cụ thể là Hoạt động của Việt Nam tại Cuộc họp đánh giá định kỳ. Hoạt động của các năm trước đã được trình bày trong các báo cáo trước đây của Cục ATBXHN.

Trong năm 2014-2015, để chuẩn bị cho Cuộc đánh giá thường kỳ lần 5, Báo cáo quốc gia được gửi đăng tải trên Website của Công ước và đã nhận được 44 câu hỏi của các quốc gia thành viên. Cục ATBXHN đã chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan như Cục Năng lượng nguyên tử, Viện Năng lượng nguyên tử, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt trả lời tất cả các câu hỏi theo đúng thời gian quy định.

Hoạt động quan trọng của Cuộc họp đánh giá là các Quốc gia thành viên trình bày Báo cáo quốc gia của mình. Theo quy định của Công ước, các Quốc gia thành viên sẽ chia thành 06 Nhóm nước để trình bày và thảo luận Báo cáo quốc gia của các nước trong Nhóm. Việt Nam được phân vào Nhóm 5 bao gồm: Croatia, Gabon, Hung-ga-ri, Lithunia, Luxembourg, Ma-rốc, Liên bang Nga, U-krai-na và Việt Nam. Thời lượng thuyết trình báo cáo được phân chia tùy theo chương trình hạt nhân của mỗi nước. Các nước có chương trình hạt nhân lớn (Liên bang Nga, Hung-ga-ri), được dành thời lượng là 4 giờ. Do các hoạt động trong lĩnh vực này chưa nhiều, Việt Nam và các nước còn lại trong Nhóm được dành thời lượng là 2 giờ, trong đó bao gồm cả trình bày và trả lời câu hỏi của các Quốc gia thành viên khác.

Báo cáo của Việt Nam được đánh giá là đầy đủ và chi tiết. Các Quốc gia thành viên đánh giá Việt Nam có các ưu điểm nổi bật sau:

- Là một quốc gia hạt nhân “trẻ”, Việt Nam đã rút ra bài học kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt việc ban hành Quyết định của Thủ tướng thành lập quỹ đảm bảo nghĩa vụ tài chính cho việc chấm dứt và tháo dỡ nhà máy điện hạt nhân;

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

25

- Việt Nam đã có hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia trên thế giới nhằm hỗ trợ việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và phát triển nguồn nhân lực trong quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và chất thải phóng xạ.

Phiên họp cũng khuyến cáo Việt Nam cần quan tâm đến các vấn đề sau:

- Tiếp tục xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu đã qua sử dụng; xây dựng quy định cụ thể về kho lưu giữ chất thải quốc gia và địa điểm chôn cất;

- Tiếp tục phát triển năng lực cho cơ quan pháp quy hạt nhân và sửa Luật Năng lượng nguyên tử theo hướng tăng cường tính độc lập của Cơ quan pháp quy hạt nhân;

- Quy định trách nhiệm và có kế hoạch rõ ràng về xây dựng cơ sở xử lý, lưu giữ và chôn cất chất thải phóng xạ;

- Xác định chiến lược quốc gia về tháo dỡ nhà máy điện hạt nhân;

- Thực hiện các biện pháp nhằm thu hút, lưu giữ người làm việc trong ngành năng lượng nguyên tử.

Trong phần hỏi và giải đáp, các Quốc gia thành viên Công ước thuộc Nhóm 5 cũng quan tâm đến các vấn đề sau của Việt Nam: Nhiên liệu đã qua sử dụng của Lò phản ứng nghiên cứu tại Đà Lạt sẽ được lưu giữ thế nào sau khi Lò chấm dứt vận hành; tính độc lập của Cơ quan pháp quy hạt nhân (Cục An toàn bức xạ và hạt nhân) đối với cơ quan nghiên cứu, triển khai và quản lý chất thải phóng xạ, nhiên liệu đã qua sử dụng; vấn đề đào tạo nguồn nhân lực của Cơ quan pháp quy hạt nhân cũng như của cơ sở quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu đã qua sử dụng; cơ quan nào sẽ là cơ sở quản lý chất thải phóng xạ, nhiên liệu đã qua sử dụng và do đó chịu trách nhiệm xin cấp phép.

4.2. Thực hiện Điều ước quốc tế về không phổ biến hạt nhân

Việc thực hiện điều ước quốc tế về không phổ biến hạt nhân chủ yếu là thực hiện Hiệp định Thanh sát và Nghị định thư bổ sung của Hiệp định Thanh sát. Các biện pháp thanh sát chính thực hiện thanh sát là là cung cấp báo cáo kế toán vật liệu hạt nhân cho IAEA và tiếp nhận thanh sát hàng năm của IAEA.

Năm 2013 là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện Nghị định thư bổ sung (AP) và cho đến năm 2015 đã có 54 khai báo nộp cho IAEA, tiếp nhận 08 tiếp cận bổ sung. Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Bộ Công an phê duyệt trên 300 thanh sát viên, đồng thời phối hợp với Bộ Công an, Bộ Ngoại giao làm thủ tục visa cho nhiều đợt thanh sát viên. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã chú trọng đến việc nâng cao công tác quản lý nhà nước về thanh sát thông qua tổ chức hướng dẫn xây dựng báo cáo kế toán và khai báo Nghị định thư bổ sung cho các cơ sở. Việt Nam cũng đã tăng cường hệ thống thông tin để gửi báo cáo vật liệu hạt nhân thông qua xây dựng kênh bảo mật gửi trực tiếp cho IAEA. Hiện tại, Cục ATBXHN đang xây dựng và hoàn thiện hệ thống báo cáo trực tuyến giữa Cục ATBXHN và cơ sở.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

26

Kết quả quan trọng đạt được trong năm 2015 là IAEA đã có “Kết luận mở rộng” đối với Việt Nam và trình Hội đồng Thống đốc IAEA tháng 5/2015. Theo đó, không có vật liệu hạt nhân, hoạt động hạt nhân nào của Việt Nam không được khai báo. Nói một cách khác, tất cả vật liệu hạt nhân, hoạt động hạt nhân của Việt Nam đã được khai báo. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đạt được kết luận này kể từ khi thực hiện thanh sát hạt nhân năm 1990.

Để triển khai và thực hiện tốt các điều ước về thanh sát, việc duy trì và tăng cường hợp tác quốc tế song phương (INSEP/US DOE, JAEA, KINAC) và đa phương (IAEA) là quan trọng, vừa tăng cường năng lực trong nước, vừa thể hiện sự minh bạch trong hoạt động hạt nhân của ta.

4.3. Tình hình triển khai thực hiện điều ước quốc tế về an ninh hạt nhân

Các điều ước quốc tế trong lĩnh vực an ninh hạt nhân bao gồm: Quy tắc ứng xử về an toàn và an ninh nguồn phóng xạ (Việt Nam tham gia năm 2006) và Công ước Bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân và Phần sửa đổi của Công ước (Việt Nam gia nhập năm 2012).

Để thực hiện Quy tắc ứng xử, Cục ATBXHN đã xây dựng hệ thống cấp phép cho nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân. Cục cũng đã thiết lập cơ sở dữ liệu RAISVN về nguồn phóng xạ, cơ sở bức xạ, kết quả cấp phép và thanh tra. Bên cạnh đó, Cục ATBXHN với sự hỗ trợ của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ đã thực hiện nâng cấp hệ thống an ninh cho các cơ sở có nguồn phóng xạ lớn hơn 1000 Ci cho 24 cơ sở, tổ chức tập huấn cho cán bộ của các cơ sở bức xạ.

Thực hiện Công ước bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân và Phần sửa đổi của Công ước, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chỉ định Cục trưởng Cục ATBXHN là đầu mối cho các hoạt động của Công ước. Đồng thời trong năm 2013-2014, Bộ Công an đã phối hợp với Cục ATBXHN và IAEA tổ chức các Hội thảo về phương pháp luận thực hiện đánh giá các mối đe dọa để trên cơ sở đó đưa ra các mối đe dọa làm cơ sở thiết kế hệ thống bảo vệ thực thể cho cơ sở hạt nhân.

Nhằm tăng cường năng lực trong việc phát h tham gia Dự án An ninh hạt nhân của IAEA, với đầu mối là Cục ATBXHN. Trong khuôn khổ Dự án, 08 cổng phát hiện phóng xạ (RPM) đã được lắp đặt tại Sân bay quốc tế Nội Bài. Dự kiến, sẽ lắp đặt thêm 04 RPM cho Sân bay Nội Bài và tiến tới lắp đặt các RPM cho Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất. Ngoài ra, trong khuôn khổ Sáng kiến Megaport 12 cổng phát hiện phóng xạ lắp đặt tại cảng Cái Mép – Thị Vải, Bà Rịa – Vũng Tàu.

Để việc hợp tác, hỗ trợ trong lĩnh vực hạt nhân có hiệu quả, tránh chồng chéo, Kế hoạch Hỗ trợ an ninh hạt nhân tích hợp (INSSP) giữa Việt Nam và IAEA đã được xây dựng năm 2012 và cập nhật vào tháng 12/2014 với sự tham gia của: các Bộ KHCN, Công an, Quốc phòng, Ngoại giao, Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, Tổng cục Hải quan. Việc xác định và đánh giá các mối đe dọa làm cơ sở thiết kế hệ thống bảo vệ thực thể cho cơ sở hạt nhân (DBT) cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng, theo đó Bộ Công an đã thành lập nhóm xây dựng DBT.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

27

Để triển khai và thực hiện tốt các Điều ước về an ninh hạt nhân, Việt Nam đã chú trọng đến việc mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế: hợp tác với US DOE về bảo vệ an ninh cho các cơ sở bức xạ từ năm 2006 trong khuôn khổ Sáng kiến Giảm thiểu nguy cơ toàn cầu (GTRI); ký Bản ghi nhớ (MOU) với Cơ quan Năng lượng nguyên tử Nhật Bản (JAEA) (năm 2010), Cơ quan Không phổ biến và An ninh hạt nhân Hàn Quốc (KINAC) (năm 2013); ký Bản Thỏa thuận ba bên về thực hiện RADLOT với IAEA, Hàn Quốc nhằm kiểm soát các nguồn phóng xạ sử dụng di động.

Để thực hiện Công ước Bảo vệ thực thể liên quan đến hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, từ ngày 11-12/3/2015, Bộ KHCN (Cục ATBXHN), Bộ Công an đã phối hợp với IAEA tổ chức Hội thảo về khung văn bản pháp quy về an ninh hạt nhân, với sự tham gia của các Bộ, ngành liên quan, làm cơ sở xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về an ninh hạt nhân.

Ngoài ra, để nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân, một trong các yêu cầu của Công ước Bảo vệ thực thể, trong năm 2015 Cục ATBXHN cũng đã tổ chức 02 Hội thảo về văn hóa an ninh hạt nhân cho các cơ sở và cán bộ một số Sở Khoa học và Công nghệ, đặc biệt là các cơ sở có nguồn phóng xạ sử dụng di động

4.4. Tình hình khai thác sử dụng cơ sở dữ liệu của Trung tâm dữ liệu quốc tế của Tổ chức CTBTO phục vụ phát triển kinh tế - xã hội

Hệ thống quan trắc quốc tế của (Cơ quan Hiệp ước Cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBTO) gồm 321 trạm quan trắc đã tạo ra một lượng dữ liệu khổng lồ được lưu giữ tại Trung tâm dữ liệu IDC của CTBTO. Ngoài mục đích kiểm chứng tuân thủ Hiệp ước, dữ liệu này còn có thể đóng góp cho các ứng dụng dân sự và nghiên cứu khoa học. Với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì việc ứng dụng số liệu của CTBTO còn rất ít do năng lực hạn chế. Tuy nhiên, trong những năm qua, dữ liệu hạt nhân phóng xạ của IDC được Việt Nam sử dụng cho 2 mục tiêu sau:

- Sử dụng cho mục tiêu kiểm chứng tuân thủ hiệp ước. Các số liệu thô về nhân phóng xạ được sử dụng để thực hành phân tích nâng cao năng lực phân tích số liệu phổ gamma. Với các phổ gamma của các trạm quan trắc hạt nhân phóng xạ của CTBTO, bằng các chương trình phần mềm xử lý phổ gamma thương mại đang được các cơ quan khoa học sử dụng, chúng ta có thể tiến hành phân tích để phát hiện các hạt nhân phóng xạ trong các mẫu khí thu thập tại các trạm quan trắc hạt nhân phóng xạ của CTBTO tương tự như được CTBTO thực hiện tại trụ sở ở Viên, Áo. Chúng ta cũng sử dụng phần mềm của CTBTO để thực hành các bài diễn tập của CTBTO để nâng cao năng lực kiểm chứng hiệp ước.

- Sử dụng số liệu về hạt nhân phóng xạ trong dân sự và nghiên cứu khoa học. Trong thời gian xảy ra tai nạn hạt nhân tại Nhật Bản tháng 3/2011, cùng với số liệu quan trắc hạt nhân phóng xạ ghi nhận được trong nước, số liệu hạt nhân phóng xạ của CTBTO đã được báo cáo lên Bộ Khoa học và Công nghệ để theo dõi tình hình phát tán phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima trên toàn

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

28

cầu. Đám mây phóng xạ được tính toán trên cơ sở số liệu hạt nhân phóng xạ thu nhận được từ các trạm quan trắc của CTBTO và mô hình vận chuyển khí quyển đã dự đoán chính xác sự di chuyển cũng như nồng độ phóng xạ trong không khí tại những nơi nó đi qua. Trên cơ sở dự đoán hướng di chuyển của đám mây phóng xạ giúp cho chính phủ nắm được tình hình phát tán phóng xạ và chuẩn bị các phương án ứng phó với khả năng ô nhiễm phóng xạ trong không khí trên lãnh thổ của nước mình nếu xảy ra.

Trong năm 2015, Cục ATBXHN đã thực hiện các công việc sau: tìm hiểu tài liệu khai thác sử dụng phần mềm của CTBTO để phục vụ công tác nâng cao năng lực của NDC (National Data Center- Trung tâm dữ liệu quốc gia); Truy cập số liệu của CTBTO về hạt nhân phóng xạ cho hoạt động khai thác số liệu của CTBTO; Tích lũy kinh nghiệm truy cập số liệu thô về hạt nhân phóng xạ (số liệu chưa xử lý), số liệu khí tượng dùng cho phần mềm mô hình vận chuyển khí quyển từ Trung tâm dữ liệu quốc tế của CTBTO nhằm xây dựng quy trình tải số liệu thô phục vụ công việc kiểm chứng Hiệp ước CTBT; Tập hợp các tài liệu hướng dẫn sử dụng các phần mềm xử lý phổ gamma và phần mềm mô hình vận chuyển khí quyển; Nâng cao kỹ năng xử lý số liệu hạt nhân phóng xạ thông qua các công việc thực hành xử lý các phổ gamma trong cơ sở dữ liệu của CTBTO. Các kinh nghiệm trong việc khai thác cơ sở dữ liệu phóng xạ của CTBTO sẽ giúp cho Việt Nam trong cảnh báo nếu các sự cố phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân có ảnh hưởng đến môi trường ở phạm vi toàn cầu .

4.5. Hoạt động của Tổ Công tác liên bộ về điều ước quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân

Trong những năm qua, Tổ Công tác đã hoạt động rất hiệu quả với các kết quả cụ thể như sau:

- Trình và được Chính phủ cho phép Việt Nam tham gia Công ước An toàn hạt nhân. Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Công ước từ ngày 15/7/2010.

- Trình và được Chủ tịch nước phê chuẩn Nghị định thư bổ sung (AP). AP có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 17/9/2012.

- Trình và được Chủ tịch nước phê chuẩn Công ước Bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân và Phần sửa đổi. Việt Nam là thành viên của Công ước từ ngày 3/11/2012. Phần sửa đổi chưa có hiệu lực do chưa có đủ Quốc gia thành viên phê chuẩn.

- Trình và được Chính phủ phê duyệt Công ước chung về An toàn quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và An toàn quản lý chất thải phóng xạ vào tháng 10/2013. Công ước đã có hiệu lực đối với Việt Nam từ ngày 07/01/2014.

- Đặc biệt, đã thực hiện các vòng đàm phán Hiệp định với Hoa Kỳ về sử dụng hòa bình năng lượng hạt nhân (Hiệp định 123). Hiệp định đã được Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ký với Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Hoa

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

29

Kỳ ngày 06/5/2014 và có hiệu lực từ ngày 03/10/2014, đạt phương án cao nhất của ta.

- Đã tổ chức các đoàn đi trao đổi kinh nghiệm về thực hiện điều ước quốc tế tại Pháp vào tháng 6/2010, thực hiện AP tại Hoa Kỳ vào tháng 11/2012; Tổ chức các hội thảo về an ninh và không phổ biến hạt nhân.

Tuy nhiên, đến năm 2014 đã có nhiều biến động về thành viên của Tổ Công tác, một số đã nghỉ chế độ, còn một số khác lại chuyển công tác. Để đáp ứng tình hình mới, ngày 17/03/2015, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Quyết định số 453/QĐ-BKHCN về việc thành lập Tổ công tác liên Bộ về các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân nhiệm kỳ mới từ tháng 01 năm 2015 do Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ làm Tổ trưởng và giao Cục An toàn bức xạ và hạt nhân là Bộ phận thường trực. Tổ Công tác liên bộ có nhiệm vụ nghiên cứu toàn diện các điều ước quốc tế liên quan đến hạt nhân, đề xuất với Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ phương án tham gia, phân công trách nhiệm giữa các Bộ, ngành có liên quan khi triển khai thực hiện điều ước. Kinh phí bảo đảm cho hoạt động của Tổ Công tác liên bộ được lấy từ nguồn kinh phí sự nghiệp khoa học hàng năm Bộ Khoa học và Công nghệ giao cho Cục An toàn bức xạ và hạt nhân quản lý.

Tháng 9/2015, Tổ Công tác đã họp phiên đầu tiên để thảo luận về đề xuất tham gia Công ước quốc tế về ngăn chặn hành động khủng bố hạt nhân và các Công ước về bồi thường thiệt hại hạt nhân. Với tư vấn của Tổ Công tác, Bộ Khoa học và Công nghệ đã hoàn thiện Tờ trình Chính phủ về việc tham gia Công ước quốc tế về ngăn chặn hành động khủng bố hạt nhân. Hiện đã nhận được ý kiến của các Bộ, ngành liên quan. Theo quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, Công ước đang được Bộ Tư pháp thẩm định.

4.6. Thực thi các điều ước khác trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử:

Việt Nam đã tham gia 2 Công ước Thông báo sớm trong tai nạn hạt nhân và Công ước Trợ giúp trong tai nạn hạt nhân hoặc sự cố bức xạ từ năm 1987. Hiện nay Việt Nam đã đăng ký đầu mối quốc gia và cán bộ INES (cán bộ phân loại sự cố quốc tế), cơ quan thường trực Việt Nam tại IAEA để thông báo sự cố và tiếp nhận trợ giúp quốc tế. Trong các sự cố mất nguồn phóng xạ tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bắc Kạn, tuy các sự cố này chưa đến mức cảnh báo quốc tế theo thang phân loại sự cố, Cục ATBXHN đã thực hiện việc thông báo sớm cho IAEA để nắm bắt thông tin và khi cần thiết Việt Nam có thể đề nghị trợ giúp cụ thể.

Hàng năm, Cục ATBXHN có trách nhiệm cơ quan đầu mối thường xuyên tham gia các chương trình diễn tập định kỳ ConvEx theo quy định trong 2 Công ước để nâng cao khả năng sẵn sàng trong việc thông báo, yêu cầu cũng như là tiếp nhận trợ giúp từ IAEA và quốc tế.

Dự kiến trong tháng 6/2016, Cục ATBXHN sẽ đề xuất trách nhiệm của cơ quan thẩm quyền quốc gia đối với các sự cố trong nước và cơ quan thẩm quyền

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

30

quốc gia đối với sự cố từ nước ngoài theo hướng dẫn của IAEA để hoàn thiện và nâng cao năng lực chuẩn bị sẵn sàng và ứng phó sự cố của Việt Nam đối với các sự cố xuất phát từ trong nước hoặc sự cố từ nước ngoài có ảnh hưởng đến Việt Nam.

4.7. Đánh giá chung tình hình thực hiện các điêu ước quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân

Hoạt động trong việc thực thi các điều ước quốc tế trong thời gian qua đã thể hiện chính sách nhất quán của Việt Nam về sử dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích hòa bình và quan điểm ưu tiên tuyệt đối về an toàn của Việt Nam, tạo niềm tin của cộng đồng hạt nhân quốc tế.

Hội nghị đánh giá thường kì được tổ chức 3 năm một lần của các Công ước về an toàn hạt nhân là diễn đàn quan trọng nhất của các Công ước này với sự tham dự của các nhà quản lý pháp quy, tổ chức vận hành và các chuyên gia hàng đầu về an toàn hạt nhân các nước. Các nước thành viên có trách nhiệm trình bày báo cáo đánh giá tổng thể hiện trạng an toàn chương trình điện hạt nhân quốc gia, sau đó các nước khác đánh giá, góp ý kiến trên cơ sở các qui định và kinh nghiệm của các nước và quốc tế. Diễn đàn này cũng là dịp trình bày, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm và thể hiện cam kết tự nguyện các quốc gia về một loạt các vấn đề kỹ thuật liên quan đến an toàn hạt nhân như: an toàn nhà máy điện hạt nhân được xây dựng gần biên giới, chất lượng nguồn nhân lực, văn hóa an toàn, thẩm định an toàn, bài học rút ra từ sự cố Fukushima hay về chương trình hành động của IAEA v.v..

Việc Việt Nam chuẩn bị chu đáo Báo cáo quốc gia và trả lời đầy đủ các câu hỏi đặt ra cho Việt Nam trước khi Hội nghị bắt đầu là rất cần thiết. Báo cáo và trả lời rõ ràng, đầy đủ sẽ tạo được sự ủng hộ của cộng đồng hạt nhân quốc tế.

Với việc thực hiện tốt các hoạt động thanh sát trong khuôn khổ các điều ước quốc tế về không phổ biến hạt nhân, Việt Nam đã đạt được “Kết luận mở rộng” của IAEA. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đạt được kết luận này kể từ khi thực hiện thanh sát hạt nhân từ năm 1990. Tại thời điểm hiện tại, do hoạt động của ta chưa có nhiều, hoạt động thanh sát của IAEA tại Việt Nam có thể không có thay đổi nhiều. Tuy nhiên, một khi ta có nhà máy điện hạt nhân hoạt động thì thanh sát hạt nhân của IAEA có thể giảm đáng kể (từ 4 lần thanh sát/ năm xuống còn 2 lần/ năm). Như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở có nhà máy điện hạt nhân. Tuy nhiên, cần lưu ý ở đây là kết luận về thực hiện thanh sát tại các quốc gia được IAEA thực hiện và báo cáo cho Hội đồng Thống đốc hàng năm. Vì vậy, ta cần tiếp tục thực hiện hoạt động thanh sát trong nước hiệu quả để bảo đảm hàng năm ta vẫn đạt được “Kết luận mở rộng” của IAEA.

Việt Nam đã gửi cho IAEA cam kết chính trị của mình về việc thực hiện theo Quy tắc ứng xử về an toàn và an ninh nguồn phóng xạ và Hướng dẫn bổ sung về xuất nhập khẩu nguồn phóng xạ từ năm 2006. Từ đó đến nay, công tác bảo đảm an toàn, an ninh cho nguồn phóng xạ đã được thực hiện khá tốt. Các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành để điều chỉnh các hoạt động liên

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

31

quan đến nguồn phóng xạ. Cụ thể: Luật Năng lượng nguyên tử, Quyết định 146/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phát hiện và xử lý nguồn phóng xạ ngoài sự kiểm soát, Thông tư số 23/2010/TT-BKHCN về việc bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ, Thông tư số 08/2010/TT-BKHCN hướng dẫn việc khai báo, cấp phép. Ngoài ra, hợp tác với Bộ Năng lượng Hoa Kỳ, ta đã nâng cấp hệ thống bảo vệ thực thể cho các cơ sở có nguồn phóng xạ lớn hơn 1000 Ci (24 cơ sở) và tổ chức đào tạo, tập huấn cho các cơ sở này cũng như hỗ trợ xây dựng Kế hoạch ứng phó sự cố. Quản lý nhà nước về an toàn và an ninh trong vận chuyển nguồn phóng xạ cũng như sử dụng nguồn phóng xạ di động cũng là một vấn đề phức tạp và nguy cơ mất an toàn, an ninh cao. Vì vậy, hiện Bộ Khoa học và Công nghệ đang chỉ đạo Cục ATBXHN nhanh chóng thiết lập hệ thống theo dõi nguồn phóng xạ di động và dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư 38/2011/TT-BKHCN, theo đó các cơ sở sử dụng nguồn phóng xạ di động phải lắp đặt thiết bị theo dõi để kiểm soát được các nguồn này khi hoạt động ngoài hiện trường.

Công ước Bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân và Phần sửa đổi yêu cầu Quốc gia thành viên xây dựng hệ thống pháp luật về bảo vệ thực thể đối với vật liệu hạt nhân, cơ sở hạt nhân và chỉ định cơ quan có thẩm quyền về an ninh hạt nhân, đầu mối quốc gia thực hiện Công ước. Hiện nay, ta đã có một số văn bản liên quan, như một số điều trong Luật Năng lượng nguyên tử, Thông tư số 38/2011/TT-BKHCN quy định yêu cầu về bảo đảm an ninh vật liệu hạt nhân và cơ sở hạt nhân, nhưng các yêu cầu cụ thể về bảo đảm an ninh hạt nhân đối với cơ sở hạt nhân, trong đó có nhà máy điện hạt nhân thì chưa có. Điều này gây khó khăn cho chủ đầu tư khi đàm phán xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Ngoài ra, mặc dù Cục trưởng Cục ATBXHN đã được chỉ định là đầu mối quốc gia, nhưng sự phân công trách nhiệm cụ thể giữa các Bộ, ngành vẫn chưa rõ ràng, dẫn đến việc trông chờ nhau thực hiện. Vì vậy, cần sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này để thực hiện Công ước có hiệu quả.

Để triển khai thực hiện hiệu quả các điều ước quốc tế liên quan, Cục ATBXHN kiến nghị:

- Xây dựng cơ chế và phân công trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan có liên quan trong việc tổ chức triển khai thực hiện Điều ước để thực hiện cam kết của quốc gia thành viên

- Chỉnh sửa, bổ sung các quy định trong luật NLNT và các văn bản dưới Luật để thực hiện nội luật hóa các quy định của Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

32

V. TÌNH HÌNH BẢO ĐẢM AN TOÀN BỨC XẠ TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG BỨC XẠ VÀ ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ

Theo thống kê về số lượng cơ sở tiến hành công việc bức xạ năm 2015 thì trên cả nước có khoảng 1100 cơ sở tiến hành công việc bức xạ (trừ các cơ sở X-quang y tế) được phân bố trong nhiều lĩnh vực khác nhau như sau:

Trong năm 2015, tình hình đảm bảo an toàn bức xạ của các cơ sở này như sau:

5.1. Công tác kiểm soát chiếu xạ cá nhân

Theo số liệu báo cáo của 6 cơ sở cung cấp dịch vụ đọc liều chiếu xạ cá nhân, tính đến 31/12/2015, cả nước có 2183 cơ sở với tổng số nhân viên được theo dõi liều chiếu xạ cá nhân là 17335 tại 6 cơ sở thực hiện dịch vụ đọc liều chiếu xạ cá nhân. Các đơn vị cung cấp dịch vụ đọc liều chiếu xạ cá nhân là:

- Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt

- Trung tâm hạt nhân TP. Hồ Chí Minh

- Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân

- Trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ Bình Dương

- Công ty TNHH Dịch vụ Khoa học Hoàng Nguyên

- Công ty TNHH Tư vấn và Chuyển giao công nghệ Tiên Tiến.

Đánh giá kết quả đọc liều cá nhân của các đơn vị:

Trong đó:

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

33

Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân: đọc liều chiếu xạ cho 912 cơ sở với số người được đọc là 5321, số người có giá trị đo liều chiếu xạ vượt giới hạn: 9, giá trị liều kế từ 5-20 mSv/năm: 25

Trung tâm hạt nhân TP. Hồ Chí Minh: đọc liều chiếu xạ cho 410 cơ sở, số người được đọc là 2331, số người có giá trị đo liều chiếu xạ vượt giới hạn: 0

Trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ Bình Dương: đọc liều chiếu xạ cho 166 cơ sở, số người được đọc là 1238, số người có giá trị đo liều chiếu xạ vượt giới hạn: 1, liều kế phông đo vượt giới hạn liều: 01, số giá trị từ: 5-20 mSv: 4 liều kế phông.

Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt: đọc liều chiếu xạ cho 462 cơ sở, số người được đọc là 4785, số người có giá trị đo liều chiếu xạ vượt giới hạn: 11, số người có giá trị liều chiếu xạ từ: 5-20 mSv: 38

Công ty TNHH Dịch vụ Khoa học Hoàng Nguyên: đọc liều cho 193 cơ sở, số người được đọc là 3256, số người có giá trị đo liều chiếu xạ vượt giới hạn: 1; số người có giá trị liều chiếu xạ từ: 5-20 mSv: 33.

Công ty TNHH Tư vấn và Chuyển giao công nghệ Tiên Tiến: đọc liều cho 40 cơ sở, số người được đọc là 404, số người có giá trị đo liều chiếu xạ vượt giới hạn: 0

Giới hạn liều hiệu dụng trung bình là 20 mSv/năm. Do đó, trong 17335 trường hợp được theo dõi đọc liều thì có:

23 giá trị vượt giới hạn liều (chiếm 0,13%) > 20 mSv/năm, trong đó: 1 liều kế phông và 22 người bị chiếu quá liều (chiếm 0,126%).

- 118 giá trị liều cao cần xem xét (chiếm 0,57%): 5 -20 mCi, trong đó: 4 liều kế phông và 22 người bị liều chiếu cao cần xem xét (chiếm 0,55%).

Tổng cộng 136 người cần được tiếp tục theo dõi kiểm soát chiếu xạ nghề nghiệp., còn lại 17199 người được kiểm soát giá trị nằm trong giới hạn cho phép.

5.2. Tình hình đảm bảo an toàn bức xạ của Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt

Hiện tại Việt Nam có duy nhất một lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu (Đà Lạt) thuộc Viện Nghiên cứu hạt nhân (số 1 Nguyên tử lực, Tp. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng) trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

34

Công tác đảm bảo an toàn bức xạ, năm 2015 tại Viện nghiên cứu hạt nhân được thực hiện nghiêm túc theo hướng dẫn tại các các văn bản quy định hiện hành của nhà nước về đảm bảo an toàn bức xạ, hạt nhân.

Một số nội dung chính về thực hiện đảm bảo an toàn bức xạ tại viện NCHN là như sau:

Theo dõi liều chiếu xạ cá nhân chiếu ngoài cho nhân viên bức xạ của Viện NCHN với chu kỳ thay mới 1 lần /2 tháng hoặc 1 lần/1 tháng (Trung tâm Nghiên cứu và điều chế đồng vị phóng xạ). Kết quả liều tích lũy năm 2015 không có nhiều thay đổi đáng kể so với năm 2014 cụ thể:

+ Nhóm nhân viên bức xạ có liều tích lũy trong khoảng 0,04 ÷ 1mSv là 136 nhân viên chiếm 93,2 %.

+ Nhóm nhân viên bức xạ có liều tích lũy trong khoảng 1,1 ÷ 6 mSv là 7 nhân viên chiếm 4,8 %

+ Nhóm nhân viên bức xạ có liều tích lũy trong khoảng 6 ÷ 20 mSv là 3 nhân viên chiếm 2,1 % (có 01 nhân viên có liều tích lũy cả năm là 11mSv, 02

nhân viên còn lại có liều tích luỹ là 6,28 và 6,78 mSv/năm)

Kiểm tra suất liều chiếu ngoài tại các khu vực làm việc với bức xạ:

Khi lò hoạt động ở công suất danh định 500KW việc đo kiểm tra suất liều bức xạ gamma và notron được thực hiện thường xuyên, cụ thể:

- Đối với việc kiểm soát liều bức xạ gamma (4 lần/ca trực): Được thực hiện bằng máy đo liều xách tay FH-40F2 tại 10 vị trí trong nhà Lò phản ứng và bằng hệ theo dõi liều cố định DORA.

- Đối với việc kiểm soát suất liều bức xạ neutron: Được thực hiện bằng máy đo liều neutron xách tay DINEUTRON và LUDLUM tại 6 vị trí kênh ngang K1, K2, K3, K4, cột nhiệt và trên mặt bể Lò với tần suất 1 lần/ca trực và kiểm soát liều cho các nhân viên bức xạ thực hiện thí nghiệm tại các vị trí nói trên.

+ Kết quả kiểm soát suất liều gamma tại các vị trí kiểm soát khi lò hoạt động ở công suất danh định 500 kW, ghi nhận thông qua các đầu do của hệ kiểm soát liều bức xạ cố định DORA cũng như thiết bị kiểm soát liều cầm tay đều ở mức bình thường và không thăng giáng nhiều so với các năm trước.

+ Các giá trị suất liều neutron tại các vị trí kiểm soát trong quá trình lò hoạt động đều ở mức bình thường, không thay đổi nhiều so với giá trị trung bình các năm trước (từ 2011 đến 2014).

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

35

+ Mức phông bức xạ gamma trung bình tại các khu vực sản xuất của Trung tâm NC&ĐCĐVPC năm 2015 là 6,8 µSv/giờ cao hơn năm 2014 (5,66 µSv/giờ) tăng khoảng 16%. Các khu vực còn lại suất liều gamma không có sự thay đổi so với các năm trước và đều nhỏ hơn mức quy định.

- Việc kiểm soát liều bức xạ tại các phòng thí nghiệm trong Viện NCHN có tiến hành công việc bức xạ được thực hiện mỗi tháng một lần bằng máy đo suất liều gamma xách tay FH-40F2. Các phòng thí nghiệm được kiểm soát suất liều bức xạ gamma bao gồm: Nhà Lò; các khu vực có thùng chứa thải phóng xạ; các phòng thí nghiệm sản xuất ĐVPX, các phòng thí nghiệm của TT Vật lý & Điện tử HN; Nhà 2 và 2a (TT Phân tích và TT Môi trường; Phòng Hoá nước và thải xạ); TT Công nghệ bức xạ (Nguồn Co-60); TT Đào tạo và Nhà 5.

Kiểm soát nhiễm bẩn phóng xạ bề mặt các phòng thí nghiệm làm việc với bức xạ:

Năm 2015, tình trạng nhiễm bẩn phóng xạ không khác nhiều so với các năm trước. Khi phát hiện các khu vực kiểm soát có mức nhiễm bẩn phóng xạ bề mặt cao ở mức cảnh báo, hoặc vượt giới hạn quy định, bộ phận kiểm soát an toàn bức xạ đã kết hợp với phụ trách an toàn bức xạ các đơn vị có liên quan làm rõ nguyên nhân và thực hiện ngay tẩy xạ sau đó.

Kiểm soát nồng độ iốt phóng xạ trong không khí vùng nghiêm ngặt:

Việc kiểm tra nồng độ I-131 trong khu vực sản xuất đồng vị phóng xạ được thực hiện định kỳ theo các đợt sản xuất đồng vị phóng xạ. Kết quả theo dõi cho thấy: Nồng độ I-131 trong phòng sản xuất I-131 nhỏ hơn giới hạn quy định cũng như các khu vực lân cận như hành lang và nhà lò, khu vực phòng điều khiển đều nhỏ hơn rất nhiều các giới hạn.

Kiểm soát nồng độ khí trơ thoát ra từ Lò phản ứng:

Trong năm 2015 đã có 12 đợt kiểm soát nồng độ khí trơ khi lò vận hành ở công suất danh định 500KW. Kết quả tính toán hoạt độ khí trơ thải ra môi trường trong quá trình lò vận hành 12 đợt là 6,13E+10 (Bq) nhỏ hơn nhiều giá trị quy định 1,1E+12 Bq (theo thông tư số 22/2014/TT-BKHCN về quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng).

Bên cạnh đó việc kiểm soát lượng phát thải I-131 và son khí khi lò hoạt động cũng được tiến hành. Kết quả đo hoạt thông qua hệ kiểm soát AMS-4 chỉ dao động quanh mức không.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

36

Công tác quản lý nguồn phóng xạ và kiểm tra nội bộ về an toàn bức xạ:

Trong năm 2015, Viện NCHN đã tiến hành kiểm kê nguồn phóng xạ 02 lần, (01 lần vào tháng 6 và 01 lần vào tháng 12). Tính đến 30 tháng 12 năm 2015 Viện NCHN đang quản lý 891 nguồn phóng xạ. - Tất cả các nguồn phóng xạ có trong danh sách quản lý của Viện đều hiện diện tại nơi lưu giữ, và tại các đơn vị quản lý, sử dụng trong Viện. Không có trường hợp nguồn phóng xạ bị thất lạc, mất mát.

Trong năm 2015, Viện có bổ sung và đưa vào danh sách quản lý thêm 21 nguồn phóng xạ, trong đó có 19 nguồn phóng xạ được Viện tiếp nhận lưu giữ từ các cơ sở bức xạ (bao gồm 11 nguồn từ Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội; 01 nguồn từ Nhà máy nhiệt điện Uông Bí Quãng Ninh; 02 nguồn từ Công ty Vilam Engineering; 01 nguồn từ Công ty Nissel Electric Hà Nội; 03 nguồn từ Công ty TNHH MTV Thép miền Nam, 01 nguồn từ Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa) và 02 nguồn phóng xạ được khai báo từ Trung tâm Môi trường do đi kèm theo thiết bị ECAM).

Hiệu chuẩn thiết bị đo liều:

Tất cả những thiết bị đo liều bức xạ tại Viện NCHN phục vụ cho công tác đảm bảo an toàn bức xạ đều được hiệu chuẩn tại phòng chuẩn liều bức xạ của Viện NCHN và tại Viện Khoa Học Kỹ Thuật hạt Nhân Hà Nội.

Kiểm tra sức khỏe CBCNV hàng năm:

Số nhân viên được Viện phê duyệt cho kiểm tra sức khỏe là 185, số nhân viên xét nghiệm máu: 153 (chiếm 82,7% tổng số CBCNV được phê duyệt để khám sức khỏe), số nhân viên khám tổng quát và siêu âm là 150.

- Phân loại sức khỏe:

+ 08 người đạt sức khỏe loại 1, chiếm tỉ lệ 5,3%.

+ 139 người đạt sức khỏe loại 2, chiếm tỉ lệ 92,7%.

+ 03 người đạt sức khỏe loại 3, chiếm tỉ lệ 2,0%.

Các bệnh sỏi thận, nang thận, sỏi mật, cận/viễn thị, tim mạch năm 2015 có tăng so với năm 2014, các bệnh khác giảm hơn so với năm 2014. Theo kết luận của bệnh viện tất cả đều đủ sức khỏe làm việc.

Kết quả các số liệu đo, kiểm tra và giám sát suất liều trong khu vực nhà lò qua quá trình vận hành lò phản ứng, liều chiếu cá nhân và tập thể đều được lập

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

37

thành hồ sơ an toàn bức xạ và được lưu giữ. Điều đó cho thấy công tác bảo đảm về an toàn bức xạ tại Viện NCHN được chú trọng, quan tâm thực hiện đầy đủ, nghiêm túc

5.3. Tình hình đảm bảo an toàn bức xạ tại các cơ sở chiếu xạ công nghiệp

Hiện tại Việt Nam có 06 cơ sở chiếu xạ công nghiệp, trong đó có 07 thiết bị chiếu xạ sử dụng nguồn phóng xạ Co-60 và 03 thiết bị chiếu xạ sử dụng máy gia tốc. 100% các thiết bị đã được cấp phép tiến hành công việc bức xạ - vận hành thiết bị chiếu xạ và còn hiệu lực.

- Thiết bị chiếu xạ sử dụng nguồn phóng xạ: tổng cộng có 07 thiết bị chiếu xạ, trong đó 06 thiết bị đang hoạt động, 01 thiết bị tạm dừng hoạt động (đã tháo nguồn lắp đặt bổ sung vào thiết bị khác).

- Thiết bị chiếu xạ sử dụng máy gia tốc: tổng cộng có 03 thiết bị, trong đó có 02 thiết bị thuộc Công ty CP Chế biến Thủy Hải Sản Sơn Sơn và 01 thiết bị thuộc Trung tâm Nghiên cứu và Triển khai Công nghệ bức xạ.

- Tổng số nhân viên bức xạ của 06 cơ sở là: 61 nhân viên.

Theo thống kê, công tác đảm bảo an toàn bức xạ của các cơ sở này được đưa ra trong Bảng dưới đây:

STT

Tình hình thực hiện hoạt động đảm bảo an toàn

bức xạ

Đánh giá

1.

Thực hiện quy định về Khai báo và Cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ

100% cơ sở thực hiện tốt việc khai báo, đề nghị cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ- sử dụng nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ

2. Những thay đổi so với hồ sơ cấp phép

- 100% cơ sở khi có thay đổi thông tin so với hồ sơ cấp phép (như địa chỉ, người phụ trách an toàn....) đều có văn bản khai báo với Cục ATBXHN theo quy định.

- Các đơn vị nạp nguồn bổ sung đều được Cục ATBXHN phê duyệt và cho phép thực hiện.

3. Đào tạo và huấn luyện cho nhân viên bức xạ

100% người phụ trách và nhân viên vận hành thiết bị chiếu xạ được cấp chứng chỉ nhân viên bức xạ

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

38

Các nhân viên bức xạ được đào tạo về an toàn bức xạ định kỳ theo quy định. Tuy nhiên đa số người phụ trách an toàn chưa được đào tạo ATBX bổ sung theo quy định tại Thông tư số 34/2014/TT-BKHCN

Hồ sơ đào tạo được lưu giữ đầy đủ tại cơ sở.

4. Kiểm soát liều chiếu xạ cá nhân

- 100% cơ sở đã trang bị liều kế cá nhân và tổ chức đọc liều định kỳ 3 tháng/1 lần cho các nhân viên bức xạ;

- Các nhân viên bức xạ đều được thông báo kết quả đọc liều sau mỗi lần đọc. Trong năm 2015, không có nhân viên nào nhận mức liều chiếu xạ lớn hơn giá trị giới hạn liều hàng năm đối với nhân viên bức xạ.

- Các cơ sở đã tổ chức lưu giữ hồ sơ đọc liều chiếu xạ của nhân viên bức xạ. Tuy nhiên phần lớn các cơ sở chưa lập sổ theo dõi liều chiếu xạ cá nhân cho từng nhân viên theo quy định tại Thông tư 19/2012/TT-BKHCN về kiểm soát chiếu xạ nghề nghiệp và chiếu xạ công chúng

5. Hồ sơ theo dõi sức khỏe của nhân viên bức xạ

- 100% nhân viên bức xạ được khám sức khỏe định kỳ theo quy định,

- Chưa có nhân viên nào qua theo dõi sức khỏe phát hiện có dấu hiệu ảnh hưởng do bức xạ gây ra.

6. Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ

- 100% cơ sở đã xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố tại cơ sở. Tuy nhiên phần lớn các cơ sở chưa được Cục ATBXHN phê duyệt theo quy định tại Thông tư 25/2014/TT-BKHCN quy định về chuẩn bị và ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân, lập và phê duyệt kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân;

- Trong năm 2015 không xảy ra sự cố nào tại các đơn vị

7. Kiểm xạ khu vực làm việc

100% các cơ sở thường xuyên thực hiện đo đánh giá an toàn bức xạ tại khu vực sử dụng thiết bị chiếu xạ, các đơn vị đều trang bị thiết bị đo suất liều bức xạ xách tay và thiết bị đo bức xạ lắp cố định để giám sát an toàn trong thời

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

39

gian vận hành.

8. Đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ

- 100% các cơ sở đã trang bị hệ thống đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ như: khóa liên động, camera an ninh... kết hợp với kiểm soát hành chính và đội ngũ bảo vệ 24/24 giờ.

- Kiểm đếm nguồn phóng xạ: hầu hết các cơ sở đều thực hiện việc kiểm đếm nguồn phóng xạ định kỳ theo quy định (ngoài trừ Trung tâm chiếu xạ Hà Nội, do đặc trưng của loại thiết bị chiếu xạ này nguồn phóng xạ lưu giữ trong bể khô với hệ thống hầm che chắn nên không thể thực hiện kiểm đếm thông thường như hệ bể lưu giữ bằng nước).

9.

Biển cảnh báo bức xạ và tín hiệu cảnh báo bức xạ, các thiết bị bảo đảm an toàn

- 100% các cơ sở đã trang bị đầy đủ hệ thống cảnh báo bức xạ (hình ảnh và âm thanh....) và thiết bị đảm bảo an toàn bức xạ (hệ thống dừng khẩn cấp, khóa liên động, thiết bị theo dõi bức xạ.....);

- Các thiết bị ghi đo bức xạ đều được kiểm định định kỳ hàng năm.

10.

Quy trình vận hành, nhật ký vận hành và hồ sơ thiết bị chiếu xạ, nội quy an toàn bức xạ

- 100% các cơ sở đã xây dựng và áp dụng nội quy an toàn, quy trình vận hành, nhật ký vận hành đến toàn bộ các nhân viên bức xạ;

- Các cơ sở đã tổ chức ghi chép đầy đủ hoạt động vận hành và bảo dưỡng trong hồ sơ lưu;

- Hoạt động bảo dưỡng thiết bị sử dụng nguồn phóng xạ chủ yếu do cơ sở tự thực hiện.

5.4. Tình hình đảm bảo an toàn bức xạ tại các cơ sở xạ trị và y học hạt nhân

Hiện tại, Việt Nam có 24 cơ sở xạ trị (trong đó có 25 thiết bị xạ trị sử dụng nguồn phóng xạ và 38 máy gia tốc) và 32 cơ sở y học hạt nhân.

- Cơ sở xạ trị sử dụng nguồn phóng xạ: hiện có 18/24 cơ sở xạ trị sử dụng nguồn phóng xạ với tổng cộng 25 thiết bị xạ trị, bao gồm 17 thiết bị xạ trị từ xa; 07 thiết bị xạ trị áp sát; 01 thiết bị chiếu xạ khử trùng máu.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

40

- Cơ sở xạ trị sử dụng máy gia tốc: hiện có 24/24 cơ sở xạ trị sử dụng máy gia tốc với tổng số 38 máy gia tốc.

Thống kê công tác đảm bảo an toàn bức xạ của các cơ sở này được đưa ra trong Bảng dưới đây:

STT Tình hình thực hiện hoạt động đảm bảo an toàn bức xạ

Đánh giá

1. Việc chấp hành các quy định về khai báo, xin cấp phép, các điều kiện giấy phép đã được cấp.

100% cơ sở thực hiện tốt các quy định về khai báo, xin cấp phép, các điều kiện giấy phép.

2. Trách nhiệm, quyền hạn, hiệu quả thực thi nhiệm vụ của người phụ trách an toàn

100% cơ sở đã bổ nhiệm người phụ trách an toàn, người phụ trách an toàn được phân quyền và trách nhiệm theo đúng quy định.

3. Chứng chỉ nhân viên bức xạ đối với người phụ trách an toàn và nhân viên bức xạ

100% người phụ trách an toàn và nhân viên vận hành thiết bị chiếu xạ được cấp chứng chỉ nhân viên bức xạ

4. Công tác đào tạo an toàn bức xạ cho nhân viên bức xạ.

100% nhân viên bức xạ được đào tạo ban đầu và đào tạo lại về an toàn bức xạ

5. Thực hiện công tác quản lý, đọc liều chiếu xạ cá nhân cho nhân viên bức xạ.

100% nhân viên bức xạ được trang bị liều kế cá nhân và được đọc liều chiếu xạ định kỳ 3 tháng/1 lần

6. Tổ chức công tác theo dõi, kiểm tra sức khỏe định kỳ cho nhân viên bức xạ.

100% nhân viên bức xạ được tổ chức khám sức khỏe định kỳ

7.

Thực hiện công tác quản lý hồ sơ kỹ thuật của thiết bị bức xạ, các chứng chỉ tài liệu liên quan đến nguồn phóng xạ.

100% các cơ sở đã lập và lưu giữ các hồ sơ kỹ thuật liên quan đến thiết bị và do bộ phận kỹ thuật quản lý

8. Lập sổ theo dõi vận hành thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ.

100% các cơ sở đã lập sổ theo dõi (nhật ký vận hành) thiết bị chiếu xạ

9. Thực hiện Quy trình hướng dẫn vận hành thiết bị an toàn, quy trình tiến

100% các cơ sở đã xây dựng quy trình vận hành

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

41

hành công việc bức xạ khác liên quan.

10. Thực hiện nội quy an toàn bức xạ. 100% các cơ sở đã xây dựng phổ biến nội quy an toàn đến toàn bộ nhân viên bức xạ

11.

Lập và triển khai thực hiện kế hoạch ứng phó sự cố tại cơ sở, trình Cục ATBXHN phê duyệt kế hoạch ứng phó sự cố, công tác triển khai thực hiện diễn tập kế hoạch ƯPSC… Thống kê các sự cố bức xạ xảy ra (nếu có mô tả sự cố, biện pháp khắc phục, xử lý sự cố, kết quả xử lý, báo cáo kết quả lên cấp trên).

- 100% cơ sở đã xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ tuy nhiên tất cả các cơ sở chưa tổ chức diễn tập ứng phó sự cố

- Trong năm 2015, các cơ sở không để xảy ra sự cố bức xạ nào.

12.

Thực hiện các quy định đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ (chỉ áp dụng đối với các cơ sở sử dụng nguồn phóng xạ).

- 100% cơ sở đã xây dựng quy định về đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ, có trang bị hệ thống camera theo dõi, bảo vệ 24/24 giờ

13. Thực hiện kiểm tra chất lượng thiết bị, kiểm xạ định kỳ khu vực làm việc.

100% cơ sở đã trang bị thiết bị đo suất liều bức xạ, hàng ngày đều thực hiện khảo sát bức xạ tại các khu vực đặt phòng xạ trị

14. Công tác trang bị, hiệu chuẩn thiết bị ghi đo bức xạ.

100% cơ sở đã thực hiện hiệu chuẩn thiết bị theo định kỳ

15.

Quy định các biển cảnh báo bức xạ (thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ, nơi sử dụng thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ).

100% cơ sở đã thực hiện khoanh vùng, trang bị biển cảnh bảo bức xạ

16. Công tác lưu giữ bảo quản thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng.

Các nguồn phóng xạ sau khi không còn nhu cầu sử dụng đều được lưu kho an toàn và được cấp giấy phép lưu giữ nguồn

17. Thực hiện các yêu cầu của cơ quan QLNN về ATBX và khuyến cáo của kết luận thanh tra (nếu có).

100% cơ sở đã thực hiện các yêu cầu của cơ quan quản lý và các khuyến cáo của đoàn thanh kiểm tra

5.5. Tình hình đảm bảo an toàn bức xạ tại các cơ sở chụp ảnh phóng xạ công nghiệp

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

42

Theo thống kê trong năm 2015, hiện cả nước có 63 cơ sở tiến hành công việc bức xạ trong lĩnh vực chụp ảnh phóng xạ công nghiệp (NDT) có sử dụng nguồn phóng xạ và thiết bị phát tia X chiếm gần 11% tổng số cơ sở tiến hành công việc bức xạ trong công nghiệp. Các cơ sở tiến hành công việc bức xạ trong NDT đều đã được Cục An toàn bức xạ và hạt nhân cấp giấy phép.

Thống kê số lượng nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ được sử dụng trong chụp ảnh phóng xạ công nghiệp như sau:

- Số lượng nguồn phóng xạ đang sử dụng trong chụp ảnh phóng xạ công nghiệp (NDT): 200 nguồn phóng xạ

- Số lượng nguồn phóng xạ đang lưu giữ: 543 nguồn phóng xạ. - Số lượng máy phát tia X dùng trong chụp ảnh phóng xạ công nghiệp: 77

thiết bị phát tia X.

Thống kê công tác đảm bảo an toàn bức xạ của các cơ sở này được đưa ra

trong Bảng dưới đây:

STT Tình hình thực hiện hoạt động đảm bảo

an toàn bức xạ Đánh giá

1.

Thực hiện quy định về Khai báo và Cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ

100% cơ sở thực hiện việc khai báo, đề nghị cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ- sử dụng nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ.

Các cơ sở đã thực hiện tốt việc khai báo khi nạp nguồn phóng xạ trong quá trình sử dụng thiết bị chụp ảnh phóng xạ.

2. Những thay đổi so với hồ sơ cấp phép

100% cơ sở khi có thay đổi thông tin so với hồ sơ cấp phép (như địa chỉ, người phụ trách an toàn...) đều có văn bản khai báo với Cục ATBXHN theo quy định.

3. Đào tạo và huấn luyện cho nhân viên bức xạ

100% người phụ trách an toàn và nhân viên chụp ảnh phóng xạ công nghiệp được cấp chứng chỉ nhân viên bức xạ. Các nhân viên bức xạ được đào tạo về an toàn bức xạ định kỳ theo quy định. Hồ sơ đào tạo được lưu giữ đầy đủ tại cơ sở.

4. Kiểm soát liều chiếu xạ cá nhân

- 100% cơ sở đã trang bị liều kế cá nhân và tổ chức đọc liều chiếu xạ định kỳ 3 tháng/1 lần cho các nhân viên bức xạ;

- Các nhân viên bức xạ đều được thông báo kết quả đọc liều chiếu xạ sau mỗi lần đọc.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

43

STT Tình hình thực hiện hoạt động đảm bảo

an toàn bức xạ Đánh giá

Trong năm 2015, vẫn còn một số cơ sở để liều xạ cá nhân vượt quá giới hạn liều (>20mS/năm). Cục ATBXHN sẽ có chấn chỉnh kịp thời các cơ sở này.

- Các cơ sở đã tổ chức lưu giữ hồ sơ đọc liều của nhân viên bức xạ. Tuy nhiên Cục ATBXHN sẽ yêu cầu các cơ sở thực hiện theo dõi liều cá nhân cho từng nhân viên theo quy định tại Thông tư 19/2012/TT-BKHCN về kiểm soát chiếu xạ nghề nghiệp và chiếu xạ công chúng.

5. Hồ sơ theo dõi sức khỏe của nhân viên bức xạ

- 100% nhân viên bức xạ được khám sức khỏe định kỳ theo quy định,

Không có nhân viên nào được phát hiện có dấu hiệu ảnh hưởng sức khỏe do bức xạ gây ra.

6. Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ

100% cơ sở đã xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố tại cơ sở và lập hồ sơ đề nghị phê duyệt kế hoạch ứng phó sự cố gửi Cục ATBXHN phê duyệt theo quy định tại Thông tư 25/2014/TT-BKHCN quy định về chuẩn bị và ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân, lập và phê duyệt kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân.

7. Kiểm xạ khu vực làm việc

100% các cơ sở thường xuyên thực hiện giám sát và đánh giá an toàn bức xạ tại khu vực tiến hành công việc bức xạ tại hiện trường, tại kho lưu giữ khi không sử dụng; 100% đơn vị trang bị thiết bị đo suất liều bức xạ xách tay; các thiết bị đo suất liều bức xạ đều được kiểm định định kỳ theo quy định.

8. Đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ

- 100% các cơ sở tuân thủ quy định hiện hành về công tác bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ: kiểm kê, kiểm đếm, bảo đảm an ninh khi vận chuyển hoặc khi không sử dụng,...

- Hiện nay, các cơ sở đều ủng hộ và 06 cơ sở

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

44

STT Tình hình thực hiện hoạt động đảm bảo

an toàn bức xạ Đánh giá

tình nguyện tham gia thử nghiệm dự án RadLot về lắp đặt thiết bị giám sát nguồn phóng xạ của Việt Nam do IAEA và Hàn Quốc tài trợ. 03 cơ sở được lựa chọn tham gia lắp đặt thử thiết bị giám sát nguồn phóng xạ do các tổ chức trong nước sản xuất, chế tạo và thử nghiệm.

9.

Biển cảnh báo bức xạ và tín hiệu cảnh báo bức xạ, các thiết bị bảo đảm an toàn

- 100% các cơ sở đã trang bị đầy đủ hệ thống cảnh báo bức xạ (biển cảnh báo, còi cảnh báo, đèn cảnh báo) và thiết bị đảm bảo an toàn bức xạ cũng như các trang thiết bị phục vụ công tác ứng phó sự cố.

10.

Quy trình vận hành, nhật ký vận hành và hồ sơ thiết bị chiếu xạ, nội quy an toàn bức xạ

- 100% các cơ sở đã xây dựng và áp dụng nội quy an toàn, quy trình vận hành, nhật ký vận hành;

- Các cơ sở đã tổ chức ghi chép đầy đủ hoạt động vận hành và bảo dưỡng trong hồ sơ lưu;

- Hoạt động bảo dưỡng thiết bị sử dụng nguồn phóng xạ chủ yếu do cơ sở tự thực hiện.

5.6. Tình hình đảm bảo an toàn bức xạ tại các cơ sở quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng

a. Tình hình đảm bảo an toàn bức xạ tại các cơ sở quản lý chất thải phóng xạ

Hiện tại Việt Nam có hai đơn vị quản lý chất thải phóng xạ là Viện Nghiên cứu hạt nhân và Viện Công nghệ xạ hiếm.

Chất thải sinh ra từ hoạt động và khai thác Lò phản ứng nghiên cứu hạt nhân (Đà Lạt) do Viện Nghiên cứu hạt nhân quản lý bao gồm:

- Tổng lượng thải phóng xạ lỏng/năm khoảng 50 m3

- Tổng lượng thải phóng xạ rắn/năm khoảng 10 m3

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

45

- Tổng lượng thải phóng xạ khí: Các nguồn khí được xem như thải phóng xạ chủ yếu sinh ra từ hoạt động lò phản ứng, hàng năm khoảng 3.600.000 m3 khí thải được thoát ra khỏi lò phản ứng; Thải phóng xạ khí thứ cấp là các phin lọc HEPA, khoảng 5 - 7 năm thải ra 01 phin.

- Tổng số thùng thải đã điều kiện hóa và đóng gói được lưu giữ tại nhà số 5 (216 thùng phuy hình trụ 200 lít).

Thống kê lượng chất thải phóng xạ dạng rắn đang lưu giữ hiện nay ở Việt Nam như sau:

TT Cơ sở quản lý Địa chỉ nơi lưu

giữ

Số lượng chất thải rắn đang lưu giữ

Ghi chú

1. Viện Nghiên cứu hạt nhân (Đà Lạt)

Số 1 Nguyên tử lực, TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng

216 thùng

(mỗi thùng có dung tích 200 lít)

Thùng thải đã điều kiện hóa và đóng gói được lưu giữ tại nhà số 5

2. Viện Công nghệ xạ hiếm

Thị trấn Phùng, xã Đan Phượng, huyện Hoài Đức, TP. Hà Nội

733 thùng

(mỗi thùng có dung

tích 200 lít)

chứa các chất thải phóng xạ là các đuôi quặng phát sinh do quá trình nghiên cứu quặng Uranium của Viện Công nghệ xạ hiếm

b. Tình hình quản lý và bảo đảm an toàn bức xạ đối với nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng: Không

Tháng 7/2013, toàn bộ 106 thanh nhiên liệu đã cháy HEU (VVR-M2) đã

được chuyển trả về Nga.

c. Thống kê các nguồn phóng xạ đã qua sử dụng đang lưu giữ hiện nay:

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

46

Hiện trạng về công tác lưu giữ nguồn phóng xạ tính đến thời điểm hết tháng 12/2015, có gần 1840 nguồn phóng xạ đã qua sử dụng (không tính số lượng nguồn Ir-192 dùng trong chụp ảnh phóng xạ công nghiệp đã không còn sử dụng, được thay thế bằng nguồn mới) đang được lưu giữ tại các cơ sở đã được Cục cấp giấy phép lưu giữ, phân bổ tại các miền Bắc: 1503, miền Trung: 258, miền Nam: 79, còn một số nguồn phóng xạ đã được dùng đê đo mức trong xi măng lò đứng, thiết bị đo độ ẩm độ chặt … vẫn chưa được cấp phép. Do chưa có kho lưu giữ nguồn phóng xạ quốc gia nên nguồn phóng xạ hiện đang được lưu giữ tại các cơ sở hoặc đang được lưu giữ tại các cơ sở có kho lưu giữ đảm bảo an toàn, an ninh nguồn phóng xạ dưới dạng dịch vụ thuê lưu giữ.

Các quy định quản lý lưu giữ nguồn phóng xạ đã qua sử dụng, trong đó có Thông tư số 22/2014/TT-BKHCN ngày 25/8/2014 của Bộ KH&CN quy định về quản lý chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua sử dụng. Thông tư số 22 về quản lý chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua sử dụng có hiệu lực từ ngày 1/11/2014. Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 của Thông tư 22, chủ nguồn phóng xạ đã qua sử dụng có trách nhiệm lựa chọn và áp dụng các phương pháp: 1. Chuyển giao nguồn phóng xạ cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng tiếp; 2. Chuyển trả lại cho nhà sản xuất, nhà cung cấp nước ngoài; 3. Chuyển giao cho cơ sở lưu giữ chất thải phóng xạ; 4. Lưu giữ lâu dài tại cơ sở nếu có đủ năng lực của cơ sở lưu giữ chất thải; 5. Lưu giữ tạm thời tại cơ sở không quá 3 năm. Để tăng cường công tác quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng bảo đảm an toàn, an ninh, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) hướng dẫn các tổ chức, cá nhân hoạt động tiến hành công việc bức xạ, khi lập hồ sơ cấp phép thực hiện các yêu cầu sau:

- Đối với các tổ chức làm dịch vụ xuất nhập khẩu nguồn phóng xạ hoặc tổ chức tự nhập khẩu nguồn phóng xạ cho nhu cầu của cơ sở: Yêu cầu phải cam kết trả lại nhà sản xuất nguồn hoặc phải có văn bản cam kết đảm bảo nghĩa vụ tài chính chi trả cho việc xử lý, lưu giữ khi chuyển giao nguồn phóng xạ đã qua sử dụng cho cơ sở lưu giữ chất thải phóng xạ. Cam kết trên gửi kèm hồ sơ đề nghị cấp giấy phép nhập khẩu nguồn phóng xạ. Nếu không có cam kết, coi như cơ sở chưa đủ điều kiện để cấp phép nhập khẩu nguồn phóng xạ;

- Các tổ chức, cá nhân nhập khẩu nguồn phóng xạ để sử dụng theo các dự án mà không làm thủ tục cấp phép nhập khẩu, vận chuyển và sử dụng trong nước, khi không có nhu cầu sử dụng nữa, chuyển sang lưu giữ nguồn phóng xạ đã qua sử dụng, thì cơ sở được yêu cầu buộc phải xuất khẩu trả lại nơi sản xuất, cung cấp nguồn ban đầu;

- Các tổ chức, cá nhân có nguồn phóng xạ không có nhu cầu sử dụng nữa hoặc nguồn phóng xạ đã qua sử dụng và được Cục ATBXHN cấp giấy phép tự xử lý, lưu giữ tạm thời, thời hạn của giấy phép không quá 3 năm: Các chủ cơ sở được yêu cầu thu xếp tài chính để chuyển giao chất thải phóng xạ hoặc nguồn phóng xạ đã qua sử dụng cho cơ sở lưu giữ chất thải phóng xạ. Cục ATBXHN có trách nhiệm hỗ trợ chỉ định cơ sở đủ điều kiện lưu giữ chất thải phóng xạ và thẩm định

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

47

các thủ tục cấp phép để chuyển giao. Vấn đề cơ sở không được gia hạn cấp giấy phép lưu giữ tại cơ sở nguồn phóng xạ đã qua sử dụng theo quy định tại Thông tư 22 cần được các cơ quan có thẩm quyền xem xét, vì nếu cơ sở không có khả năng chuyển đến lưu giữ tại cơ sở làm dịch vụ lưu giữ (không có đủ kinh phí để trả với số tiền quá lớn) mà không cho phép tiếp tục gia hạn giấy phép thì sẽ vi phạm các quy định tại Thông tư 22.

Nhiều tổ chức, cá nhân có mong muốn gửi lưu giữ nguồn phóng xạ đã qua sử dụng tại các cơ sở làm dịch vụ lưu giữ theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước. Tuy nhiên, hiện tại chưa có văn bản quy định chi tiết các biểu giá được tính cho các loại hình lưu giữ lâu dài nguồn phóng xạ tại các cơ sở dịch vụ. Các đơn vị làm dịch vụ lưu giữ thuê cũng chưa có thống nhất về chi phí lưu giữ lâu dài đối với từng loại nguồn phóng xạ đã qua sử dụng gây khó khăn cho cơ sở về khả năng tài chính để chi trả.

Hiện tại kho của Liên đoàn vật lý địa chất thì lưu giữ các nguồn phóng xạ, các mẫu quặng phóng xạ của Liên đoàn. Kho của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân, Trung tâm đánh giá không phá hủy thì lưu giữ nguồn của chính các cơ sở này, lưu giữ các nguồn phóng xạ của các cơ sở khác dưới dạng dịch vụ lưu giữ và hỗ trợ cho công tác bảo đảm an toàn bức xạ đối với các nguồn phóng xạ vô chủ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng theo yêu cầu của cơ quan quản lý. Tuy nhiên, kho của Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân và Trung tâm đánh giá không phá hủy nằm tại vị trí trung tâm thành phố, nằm giữa khu dân cư. Do đó, về cơ bản từ cuối năm 2013 đến nay Cục ATBXHN đề nghị 02 đơn vị này không nhận lưu giữ thêm các nguồn phóng xạ của các đơn vị khác.

Theo nghiên cứu, đánh giá các cơ sở có các kho lưu giữ các nguồn phóng xạ đã qua sử dụng hiện đang lưu giữ 1474 nguồn phóng xạ đã qua sử dụng, cụ thể:

- Viện KHKTHN: 144 nguồn đã qua sử dụng.

- Viện Nghiên cứu hạt nhân: 155 nguồn đã qua sử dụng.

- Trung tâm NDE: 492 nguồn đã qua sử dụng, chủ yếu là nguồn Ir-192 được thay thế trong chụp ảnh phóng xạ công nghiệp (chưa tính khoảng 450 nguồn hiện tại ở dưới mức miễn trừ, nhưng chưa được thanh lý).

- Liên đoàn Vật lý địa chất: 683 nguồn đã qua sử dụng.

- và một số kho lưu giữ nhỏ khác như Vietsopetro, Trung tâm Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp ... đang lưu giữ một số lượng nhỏ các nguồn của cơ sở và tái sử dụng lại khi có nhu cầu.

Theo đánh giá, các kho lưu giữ các nguồn đã qua sử dụng của các cơ sở về cơ bản bảo đảm được yêu cầu về an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ theo yêu cầu của các quy định về pháp luật của Việt Nam. Như vậy, trong giai đoạn

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

48

trước mắt vẫn nên giữ nguyên các nguồn phóng xạ tại các kho nguồn nêu trên, chưa cần thiết phải tập trung thu gom về cơ sở tập trung cho đến khi có kho lưu giữ chất thải phóng xạ của quốc gia để tránh lãng phí nguồn đầu tư của nhà nước.

Với số lượng trên 400 nguồn phóng xạ đã qua sử dụng theo nhóm nguồn và các mức an ninh cần được thu gom tập trung trong giai đoạn trước mắt, kèm theo số lượng tăng trưởng dự báo do nhu cầu gia tăng theo nhu cầu ứng dụng nguồn phóng xạ trong các ngành kinh tế xã hội trong thời gian tới khỏang 10-15% năm. Với nhu cầu cấp thiết đối với việc thu gom các nguồn phóng xạ hiện đã lưu giữ rải rác ở các cơ sở tự xử lý lưu giữ, các cơ sở lưu giữ chưa được cấp giấy phép (ví dụ các nguồn dùng cho thiết bị đo độ ẩm độ chặt, thiết bị đo mức trong xi măng lò đứng) có nguy cơ rất cao về mất an toàn, an ninh đối với nguồn phóng xạ và đã từng xảy ra các vụ mất cắp nguồn phóng xạ đã xảy ra trong thời gian qua do thiếu tránh nhiệm của các tổ chức cá nhân tiến hành công việc bức xạ và những khó khăn trong công tác quản lý nhà nước đổi với nguồn phóng xạ và đã được Thủ tướng Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ra Chỉ thị để tăng cường công tác nêu trên, nhằm bảo đảm nâng cao năng lực công tác quản lý này. Cục ATBXHN cung cấp thông tin và phối hợp với Bộ tư lệnh Hóa học Bộ quốc phòng để triển khai thực hiện đề án thu gom các nguồn phóng xạ nêu trên để quản lý thu gom tập trung.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

49

VI. AN TOÀN ĐỐI VỚI LÒ PHẢN ỨNG HẠT NHÂN ĐÀ LẠT

6.1 Giới thiệu chung:

Lò NCHN Đà Lạt là lò phản ứng nghiên cứu duy nhất của nước ta. Mặc dù đã hoạt động trên 30 năm, nhưng các hệ thống văn bản quy phạm phục vụ quản lý an toàn lò phản ứng là chưa đầy đủ.

Với chủ trương của Chính phủ về xây dựng Trung tâm KH&CN hạt nhân, trong đó có lò phản ứng nghiên cứu mới công suất lớn đa mục tiêu thì vấn đề quan tâm hàng đầu hiện nay của Cơ quan pháp quy hạt nhân là sớm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ quản lý Lò nghiên cứu từ giai đoạn lựa chọn địa điểm xây dựng cho đến vận hành và khai thác sử dụng.

6.2. Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật cho lò phản ứng nghiên cứu:

Trong năm 2015, Cục ATBXHN đã phối hợp với Viện NLNT Việt Nam hoàn thiện dự thảo các Quyết định cá biệt của Bộ trưởng Bộ KH&CN về các yêu cầu đối với lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu, dự kiến sẽ được ban hành trong năm 2016 và 2017, bao gồm:

- Yêu cầu về an toàn hạt nhân đối với địa điểm xây dựng lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu: Văn bản này đã xin ý kiến các cơ quan liên quan và dự kiến ban hành trong năm 2016;

- Yêu cầu về nội dung Báo cáo phân tích an toàn lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu: Văn bản này sẽ tham vấn IAEA trong năm 2016 trong khi trình ban hành năm 2016-2017;

- Yêu cầu về an toàn hạt nhân đối với thiết kế lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu: Văn bản này sẽ tham vấn IAEA trong năm 2016 trong khi hoàn thiện trình ban hành năm 2016-2017.

6.3 Hoạt động quản lý an toàn lò phản ứng Đà Lạt

Trong năm 2015 Cục ATBXHN không triển khai thanh tra đối với Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, tuy nhiên hoạt động vận hành của Lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu vẫn được báo cáo thường xuyên cho Cục ATBXHN sau mỗi đợt vận hành chạy lò dài ngày.

Trong năm 2015, tại lò phản ứng nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt đã xảy ra việc dập lò tự động không theo kế hoạch khi có sét đánh gần khu vực nhà lò trong tháng 9/2015 (theo báo cáo số 163/VNCHN ngày 22/9/2015 của Viện Nghiên cứu hạt nhân). Theo yêu cầu của Cục ATBXHN (Công văn số 1337/ATBXHN ngày 19/10/2015 về việc báo cáo nguyên nhân sự việc; tình hình khắc phục sai hỏng, các biện pháp khắc phục) ngày 03/11/2015 Viện NCHN đã gửi Công văn số 202/VNCHN báo cáo việc xác định nguyên nhân, kế hoạch khắc phục hậu quả đối với sự việc nêu trên trên đồng thời cam kết tăng

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

50

cường công tác kiểm tra, bảo dưỡng, cũng như bổ sung một số quy định vào chương trình đảm bảo chất lượng và quy trình kiểm tra hệ chống sét, sẽ tiến hành lắp đặt các thiết bị ngắt/ thóat sét cho mạng điện của khu vực nhà I, nhà II và các khu vực còn lại trong thời gian tới.

6.4. Đánh giá chung về công tác bảo đảm an toàn lò phản ứng Đà Lạt năm 2015

Năm 2015 Cục ATBXHN không tiến hành thanh tra định kỳ đối với lò nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt. Tuy nhiên, tại Hội nghị pháp quy hạt nhân lần thứ 2 đã được cử hành tại Đà Lạt vào tháng 5/2015, mọi vấn đề về công tác quản lý an toàn đối với lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu đã được Viện NCHN báo cáo đầy đủ.

Nhìn chung, trong năm 2015, Viện NCHN đã có nhiều cố gắng trong công tác bảo đảm an toàn cho hoạt động của lò phản ứng Đà Lạt, bảo đảm an toàn cho các đợt chạy lò dài ngày theo kế hoạch. Khi xảy ra sự việc dập lò không theo kế hoạch trong tháng 9/2015, Viện NCHN cũng đã chủ động, tích cực trong việc thực hiện xem xét nguyên nhân sự việc, kịp thời có biện pháp khắc phục, và đã thực hiện đầy đủ các kiến nghị theo các yêu cầu kiến nghị liên quan đến tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn đối với lò phản ứng của Cục ATBXHN.

VII. AN NINH NGUỒN PHÓNG XẠ, VẬT LIỆU HẠT NHÂN VÀ CƠ SỞ HẠT NHÂN

7.1. Tình hình quản lý an ninh nguồn phóng xạ

Việc thực thi pháp luật về bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ được thực hiện thông qua hoạt động cấp phép, thẩm định cấp phép và thanh tra của Cục ATBXHN.

Nhằm mục tiêu quản lý chặt chẽ các nguồn phóng xạ, thông tin các nguồn phóng xạ đang sử dụng hay đang được lưu giữ đã được, Cục ATBXHN thường xuyên cập nhật trong cơ sở dữ liệu khai báo nguồn phóng xạ RAISVN. Hệ thống này cũng cho phép lưu giữ thông tin của các cơ sở sử dụng, lưu giữ nguồn phóng xạ cũng như tình trạng cấp giấy phép cho sử dụng các nguồn phóng xạ.

Để tăng cường công tác bảo đảm an ninh cho các nguồn phóng xạ có mức độ nguy hiểm cao trong khuôn khổ Sáng kiến giảm nguy cơ đe dọa toàn cầu, 24 cơ sở bức xạ sử dụng nguồn phóng xạ loại I với độ phóng xạ lớn hơn 1000 Ci đã được trang bị hệ thống an ninh, bảo đảm an ninh cho nguồn phóng xạ đang sử dụng.

Đối với các nguồn phóng xạ di động với nguy cơ rủi ro cao của việc mất nguồn phóng vì các nguồn này thường xuyên được di chuyển từ địa bàn này sang địa bàn khác để trong quá trình sử dụng và đặc biệt các bài học từ các sự cố mất nguồn phóng xạ cuối năm 2014 và đầu năm 2015, Cục ATBXHN đã nghiên cứu sửa đổi Thông tư số 23/2010/TT-BKHCN Hướng dẫn bảo đảm an ninh

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

51

nguồn phóng xạ, bổ sung quy định yêu cầu các cơ sở sử dụng nguồn phóng xạ sử dụng di động phải lắp đặt thiết bị định vị cho nguồn phóng xạ để có thể xác định vị trí các nguồn này trong quá trình di chuyển. Thông tư số 13/2015/TT-BKHCN sửa đổi, bổ sung Thông tư 23 đã được Bộ KHCN ban hành ngày 21/7/2015. Triển khai thực hiện quy định của Thông tư số 13/2015/TT-BKHCN, Cục ATBXHN đã phối hợp với các đơn vị kỹ thuật để thiết lập hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho giám sát nguồn phóng xạ di động, bao gồm nghiên cứu chế tạo thiết bị định vị nguồn phóng xạ và phần mềm quản lý giám sát nguồn di động. Dự kiến các đơn vị sử dụng nguồn phóng xạ di động chụp ảnh phóng xạ công nghiệp NDT sẽ phải thực hiện quy định của Thông tư số 13/2015/TT-BKHCN từ tháng 7/2016. Ngoài ra, để thực hiện mục đích này, như đã báo cáo trong Báo cáo năm 2014, Cục ATBXHN cũng đang triển khai các hoạt động trong khuôn khổ dự án RADLOT (Dự án thử nghiệm Hệ thống định vị nguồn phóng xạ) đã ký giữa Việt Nam, Hàn Quốc và IAEA vào năm 2014.

Để tăng cường nhận thức của các cơ sở cũng như các cán bộ quản lý về bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ, trong năm 2015 Cục ATBXHN đã tổ chức 02 Hội thảo về Văn hóa an ninh hạt nhân cho cán bộ các Sở Khoa học và Công nghệ cũng như cán bộ an toàn của các cơ sở sử dụng nguồn phóng xạ di động và nguồn phóng xạ có hoạt độ cao.

Để tiếp tục triển khai hoạt động trong khuôn khổ Dự án an ninh hạt nhân với IAEA, Cục ATBXHN đã chủ trì, phối hợp với Tổng cục Hải quan và chuyên gia IAEA thực hiện khảo sát kỹ thuật tại Sân bay Nội Bài và Sân bay Tân Sơn Nhất từ ngày 2-6/11/2015 để xây dựng phương án lắp đặt các cổng phát hiện phóng xạ tại sân bay Tân Sơn Nhất.

Để việc phối hợp giữa cơ quan hỗ trợ trong ứng phó (Cục ATBXHN) và cơ quan sử dụng các cổng phát hiện phóng xạ (cơ quan hải quan), Cục ATBXHN đã phối hợp với Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính) xây dựng dự thảo Thông tư liên tịch về cơ chế phối hợp trong việc xử lý khi có cảnh báo phóng xạ. Thông tư liên tịch số 112/2015/TTLT-BTC-BKHCN Hướng dẫn cơ chế phối hợp và xử lý trong việc kiểm tra, phát hiện chất phóng xạ tại các cửa khẩu đã được Bộ Tài chính và Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành ngày 29/7/2015, tạo cơ sở pháp lý cho việc phối hợp giữa Cục ATBXHN và cơ quan hải quan.

7.2. Tình hình quản lý an ninh vật liệu hạt nhân và cơ sở hạt nhân

Hiện tại, ta chỉ có một cơ sở hạt nhân duy nhất tại Viện Nghiên cứu hạt nhân và một vài địa điểm ngoài cơ sở với lượng nhỏ vật liệu hạt nhân nguồn đang được lưu giữ và sử dụng tại các viện nghiên cứu. Vật liệu hạt nhân tại các cơ sở này hàng năm đều được kiểm đếm và báo cáo cho Cục An toàn bức xạ và hạt nhân. Tại cơ sở hạt nhân, các biện pháp bảo vệ thực thể đã được nâng cấp trong thời gian 2008-2009, bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật.

Nhìn chung, việc quản lý an ninh vật liệu hạt nhân và cơ sở hạt nhân được thực hiện tốt theo quy định hiện hành và hướng dẫn của IAEA.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

52

Để chuẩn bị cho chương trình điện hạt nhân, trong năm 2015, một số hoạt động về quản lý an ninh vật liệu hạt nhân và cơ sở hạt nhân đã được thực hiện như sau:

- Trên cơ sở bản Kế hoạch Hỗ trợ an ninh tổng hợp giữa Việt Nam và IAEA (INSSP) được cập nhật tại Hội nghị Cập nhật Bản INSSP (8-12/12/2014), “Kế hoạch hỗ trợ của IAEA đối với Việt Nam về xây dựng khung pháp quy về an ninh hạt nhân cho Chương trình điện hạt nhân” cho 2014-2016 đã được xây dựng. Với Kế hoạch này, cán bộ của Cục và Bộ Công an đã được IAEA hỗ trợ tham gia Đợt tập huấn về hệ thống bảo vệ thực thể tại Cơ quan pháp quy hạt nhân Pakistan từ ngày 30/3/2015 đến 10/4/2015 và tháng 11/2015, một đoàn cán bộ quản lý của Cục ATBXHN và Bộ Công an đã có chuyến tham quan khoa học tại Hungary.

Ngoài các hoạt động trên, Cục cũng được IAEA cung cấp tài liệu về bảo vệ thực thể cơ sở hạt nhân, làm cơ sở giúp Cục xây dựng các yêu cầu pháp quy đối với hệ thống bảo vệ thực thể cơ sở hạt nhân, trong đó có nhà máy điện hạt nhân.

- Từ ngày 11-12/3/2015, Bộ KHCN (Cục ATBXHN), Bộ Công an đã phối hợp với IAEA tổ chức Hội thảo về khung văn bản pháp quy về an ninh hạt nhân, với sự tham gia của các Bộ, ngành liên quan, làm cơ sở xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về an ninh hạt nhân.

- Cục ATBXHN cũng đã thực hiện việc góp ý cho dự thảo DBT của Bộ Công an. Đây là văn bản quan trọng làm cơ sở cho việc thiết kế hệ thống bảo vệ thực thể cơ sở hạt nhân, phục vụ chương trình điện hạt nhân.

- Từ ngày 06-09/7/2015, Cục ATBXHN đã phối hợp với US DOE tổ chức Hội thảo xây dựng Kế hoạch ứng phó sự cố mất an ninh tại Đà Lạt nhằm giúp Viện Nghiên cứu hạt nhân xây dựng Kế hoạch ứng phó sự cố an ninh của Viện và để làm cơ sở giúp Cục xây dựng văn bản hướng dẫn xây dựng Kế hoạch ứng phó sự cố mất an ninh cho cơ sở hạt nhân, trong đó có cả nhà máy điện hạt nhân, phục vụ chương trình điện hạt nhân.

7.3. Xây dựng năng lực hỗ trợ kỹ thuật phục vụ quản lý an ninh nguồn phóng xạ và vật liệu hạt nhân, cơ sở hạt nhân

Thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam tại các Hội nghị thượng đỉnh an ninh hạt nhân, Cục ATBXHN đã chuẩn bị các điều kiện để xây dựng Trung tâm xuất sắc về an ninh và thanh sát hạt nhân. Trong năm 2015, các hoạt động sau đã được thực hiện:

- Từ ngày 16-18/11/2015, Cục ATBXHN đã chủ trì, phối hợp với Chương trình An ninh hạt nhân toàn cầu (DTRA) của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tổ chức Hội thảo về An ninh hạt nhân và Trung tâm Hỗ trợ An ninh hạt nhân, mở ra hợp tác mới trong lĩnh vực này.

- Từ ngày 16-17/03/2015, Cục ATBXHN đã phối hợp với Bộ Công an tổ chức Cuộc họp điều phối giữa Bộ Công an và IAEA về việc chuẩn bị cho công tác bảo đảm an ninh hạt nhân trong Lễ hội Đền Hùng năm 2016 Với Kế hoạch

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

53

hành động được ký giữa Bộ Công an và IAEA nhiều hoạt động chuẩn bị sẽ được thực hiện cho đến Lễ hội Đền Hùng năm 2016. Việc hợp tác này có ý nghĩa quan trọng, giúp nâng cao năng lực trong nước về phát hiện, ngăn ngừa việc sử dụng vật liệu phóng xạ cho mục đích xấu.

- Cục cũng đã chủ trì, phối hợp với IAEA tổ chức Hội thảo giới thiệu Dịch vụ quốc tế về Bảo vệ thực thể của IAEA (24-26/11/2015), làm cơ sở đề xuất mời IAEA vào thực hiện dịch vụ này, giúp đánh giá cơ sở hạ tầng bảo vệ thực thể của Việt Nam làm để xây dựng kế hoạch nâng cao năng lực của Việt nam trong lĩnh vực này.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

54

VIII. THANH SÁT HẠT NHÂN

Theo Hiệp định Thanh sát, hàng năm IAEA sẽ thực hiện thanh sát tại Việt Nam nhằm kiểm chứng về việc các vật liệu hạt nhân được khai báo của Việt Nam không có sự chuyển hướng sử dụng từ mục đích hòa bình sang mục đích vũ khí hạt nhân

Đồng thời, Việt Nam phải nộp khai báo cho IAEA vào ngày 15/5 và khai báo về xuất khẩu vật liệu và thiết bị được thiết kế đặc biệt và được chế tạo để sử dụng cho chu trình nhiên liệu hạt nhân ba tháng một lần.

Dưới đây là kết quả hoạt động thanh sát hạt nhân năm 2015 của Việt Nam:

8.1. Hoạt động thanh sát năm 2015

- Tháng 5/2015, IAEA đã có “Kết luận mở rộng” đối với Việt Nam và trình Hội đồng Thống đốc IAEA.

- Thực hiện Hiệp định thanh sát:

+ Các báo cáo kế toán vật liệu hạt nhân (khoảng 10 báo cáo) năm 2015 đã được xây dựng và gửi cho IAEA đúng thời hạn.

+ Làm thủ tục visa cho thanh sát viên IAEA (02 đợt).

+ Làm thủ tục và cùng thanh sát viên của IAEA thực hiện thanh sát định kỳ tại Lò phản ứng Đà Lạt (16/10/2015). Do tại thời điểm này, Lò Đà lạt đang vận hành, Cục ATBXHN đã đàm phán với thanh sát viên IAEA và cán bộ của Viện Nghiên cứu hạt nhân để tìm giải pháp bảo đảm lò vẫn chạy và ta vẫn thực hiện được theo yêu cầu của IAEA.

+ Khoảng 5 kg thô- ri sử dụng làm lưới xuất đi Nhật Bản của Viện Công nghệ Xạ hiếm đã được làm thủ tục chấm dứt thanh sát và đã được IAEA chấp nhận, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của cơ sở.

- Thực hiện Nghị định thư bổ sung (AP):

+ Cục ATBXHN đã hướng dẫn các cơ sở khai báo định kỳ, trên cơ sở đó xây dựng khai báo quốc gia. Đến năm 2015, tổng cộng đã có 54 khai báo gửi cho IAEA. Các khai báo đã gửi đúng thời hạn.

+ Trong năm 2015 Cục ATBXHN đã cùng chuyên gia IAEA thực hiện 02 tiếp cận bổ sung (tháng 5/2015 tại Viện Công nghệ Xạ Hiếm và tháng 10/2015 tại Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân), bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Việt Nam theo Nghị định thư bổ sung, và được IAEA đánh giá tốt.

+ Cũng trong khuôn khổ Nghị định thư bổ sung, theo gợi ý của IAEA, ta đã mời thanh sát viên IAEA đến làm việc tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là cơ sở được giao trách nhiệm thực hiện đào tạo cho chương trình điện hạt nhân. Đợt làm việc đã được đánh giá tốt. Đạt được điều này một phần là do năm

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

55

2014, Cục ATBXHN đã tổ chức Hội thảo để tuyên truyền về Nghị định thư bổ sung cho cán bộ giảng dạy, nghiên cứu của Trường.

- Ngoài ra, để bảo đảm việc trao đổi thông tin giữa Cục ATBXHN và IAEA kịp thời, Cục ATBXHN tiếp tục duy trì kênh thông tin bảo mật.

8.2. Xây dựng năng lực kỹ thuật phục vụ thanh sát hạt nhân

Như đã báo cáo trong năm 2014, hiện nay các hoạt động liên quan đến thanh sát hạt nhân chưa nhiều, do ta chỉ có một cơ sở hạt nhân và 03 địa điểm ngoài cơ sở (LOF) chịu kiểm soát theo Hiệp định Thanh sát và Nghị định thư bổ sung. Tuy nhiên, với việc ta đang chuẩn bị xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam và lò phản ứng nghiên cứu mới, thì hoạt động thanh sát hạt nhân sẽ mở rộng hơn nhiều, bao gồm cả kiểm soát xuất, nhập khẩu vật liệu, thiết bị đặc biệt được thiết kế và chế tạo cho chu trình nhiên liệu hạt nhân (và có thể cả lưỡng dụng). Do vậy công tác đào tạo nhân lực cũng như xây dựng năng lực kỹ thuật phục vụ cho thanh sát hạt nhân là một yêu cầu rất cần thiết.

Để xây dựng năng lực về thanh sát hạt nhân, trong năm 2015 Cục ATBXHN đã triển khai các hoạt động sau:

- Tháng 01 và tháng 6/2015, Cục ATBXHN đã làm việc với Chương trình Cam kết và thanh sát quốc tế của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (Chương trình INSEP) về Quản lý thông tin thanh sát nhằm từng bước cải thiện phần mềm quản lý các thông tin thanh sát do Cục xây dựng để bảo đảm các báo cáo kế toán do cơ sở cung cấp có chất lượng tốt. Hiện tại, phần mềm đã hoàn thiện và đang tiến hành đánh giá trước khi đưa vào sử dụng.

- Cũng trong khuôn khổ hợp tác với Chương trình INSEP, tháng 4/2015, Cục ATBXHN đã làm việc với chuyên gia Hoa Kỳ về việc xây dựng Phòng thí nghiệm Thanh sát, nhằm xác định mục tiêu và xây dựng kế hoạch chiến lược cho Phòng thí nghiệm. Đây là bước chuẩn bị để xây dựng Trung tâm tiên tiến về An ninh và Thanh sát hạt nhân phục vụ công tác quản lý nhà nước của Cục ATBXHN trong hai lĩnh vực an ninh hạt nhân và thanh sát hạt nhân.

- Cục ATBXHN đã chủ trì, phối hợp với Chương trình INSEP của Bộ Năng lượng Hoa Kỳ tổ chức Hội thảo phổ biến thông tin về Nghị định thư bổ sung vào tháng 4/2015 cho Trường Đại học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh. Hội thảo được các giảng viên của trường đánh giá cao và mong muốn có những Hội thảo tương tự được tổ chức.

- Việc khảo sát hoạt động nghiên cứu của cán bộ giảng dạy Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ chí Minh cũng đã được thực hiện, làm cơ sở cho việc khai báo theo Nghị định thư bổ sung.

8.3. Kết luận

Một kết quả nổi bật trong năm 2015 là IAEA đã có “Kết luận mở rộng” đối với Việt Nam và trình Hội đồng Thống đốc IAEA tháng 5/2015. Theo đó, đã kết luận không có vật liệu hạt nhân, hoạt động hạt nhân nào của Việt Nam

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

56

không được khai báo. Nói một cách khác, tất cả vật liệu hạt nhân, hoạt động hạt nhân của Việt Nam đã được khai báo đầy đủ theo quy định. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đạt được kết luận này kể từ khi thực hiện thanh sát hạt nhân từ năm 1990. Với kết luận như vậy, IAEA sẽ thực hiện cách tiếp cận tổng quát về thanh sát đối với Việt Nam, trong đó IAEA sẽ đánh giá một cách tổng hợp về các hoạt động hạt nhân, vật liệu hạt nhân của Việt Nam. Tại thời điểm hiện tại, do hoạt động của ta chưa có nhiều, hoạt động thanh sát của IAEA tại Việt Nam có thể không có thay đổi nhiều. Tuy nhiên, một khi ta có nhà máy điện hạt nhân hoạt động thì thanh sát hạt nhân của IAEA có thể giảm đáng kể (từ 4 lần thanh sát/ năm xuống còn 2 lần/ năm). Như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở có nhà máy điện hạt nhân. Tuy nhiên, cần lưu ý ở đây là kết luận về thực hiện thanh sát tại các quốc gia được IAEA thực hiện và báo cáo cho Hội đồng Thống đốc hàng năm. Vì vậy, ta cần tiếp tục thực hiện hoạt động thanh sát trong nước hiệu quả để bảo đảm hàng năm ta vẫn đạt được “Kết luận mở rộng” của IAEA.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

57

IX. QUẢN LÝ CHẤT THẢI PHÓNG XẠ, NGUỒN PHÓNG XẠ VÀ NHIÊN LIỆU HẠT NHÂN ĐÃ QUA SỬ DỤNG

9.1. Giới thiệu về hệ thống quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng

Hiện tại, Việt Nam chưa có cơ sở lưu giữ chất thải phóng xạ quốc gia. Chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng được lưu giữ tại nhiều địa điểm trên toàn quốc. Các cơ sở này lưu giữ chất thải từ các hoạt động trong y tế, công nghiệp và nghiên cứu với dự kiến là lưu giữ không thời hạn do chưa có một cơ sở lưu giữ chung của quốc gia. Hiện tại, việc lưu giữ này khá an toàn, nhưng trên thực tế các cơ sở này không được thiết kế với mục đích quản lý chất thải phóng xạ dài hạn. Đồng thời, việc lưu giữ như vậy là không theo với chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là theo Công ước chung về An toàn quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và An toàn quản lý chất thải phóng xạ mà Việt Nam đã tham gia năm 2013, theo đó quốc gia phải có cơ sở lưu giữ hoặc chôn lấp quốc gia với các yêu cầu quản lý pháp quy nhằm giảm thiểu rủi ro. Đặc biệt, có thể thấy rõ tầm quan trọng và gánh nặng của việc quản lý chất thải phóng xạ của nhà máy điện hạt nhân. Vì vậy, việc xác định các biện pháp quản lý chất thải phóng xạ, lựa chọn được công nghệ hợp lý, giảm thiểu tối đa thể tích chất thải phóng xạ sẽ làm giảm đáng kể công tác quản lý, lưu giữ và chôn cất chất thải phóng xạ và nhiên liệu đã qua sử dụng sau này.

- Hiện tại trong toàn quốc có 2 cơ sở quản lý chất thải phóng xạ tại Viện Nghiên cứu hạt nhân à Viện Công nghệ xạ hiếm

- Đối với nguồn phóng xạ đã qua sử dụng trong cả nước có một số cơ sở lưu giữ tập trung sau:

+ Viện Nghiên cứu hạt nhân

+ Viện Khoa học kỹ thuật hạt nhân

+ Trung tâm Hạt nhân Thành phố Hồ Chí Minh

+ Trung tâm NDE

+ Liên đoàn địa chất xạ hiếm

+ Liên đoàn dầu khí Việt-Sô

+ Một số nhà máy xi măng

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

58

Các cơ sở này đã được Cục ATBXHN cấp giấy phép và định kỳ được thanh tra Cục thực hiện. Tổng số nguồn phóng xạ được lưu giữ tại các cơ sở này là 905 nguồn.

- Ngoài ra một số lượng không nhỏ các nguồn phóng xạ các cơ sở lưu giữ tại cơ sở tiềm ẩn nguy cơ mất an ninh nguồn phóng xạ (tổng cộng 935 nguồn).

- Theo quy định tại Thông tư 22/2014/TT-BKHCN, các nguồn phóng xạ đã qua sử dụng sẽ được đưa về lưu giữ tập trung tại cơ sở lưu giữ lâu dài do Bộ KH&CN chỉ định. Để thực hiện yêu cầu này, Bộ KH&CN đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép nâng cấp kho lưu giữ của Bộ Tư lệnh hóa học làm cơ sở lưu giữ tập trung lâu dài của quốc gia.

9.2. Quản lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà lạt

Sau khi chuyển đổi toàn bộ nhiên liệu cho Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt từ nhiên liệu có độ làm giàu cao (HEU) sang nhiên liệu có độ làm giàu thấp (LEU) đã sinh ra 106 bó nhiên liệu hạt nhân có độ giàu cao đã qua sử dụng (loại VVR-M2 có độ giàu cao). Nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng này đã được lưu giữ và quản lý bởi Viện Nghiên cứu hạt nhân (Đà Lạt).

Đến tháng 6/2013, Bộ Khoa học và Công nghệ đã cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ - cho phép Viện Nghiên cứu hạt nhân xuất khẩu và vận chuyển 106 bó nhiên liệu đã cháy HEU (VVR-M2) bằng công ten nơ đặc chủng SKODA VPVR/M về Liên bang Nga theo hợp đồng vận chuyển số TS 1011/23-2012. Tháng 7/2013, toàn bộ 106 bó nhiên liệu đã cháy HEU (VVR-M2) đã được chuyển trả về Nga. Cấu hình vùng hoạt làm việc hiện nay của lò phản ứng gồm 92 bó nhiên liệu độ giàu thấp và trong năm 2015 lò phản ứng đã vận hành được 1549 giờ ở mức công suất danh định 500 kW. Như hiện nay Việt Nam không có nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng.

9.3. Hoạt động của kho lưu giữ chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua sử dụng của Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà lạt

a. Công tác quản lý chất thải phóng xạ phát sinh trong quá trình vận hành lò phản ứng:

- Chất thải rắn:

+ Số lượng chất thải rắn phát sinh trong năm: 4m3;

+ Biện pháp xử lý đối với chất thải rắn: Phân loại thu nhỏ thể tích bằng phương pháp nén ép;

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

59

+ Địa điểm lưu giữ chất thải: Nhà lưu giữ chất thải phóng xạ (Nhà 5).

- Hệ thống thải lỏng:

+ Lượng chất thải phóng xạ lỏng phát sinh trong năm: 20 m3

+ Biện pháp xử lý đối với chất thải phóng xạ lỏng: Phương pháp lưu giữ phân rã hóa hơi, trao đổi ion.

b. Công tác đảm bảo an ninh:

- Cơ sở sử dụng camera theo dõi, bảo vệ 24/24 tại khu vực kho nguồn.

- Tuân thủ việc kiểm đếm nguồn phóng xạ theo quy định của Thông tư số 23/2010/TT-BKHCN ngày 29/12/2010, lần kiểm đếm gần nhất là 30/12/2015.

- Cơ sở lập hồ sơ kiểm kê nguồn định kỳ, có biên bản bàn giao, tiếp nhận nguồn phóng xạ.

- Cơ sở lập sổ theo dõi kho trong đó ghi rõ: tên các thiết bị, nguồn phóng xạ được lưu giữ tại kho, thời gian lưu giữ, thời gian mang nguồn đi sử dụng, người xuất, nhận thiết bị, nguồn …

c. Công tác kiểm xạ khu vực làm việc

Công tác kiểm xạ khu vực làm việc được cơ sở thực hiện theo quy định, giá trị suất liều bức xạ lớn nhất đo được ngoài kho là 2 µSv/giờ ngày 17/12/2015. Kết quả đo được lập thành hồ sơ để lưu giữ.

d. Thống kê nguồn phóng xạ

Theo báo cáo hiện tại cơ sở đang lưu giữ, sử dụng 891 nguồn phóng xạ.

9.4. Hoạt động của kho lưu giữ nguồn phóng xạ đã qua sử dụng của Liên doanh dầu khí Vietsopetro ở Vũng Tàu.

Các nguồn phóng xạ của Cơ sở được lưu giữ tại kho nguồn, có khóa đảm bảo an ninh, có niêm phong, có camera quan sát và bảo vệ.

Việc kiểm đếm được thực hiện hàng tuần. Kiểm kê nguồn được thực hiện một năm một lần. Hàng năm nguồn được bảo dưỡng, đo kiểm tra để đánh giá sự rò rỉ.

Các nguồn phóng xạ được chứa trong các container chuyên dụng và lưu giữ tại kho do viện dầu khí XAKHALIN_CHLB Nga thiết kế và lắp đặt tại khuôn viên XN Địa vật lý giếng khoan. Kho được xây trong khuôn viên các biệt, với tường chắn bê tông xung quanh dày 0,4 m. Hầm lưu giữ nguồn là hệ thống gồm 16 giếng, xếp thành 2 dãy, được chống bằng 2 lớp ống thép và đổ bê tông xung

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

60

quanh và đấy để chống thấm. Kết cấu bên trong giếng có các gióng sắt hai tầng để chứa nguồn, bên trên là tấm cửa sắt bảo vệ. Trên mỗi giếng có hệ thống baling xích để cẩu nguồn mỗi khi xuất, nhập nguồn.

Nguồn được đặt trong container và đặt trên các kệ của gióng sắt trong giếng chứa nguồn, bên trên có cửa sắt bảo vệ. Xung quanh container nguồn là lớp bê tông cốt sắt che chắn.

Kết cầu giếng đảm bảo khô thoáng, điều kiện nhiệt độ môi trường bình thường.

Khuôn viên kho được bảo vệ bằng hàng rào chắn, cổng có khoám biển cảnh báo chung quanh và camera quan sát. Chỉ có nhân viên bức xạ có nhiệm vụ mới được vào khuôn viên kho dưới sự giám sát của thủ kho. Các kho tạm thời trên công trình biển có khóa, niêm phong, biển cảnh báo và cách xa khu vực đông người qua lại.

9.5 Kho lưu giữ tập trung các nguồn phóng xạ của các đơn vị khác

Như đã trình bày, ngoài Viện NCHN và Liên doanh dầu khí Vietsopetro, còn có một số cơ sở khác cũng có kho lưu giữ tập trung các nguồn phóng xạ đã qua sử dụng. Tuy nhiên, các cơ sở này chưa cung cấp báo cáo hiện trạng quản lý năm 2015 để đưa vào trong Báo cáo này. Cục ATBXHN sẽ lưu ý để từ năm 2016 các cơ sở này phải có trách nhiệm cung cấp cơ sở dữ liệu về quản lý nguồn phóng xạ cho Cục.

9.6. Hoạt động xây dựng năng lực hỗ trợ kỹ thuật phục vụ quản lý nhà nước về chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ, nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng

Hiện nay Cục An toàn bức xạ và hạt nhân đang phối hợp với Bộ Tư lệnh hóa học xây dựng Dự án thu gom và lưu giữ các nguồn phóng xạ đã qua sử dụng trong toàn quốc về lưu giữ tại các cơ sở của Bộ Tư lệnh hóa học. Dự án này được đề xuất nhằm bảo đảm an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ, khắc phục các hiện tượng mất an toàn và an ninh như một số trường hợp đã xảy ra trong thời gian gần đây.

Khi Dự án hoàn thành, các cơ sở có nhu cầu có thể chuyển những nguồn phóng xạ đã qua sử dụng về những kho này để lưu giữ.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

61

X. ỨNG PHÓ SỰ CỐ BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN

10.1. Tình hình xây dựng Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân quốc gia

Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân quốc gia có vai trò quan trọng trong việc ứng phó sự cố nhà máy điện hạt nhân của Việt Nam, các sự cố nghiêm trọng khác trong nước và các sự cố xuyên quốc gia. Đối với sự cố từ nhà máy điện hạt nhân của Việt Nam, Kế hoạch ứng phó sự cố cấp quốc gia phải có sự thống nhất với kế hoạch ứng phó sự cố cấp tỉnh nơi có nhà máy điện hạt nhân và kế hoạch ứng phó sự cố của nhà máy điện hạt nhân.

Tập đoàn điện lực Việt Nam đã xây dựng các nội dung ứng phó sự cố cấp cơ sở trong báo cáo phân tích an toàn của hồ sơ phê duyệt địa điểm và dự án đầu tư. Bộ KH&CN sẽ thẩm định và phê duyệt báo cáo phân tích an toàn, trong đó có phần kế hoạch ứng phó sự cố của cơ sở. Tỉnh Ninh Thuận đã giao cho Sở KH&CN chuẩn bị Kế hoạch ứng phó sự cố cấp tỉnh. Ở phạm vi quốc gia, hiện nay, Bộ KH&CN đang soạn thảo Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân cấp quốc gia. Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân cấp quốc gia là văn bản phức tạp cần có thời gian để tham khảo các tài liệu của IAEA và các quốc gia khác sau đó là quá trình lấy ý kiến của các Bộ ngành, UBND các địa phương để chỉnh sửa hoàn thiện và biên dịch để gửi xin ý kiến của IAEA nên quá trình thực hiện cũng bị chậm hơn tiến độ và dự kiến phải đến giữa năm 2016 mới có thể trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Theo phân công trong Luật Năng lượng nguyên tử, Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn đang xây dựng Kế hoạch chuẩn bị nhân lực và phương tiện ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ủy ban quốc gia tìm kiếm cứu nạn cũng đã xây dựng và được phê duyệt đề án nâng cấp và được đầu tư nhiều trang thiết bị chuyên dụng cho cơ quan chuyên môn của các địa phương.

Việc chuẩn bị Kế hoạch ứng phó sự cố cấp quốc gia đang ở giai đoạn xây dựng kế hoạch. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các tổ chức sẽ có căn cứ để triển khai các bước tiếp theo được quy định trong Kế hoạch ứng phó sự cố.

10.2. Tình hình xây dựng và phê duyệt kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân của các tỉnh, thành trong cả nước

Năm 2015, thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 10 tháng 7 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường đảm bảo an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ, nhiều địa phương trong cả nước đã tích cực xây dựng và hoàn thành Kế hoạch ứng phó sự cố cấp tỉnh.Tính đến 12/2015 có 13 tỉnh đã được phê duyệt kế hoạch ứng phó sự cố (Lạng Sơn, Bình Dương, Bắc Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ, Đà Nẵng, Đồng Nai, Khánh Hòa, Long An, Nam Định, Ninh Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa) và 9 tỉnh đang chỉnh sửa, hoàn thiện sau khi có ý kiến của Hội đồng thẩm định kế hoạch ứng phó sự cố cấp tỉnh. Các địa

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

62

phương khác cũng đang trong quá trình xây dựng hoặc có kế hoạch xây dựng. Theo đánh giá, trong vòng 2-3 năm nữa sẽ hoàn thiện được công tác phê duyệt kế hoạch ứng phó sự cố của 63 tỉnh, thành phố.Tuy nhiên, một số tỉnh đã được phê duyệt vẫn chưa triển khai diễn tập Kế hoạch ứng phó sự cố cấp tỉnh một cách đầy đủ để xem xét, đánh giá, chỉnh sửa và đề xuất nâng cao năng lực ứng phó sự cố bức xa, hạt nhân của địa phương.

10.4. Hoạt động diễn tập ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân

Năm 2015 không có nhiều hoạt động diễn tập ứng phó sự cố, đặc biệt là diễn tập ứng phó sự cố cấp tỉnh do các địa phương vẫn chưa xây dựng được kế hoạch kinh phí cho diễn tập và nhiều địa phương chưa ban hành được Kế hoạch ứng phó sự cố cấp tỉnh.

Trong năm 2015, Trung tâm HTKT ATBX và ƯPSC - Cục ATBXHN đã phối hợp với Sở KH&CN Quảng Ninh đã tổ chức 01 diễn tập ứng phó sự cố cấp tỉnh (Sự cố mất nguồn phóng xạ).

Ngày 15/12/2015, đã xảy ra sự cố mất nguồn phóng xạ Cs-137 tại Công ty cổ phần xi măng Bắc Kạn – DATC. UBND tỉnh Bắc Kạn đã thành lập Ban chỉ huy ứng phó sự cố của tỉnh để chỉ đạo việc tìm kiếm, thu hồi nguồn phóng xạ. Cục An toàn bức xạ và hạt nhân đã chỉ đạo Trung tâm HTKT ATBX và UPSC - cán bộ hỗ trợ tỉnh Bắc Kạn trong việc xây dựng kế hoạch tìm kiếm và thu hồi nguồn phóng xạ. Hiện tại nguồn phóng xạ vẫn chưa được tìm thấy và các cơ quan chức năng của tỉnh Bắc Kạn vẫn đang thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để tìm kiếm nguồn phóng xạ.

10.5. Hoạt động thanh tra trong các trường hợp xảy ra sự cố

Trong năm 2015 mặc dù công tác đảm bảo an toàn an ninh của các cơ sở tiến hành công việc bức xạ trên phạm vi cả nước về cơ bản có nhiều tiến bộ so với các năm trước đây nhưng vẫn còn xảy ra sự cố đối với nguồn phóng xạ tại một số cơ sở tiến hành công việc bức xạ, trong đó điển hình là các vụ mất nguồn phóng xạ tại Nhà máy sản xuất thép Pomina 3 (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), vụ mất nguồn phóng xạ tại Công ty cổ phần xi măng Bắc Kạn DATC (tỉnh Bắc Kạn) và việc chuyển giao trái phép các nguồn phóng xạ của Công ty cổ phần tập đoàn Tân Mai (tỉnh Đồng Nai). Đối với các sự cố mất nguồn phóng xạ, công tác thanh tra được triển khai nhằm xem xét làm rõ các tình tiết của vụ việc, trách nhiệm của các bên có liên quan trên cơ sở đó đưa ra các chế tài xử lý phù hợp mang tính răn đe giáo dục, chấn chỉnh đồng thời kết hợp với việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của cơ sở trong việc thực hiện nghĩa vụ đảm bảo an toàn, an ninh nguồn phóng xạ.

Hoạt động thanh tra đối với các sự cố mất nguồn thường được triển khai theo hình thức thanh tra đột xuất. Trước khi tiến hành thanh tra, các Đoàn thanh tra luôn thực hiện rất tỉ mỉ công tác thu thập các thông tin liên quan đến cơ sở, diễn biến xảy ra sự việc mất nguồn thông qua các kênh thông tin như Sở KHCN,

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

63

cơ quan công an, UBND địa phương. Hoạt động thanh tra đối với các trường hợp sự cố luôn được Lãnh đạo Bộ KH&CN quan tâm chỉ đạo sát sao và tạo điều kiện thực hiện.

10.6. Hoạt động xây dựng năng lực hỗ trợ kỹ thuật phục vụ công tác ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân

Cục ATBXHN đã nghiên cứu và đề xuất hệ thống tổ chức, cơ chế hoạt động của Bộ Ngoại giao và Bộ KHCN thực hiện Công ước Thông báo sớm và Công ước trợ giúp trong sự cố bức xạ, hạt nhân. Cục ATBXHN cử người tham gia nhóm chuyên đề ứng phó sự cố trong Mạng lưới an toàn hạt nhân châu Á. Đối với các hoạt động phổ biến kiến thức, đào tạo, diễn tập trong nước, Cục ATBXHN cố gắng phối hợp với các Sở KHCN tổ chức các khóa đào tạo về ứng phó sự cố, phối hợp với các tổ chức hỗ trợ nước ngoài (NNSA, EC) tổ chức các khóa về ứng phó sự cố bức xạ, hạt nhân.

Công tác đầu tư, mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác ứng phó sự cố cũng được chú trọng. Cục ATBXHN đã xây dựng và trình Bộ trưởng Bộ KH&CN dự án tăng cường năng lực kỹ thuật hỗ trợ quản lý các nguồn phóng xạ nằm ngoài kiểm soát pháp quy và kịp thời ứng phó sự cố mất an toàn, mất an ninh nguồn phóng xạ. Dự án đã được Bộ trưởng đồng ý về nguyên tắc và giao cho các vụ chuyên ngành xử lý.

Trong năm 2015, Cục cùng được phía Hoa Kỳ chuyển giao cho các thiết bị phát hiện nguồn phóng xạ với độ nhạy rất cao nhằm hỗ trợ công tác tìm kiếm thu hồi các nguồn phóng xạ. Hiện thiết bị này cũng đã được sử dụng trong công tác tìm kiếm tại Bắc Kạn

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

64

XI. QUẢN LÝ PHÓNG XẠ MÔI TRƯỜNG

11.1. Giới thiệu chung về hệ thống quản lý phóng xạ môi trường

Ngày 31/08/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định phê duyệt “Quy hoạch mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia đến năm 2020” với mục tiêu bảo đảm kịp thời phát hiện diễn biến bất thường về bức xạ trên lãnh thổ Việt Nam và hỗ trợ việc chủ động ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân; cung cấp cơ sở dữ liệu về phóng xạ môi trường phục vụ công tác quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân. Mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ quốc gia bao gồm:

- Trung tâm điều hành quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường đặt tại Bộ Khoa học và Công nghệ (trung tâm điều hành): Trung tâm điều hành thực hiện việc kết nối thu thập dữ liệu trực tuyến từ các trạm, các điểm quan trắc trong mạng lưới; xử lý kết quả quan trắc, xây dựng cơ sở dữ liệu phóng xạ môi trường quốc gia; hỗ trợ kỹ thuật cho việc phân tích, đánh giá diễn biến và điều hành ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân.

- Trạm quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường cấp vùng (trạm vùng). (thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Đà Lạt). Trạm vùng có nhiệm vụ thu nhận dữ liệu quan trắc trực tuyến từ các trạm quan trắc địa phương; quan trắc, thu thập, xử lý và phân tích các chỉ tiêu phóng xạ trong mẫu môi trường; phân tích và tổng hợp số liệu quan trắc; trực tiếp tham gia đánh giá hiện trường trong kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân cấp tỉnh và cấp cơ sở.

- Trạm quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường cấp tỉnh (trạm địa phương): Trạm địa phương được xây dựng tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi không có trạm vùng và có khả năng chịu ảnh hưởng của các sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân. Trạm địa phương làm nhiệm vụ quan trắc liên tục tại các điểm và các cơ sở hạt nhân trên địa bàn, kết nối trực tuyến với các trạm vùng.

- Hệ thống quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường thuộc Bộ Quốc phòng (hệ thống trinh sát phóng xạ quân đội): Hệ thống trinh sát phóng xạ quân đội thực hiện quan trắc và cảnh báo phóng xạ theo quy định của Bộ Quốc phòng. Trạm trinh sát phóng xạ thực hiện vai trò chỉ đạo kỹ thuật hệ thống trinh sát, cảnh báo phóng xạ trong quân đội, phục vụ công tác phòng chống vũ khí hạt nhân và ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân.

Theo Quy hoạch cần phải thực hiện các nhiệm vụ như: Lập dự án đầu tư trung tâm điều hành và trạm vùng miền Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và Nam Trung bộ, miền Nam; Lập dự án đầu tư và xây dựng trạm quan trắc và cảnh báo

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

65

phóng xạ môi trường cấp tỉnh (trạm địa phương); Xây dựng các văn bản pháp luật vê cơ cấu tổ chức hoạt động của mạng lưới, các trạm địa phương thuộc trạm vùng, tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật về quan trắc phóng xạ môi trường, định mức kinh tế kỹ thuật và chỉ tiêu quan trắc, quy chế phối hợp mạng lưới quan trắc phóng xạ môi trường với hệ thống quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia, chế độ chính sách đối với nhân viên trạm quan trắc ở vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo.

Hiện tại, việc triển khai Quy hoạch rất chậm do khó khăn về nguồn kinh phí triển khai thực hiện Quy hoạch. Bộ KH&CN cần tiếp tục có ý kiến với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính sớm có giải pháp thu xếp nguồn vốn để thực hiện Dự án này. Đối với các Trạm địa phương cần giao cho Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương làm chủ đầu tư toàn bộ Dự án cả cơ sở hạ tầng và trang thiết bị kỹ thuật khắc phục bất cập như giai đoạn vừa qua rất khó cho các địa phương cũng như cho Viện NLNTVN trong triển khai thực hiện. Để kịp thời cảnh báo và đưa ra phương án ứng phó với tình huống sự cố của các nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc ở gần lãnh thổ Việt Nam, Chính phủ cần tập trung đầu tư ngay cho Trạm địa phương Quảng Ninh nơi tiếp giáp với nhà máy điện hạt nhân Phòng Thành và Xương Giang của Trung Quốc.

Trang thiết bị của Hệ thống quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia hoạt động quan trắc phóng xạ môi trường hiện tại chưa đồng bộ, thiếu đo trực tuyến; Chỉ tiêu, tần suất quan trắc không thống nhất giữa các trạm; Dữ liệu quan trắc chưa được cập nhật tại một đầu mối, khai thức sử dụng dữ liệu gặp nhiều khó khăn; Kinh phí quan trắc đang có xu thế giảm dần, không đủ duy trì các chỉ tiêu và tần suất quan trắc như trước đây. Ngoài ra, chưa có cơ chế phối hợp hoạt động giữa mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia và Hệ thống quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia để chia sẻ thông tin, dữ liệu

11.2. Hoạt động của trạm quan trắc tại trung tâm HTKT An toàn bức xạ hạt nhân và ứng phó sự cố - Cục An toàn bức xạ và hạt nhân

Trạm quan trắc tại Trung tâm HTKT ATBXHN và UPSC, Cục ATBXHN là hệ thống đo chỉ tiêu suất liều gamma môi trường tại địa điểm 56, Linh Lang, Ba Đình, Hà Nội. Hệ thống quan trắc này đã đóng góp quan trọng trong việc thu thập và xử lý thông tin phóng xạ môi trường tại Hà Nội liên quan đến sự cố Fukushima năm 2011.

Tuy nhiên, hiện nay hệ thống hoạt động không ổn định vì một số phụ kiện bị hỏng và đang tạm dừng hoạt động. Trong thời gian tới khi Trung tâm chuyển địa điểm mới, trạm quan trắc sẽ được sửa chữa, lắp đặt lại và tiếp tục vận hành trở lại.

Đây là bất cập lớn trong công tác quản lý nhà nước về phóng xạ môi trường vì cơ quan pháp quy hạt nhân cần phải có hệ thống quan trắc độc lập để

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

66

góp phần giám định các chỉ tiêu phóng xạ môi trường quốc gia so với số liệu của các Trạm cung cấp cũng như của các cơ sở bức xạ hạt nhân cung cấp.

11.3. Hoạt động quản lý phóng xạ môi trường của địa phương

Trong những năm vừa qua các địa phương trong cả nước đều đã tiến hành các hoạt động điều tra khảo sát cơ sở dữ liệu phóng xạ môi trường trong địa phương mình. Do chưa có sự quản lý thống nhất nên các địa phương cũng tổ chức triển khai chưa theo một quy định chung, gây lãng phí nguồn lực. Cục ATBXHN dự kiến sẽ tổ chức một nhiệm vụ điều tra khảo sát phóng xạ môi trường toàn quốc trong thời gian tới để thống nhất các chỉ tiêu, tần suất quan trắc phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về phóng xạ môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

67

XII. HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ AN TOÀN DỰ ÁN ĐIỆN HẠT NHÂN NINH THUẬN

12.1. Công tác thẩm định Báo cáo phân tích an toàn cho NMĐHN Ninh Thuận 1

12.1.1. Công tác xử lý hồ sơ Báo cáo phân tích an toàn NMĐHN Ninh Thuận 1

Sau khi nhận được Công văn số 05/EVN-AT ngày 06/02/2015 và Công văn số 07/EVN-AT ngày 06/02/2015 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) về việc thẩm định Báo cáo phân tích an toàn (PTAT) sơ bộ trong Hồ sơ phê duyệt địa điểm và thẩm định Báo cáo PTAT trong Hồ sơ phê duyệt dự án đầu tư nhà máy điện hạt nhân (NMĐHN) Ninh Thuận 1, Cục ATBXHN đã xử lý sơ bộ hồ sơ và có ý kiến trả lời EVN trong vòng 15 ngày theo quy định. Một số kiến nghị đã được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tiếp thu và xử lý trong hồ sơ cập nhật, tuy nhiên còn nhiều kiến nghị vẫn chưa được xử lý. Song song với công tác chuẩn bị mời thầu tư vấn quốc tế, Cục ATBXHN vẫn đang tiếp tục công tác thẩm định báo cáo để đưa ra những đánh giá sơ bộ phục vụ cho công tác mời thầu, quản lý quá trình thực hiện và đánh giá kết quả thẩm định của nhà thầu.

Ngoài ra, Cục ATBXHN cũng đã chuẩn bị cho công tác thẩm định danh mục các tiêu chuẩn, quy chuẩn đề nghị áp dụng cho dự án nhà máy điện hạt nhân, cụ thể đã triển khai nghiên cứu hồ sơ đề nghị áp dụng tiêu chuẩn của EVN, chuẩn bị tài liệu phân loại tiêu chuẩn nước ngoài, đánh giá và phân nhóm tiêu chuẩn an toàn hạt nhân.

12.1. 2. Công tác mời thầu tư vấn quốc tế thẩm định báo cáo phân tích an toàn và báo cáo đánh giá tác động môi trường Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận 1

Trong năm 2015, Cục ATBXHN đã khẩn trương triển khai các hoạt động chuẩn bị cho việc mời thầu tư vấn quốc tế hỗ trợ Cơ quan pháp quy Việt Nam trong thẩm định Báo cáo PTAT và Báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với phê duyệt địa điểm và phê duyệt dự án đầu tư NMĐHN Ninh Thuận 1, cụ thể:

- Lựa chọn đơn vị thẩm tra dự toán các gói thầu và dịch vụ tư vấn trong nước (Viện Kinh tế xây dựng);

- Xây dựng Kế hoạch lựa chọn nhà thầu;

- Lựa chọn đơn vị tư vấn trong nước hỗ trợ công tác đấu thầu quốc tế (Viện Khoa học và Công nghệ xây dựng);

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

68

- Phối hợp với EVN xử lý các vấn đề liên quan đến tài chính cho gói thầu;

- Lựa chọn danh sách ngắn các nhà thầu tham gia đấu thầu hạn chế;

- Tổ chức nhiều cuộc họp với Tổ trưởng 14 Tổ chuyên gia để rà soát Điều khoản tham chiếu (TOR) và yêu cầu thẩm định, tiêu chí chấm điểm nhà thầu;

- Lập Hồ sơ mời thầu gói thầu tư vấn quốc tế. Ngày 28/10/2015 hồ sơ mời thầu đã được trình lên Bộ trưởng Bộ KH&CN.

12.1.3. Xây dựng nhiệm vụ khoa học và công nghệ hỗ trợ công tác chuẩn bị và tổ chức thẩm định

Bên cạnh việc thuê tư vấn quốc tế thẩm định các báo cáo PTAT và báo cáo ĐTM, theo kinh nghiệm quốc tế và hướng dẫn của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế, thì cho dù Việt Nam có thuê tư vấn quốc tế thẩm định, nhưng các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, mà cụ thể là Bộ KH&CN và Bộ TN&MT, phải chịu trách nhiệm cuối cùng về kết quả thẩm định của tư vấn quốc tế trình cho mình. Do đó, việc phải có một đội ngũ chuyên gia có hiểu biết trong nước hỗ trợ cho Bộ KH&CN và Bộ TN&MT trong suốt quá trình chuẩn bị và tổ chức thẩm định cho đến khi xây dựng báo cáo thẩm định cuối cùng trình cho hai Bộ là rất quan trọng. Do đó ngày 21/7/2014, Bộ trưởng Bộ KH&CN đã ký quyết định số 1829/QĐ-BKHCN thành lập 14 tổ chuyên gia thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị và tổ chức thẩm định Báo cáo PTAT và Báo cáo ĐTM trong hồ sơ phê duyệt địa điểm và dự án đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2. Kể từ khi được thành lập, các tổ chuyên gia đã tham gia xây dựng các yêu cầu thẩm định, xây dựng hồ sơ mời thầu tư vấn quốc tế thẩm định các Báo cáo PTAT và Báo cáo ĐTM trong hồ sơ phê duyệt địa điểm và phê duyệt dự án đầu tư nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1. Các tổ chuyên gia cũng đã tham gia đánh giá tính hợp lệ của các hồ sơ dự thầu.

Để tiếp tục có kinh phí cho hoạt động của 14 tổ chuyên gia thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị và tổ chức thẩm định, Cục ATBXHN đã phối hợp với 14 tổ chuyên gia xây dựng 03 đề án nghiên cứu:

- Nghiên cứu cơ sở khoa học phục vụ việc chuẩn bị và tổ chức thẩm định các nội dung liên quan đến an toàn địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân trong Báo cáo phân tích an toàn dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1;

- Nghiên cứu cơ sở khoa học phục vụ chuẩn bị và tổ chức thẩm định các khía cạnh môi trường trong Báo cáo phân tích an toàn và Báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1;

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

69

- Nghiên cứu cơ sở khoa học và kỹ thuật phục vụ công tác mời thầu tư vấn quốc tế hỗ trợ thẩm định và tổ chức thẩm định Báo cáo phân tích an toàn dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1.

12.2. Công tác xử lý hồ sơ Báo cáo PTAT NMĐHN Ninh Thuận 2

Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị thẩm định báo cáo phân tích an toàn cho phê duyệt địa điểm và phê duyệt dự án đầu tư NMĐHN Ninh Thuận 2, Cục ATBXHN đã xử lý sơ bộ hồ sơ. Tuy nhiên, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã đồng ý với đề xuất chỉ tiến hành thẩm định báo cáo PTAT trong hồ sơ phê duyệt dự án đầu tư sau khi đã có quyết định lựa chọn công nghệ. Do đó, hiện tại các công việc thẩm định Báo cáo PTAT và Báo cáo Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) của Bộ KH&CN và Bộ Tài nguyên và môi trường (TNMT) được tập trung đối với dự án ĐHN Ninh Thuận 1, chưa thực hiện đối với Dự án ĐHN Ninh Thuận 2

12.3. Tình hình thực hiện các kết luận thanh tra năm 2014 và kết quả thanh tra năm 2015 đối với Ban Quản lý dự án điện hạt nhân Ninh Thuận

Quý II năm 2015, Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra chuyên ngành về an toàn hạt nhân đối với Ban QLDA. Nội dung thanh tra tập trung vào (1) việc áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn trong hoạt động khảo sát; (2) công tác giám sát của Ban QLDA đối với các tổ chức tư vấn, các nhà thầu chính và nhà thầu phụ thực hiện hoạt động khảo sát; (3) công tác lấy mẫu phân tích và (4) việc bảo đảm chất lượng trong hoạt động khảo sát bổ sung địa điểm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2. Nội dung khảo sát bổ sung bao gồm:

- Khoan khảo sát tại địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 2;

- Khảo sát đối với đứt gãy Đông Hòn Gió.

Kết quả thanh tra đã được công bố ngày 30/9/2015 theo Kết luận thanh tra số 1278/KL-ATBXHN của Cục trưởng Cục ATBXHN. Các kết quả chính như sau:

(1) Việc áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn trong hoạt động khảo sát

Theo Phương án khảo sát kỹ thuật đã được phê duyệt, các Công ty tư vấn Nhật Bản có sử dụng một số tiêu chuẩn của Nhật Bản và Châu Âu áp dụng cho hoạt động khảo sát bổ sung. Các tiêu chuẩn áp dụng được dịch song ngữ Anh - Việt. Trong số này, bản dịch tiếng Việt của các tiêu chuẩn còn chưa tốt, có nhiều lỗi về sử dụng thuật ngữ chuyên ngành.

(2) Công tác giám sát của Ban QLDA đối với hoạt động khảo sát bổ sung

Ban QLDA đã giám sát hoạt động khảo sát Công ty tư vấn Nhật Bản và các nhà thầu phụ theo quy định của Quy trình giám sát của Ban QLDA. Việc quản lý kho mẫu còn chưa được Ban QLDA thực hiện tốt, một số khuyến cáo

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

70

của Cục ATBXHN trong năm 2013 đối với kho mẫu chưa được Ban QLDA thực hiện đầy đủ.

(3) Công tác lấy mẫu phân tích

Việc lấy mẫu phân tích được thực hiện theo quy trình với sự giám sát của đại diện JAPC và Ban QLDA, kết quả lấy mẫu phân tích có xác nhận của các bên tham gia lấy mẫu nhưng còn chưa lưu mẫu đối chứng nội bộ và bên ngoài. Cục ATBXHN đã có khuyến cáo với Ban QLDA về việc lưu mẫu phân tích đối chứng nội bộ và bên ngoài. Ban QLDA và các Công ty Tư vấn Nhật Bản đã tiếp thu và thực hiện khuyến cáo này.

(4) Bảo đảm chất lượng trong cho hoạt động khảo sát bổ sung

Ban QLDA đã có chương trình bảo đảm chất lượng theo ISO nhưng chưa xây dựng quy trình bảo đảm chất lượng tổng thể theo quy định tại Điều 13 của Nghị định 70/2010/NĐ-CP ngày 22/6/2010 Nghị định Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử về Nhà máy điện hạt nhân. Một số khuyến cáo của Cục ATBXHN trong năm 2013, 2014 về bảo đảm chất lượng chưa được Ban QLDA thực hiện triệt để và kịp thời.

Kết thúc đợt thanh tra năm 2015, Cục ATBXHN cũng đã có một số yêu cầu đối với Ban QLDA như sau:

- Tiêu chuẩn áp dụng phải được dịch và hiệu đính bởi bộ phận có chuyên môn trước khi gửi cho Cơ quan quản lý nhà nước. Văn bản gửi cho Cơ quan quản lý nhà nước mà có phần là tiếng nước ngoài phải được dịch sang tiếng Việt.

- Mọi hoạt động khảo sát, lấy mẫu phân tích cần có các quy trình hoặc tiêu chuẩn tương ứng. Các quy trình cần phải được phê duyệt và ban hành bởi thủ trưởng đơn vị hoặc người có thẩm quyền. Các văn bản giữa Tư vấn và Ban QLDA mà có chữ ký của đại diện Ban QLDA phải được Việt hóa (song ngữ, có tiếng Việt).

- Xây dựng và thực hiện Quy trình bảo đảm chất lượng theo quy định của Nghị định 70/2010/NĐ-CP.

- Thực hiện đầy đủ và kịp thời các khuyến cáo của Cơ quan quản lý.

Và một số yêu cầu, kiến nghị khác.

12.4. Công tác kiểm tra đánh giá địa điểm dự án ĐHN Ninh Thuận của HĐATHNQG và Bộ KH&CN

Đoàn công tác khảo sát tại Ninh Thuận lần 5 được tổ chức vào ngày 20-23/01/2015. Đoàn công tác đã trao đổi và nghe ý kiến của EVN và các cơ quan

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

71

ban ngành địa phương nhằm tham mưu cho Chính phủ tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình triển khai dự án ĐHN đầu tiên tại Việt nam.

Đoàn công tác khảo sát địa điểm tại Ninh Thuận lần 6 ngày 12-15/10/2015, Thành phần Đoàn công tác bao gồm: Phó Chủ tịch thường trực HĐATHNQG, ông Vương Hữu Tấn, Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân và các chuyên gia địa chất, địa chấn của Viện Địa chất, Viện Vật lý địa cầu (Viện Hàn lâm KHCN Việt Nam), Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường), đại diện Bộ Công Thương. Mục đích và nội dung của đợt khảo sát là thảo luận về các vấn đề liên quan đến an toàn địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 1&2, kiến nghị Tư vấn Nga và Nhật Bản thực hiện các khảo sát bổ sung hoặc cung cấp bổ sung các tài liệu làm căn cứ cho việc thẩm định an toàn địa điểm.

Đoàn công tác đã thảo luận với Ban QLDA cùng đại diện các Tư vấn của chủ đầu tư (EVN)để làm rõ các khái niệm, định nghĩa “đới địa động lực”, so sánh với các khái niệm hiện có của IAEA và Việt Nam; xác định bản chất ranh giới các đới địa động lực, bao gồm cả ranh giới giữa địa điểm dự kiến xây dựng NMĐHN Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2.

Trao đổi về các mặt cắt địa chấn trên biển nhằm xác minh sự tồn tại, mức độ hoạt động của đới đứt gãy Thuận Hải-Minh Hải, quy mô của các đới dập vỡ biểu hiện trong kết quả khảo sát địa vật lý và khoan.

Thông qua các trao đổi, Đoàn công tác cho rằng cần làm rõ tính chất, phạm vi của đứt gãy F10. Do đó việc cung cấp dữ liệu mặt cắt địa chấn biển là cần thiết để làm rõ vấn dề này.

Đoàn công tác cho rằng việc quan trắc có vai trò quan trọng đối với đánh giá an toàn địa điểm xây dựng NMĐHN, hoạt động quan trắc cần được triển khai trong suốt các giai đoạn của nhà máy. Ngoài việc quan trắc các thông tin về động đất, cần xem xét quan trắc thêm các thông tin khác về khí tượng thủy văn

Liên quan đến an toàn địa điểm xây dựng NMĐHN Ninh Thuận, Cục ATBXHN đã phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước như EVN, IAEA, Rosatom, Rostechnarzor, Nga, Nhật Bản, Pháp, v.v. tổ chức các Hội thảo về an toàn địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2. Với vai trò là cơ quan giúp việc cho Hội đồng An toàn hạt nhân Quốc gia (ATHNQG), Cục ATBXHN đã tổ chức 06 đoàn công tác thực địa tại địa điểm NMĐHN Ninh Thuận với sự tham gia của các thành viên Hội đồng ATHNQG cùng với các nhà khoa học trong và ngoài nước. Ngoài ra, thực hiện chức năng nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành về an toàn bức xạ và hạt nhân, Bộ KH&CN đã giao Cục ATBXHN tổ chức 03 đợt thanh tra an toàn trong quá trình khảo sát địa điểm NMĐHN Ninh Thuận từ năm 2013 – 2015 nhằm đánh giá việc chấp hành các quy định của pháp luật của chủ đầu tư về đảm bảo an toàn hạt nhân trong hoạt động khảo sát, đánh giá, thu thập số liệu đối với địa điểm xây dựng NMĐHN Ninh Thuận 1 và 2. Qua trao đổi, thảo luận của các chuyên gia tại các hội thảo cũng như trong quá trình khảo sát tại hiện trường, hiện còn một số vấn đề chưa

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

72

có sự thống nhất giữa các chuyên gia, các nhà khoa học Việt Nam và Tư vấn Nga, Nhật Bản.

Tại phiên họp lần thứ 7 ngày 22/7/2015 của Hội đồng ATHNQG, Chủ tịch Hội đồng đã yêu cầu Cục ATBXHN chủ trì tổ chức cuộc họp giữa các chuyên gia Việt Nam trong lĩnh vực đánh giá địa điểm và EVN để làm rõ những nội dung cần kiến nghị tư vấn Nga và Nhật Bản có những khảo sát, đánh giá hoặc cung cấp tài liệu bổ sung, tổ chức phân tích đối sánh tuổi của các mẫu lõi khoan liên quan tại đứt gãy Hòn Đeo.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

73

XIII. HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO AN TOÀN BỨC XẠ VÀ ĐÀO TẠO CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT

13.1. Giới thiệu chung về hoạt động đào tạo an toàn bức xạ và đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ theo quy định của Luật NLNT

Để cấp chứng chỉ nhân viên bức xạ và chứng chỉ hành nghề dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT, cá nhân ngoài chứng nhận đào tạo ATBX theo quy định tại Thông tư 34/2014/TT-BKHCN, cần phải có chứng nhận đào tạo chuyên viên liên quan. Theo quy định tại Khoản 3 – Điều 70 Luật NLNT thì Bộ KH&CN phải quy định về cơ sở đào tạo dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT, trong đó có đào tạo chuyên môn cho nhân viên bức xạ và cho cá nhân tiến hành hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT. Tuy nhiên cho đến nay, Bộ KH&CN vẫn chưa ban hành quy định này. Đây là bất cập trong công tác quản lý của Bộ. Trong thực tế khi cấp các chứng chỉ nhân viên bức xạ và chứng chỉ hành nghề dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT cho một số loại hình hoạt động, Cục ATBXHN vẫn phải thừa nhận chứng nhận đào tạo của một số cơ sở trong nước như Viện KHKTHN, Viện NCHN, Trung tâm NDE và một số chứng nhận đào tạo của công ty cung cấp máy nước ngoài. Đây đang là bất cập cần phải khắc phục trong thời gian tới.

13.2. Hoạt động đào tạo chuyên môn nghiệp vụ

Đây là một trong những tồn tại trong hệ thống quản lý, hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn dưới luật đối với nội dung này. Một số đơn vị đã và đang thực hiện dịch vụ đào tạo chuyên môn nghiệp vụ nhưng chưa được cấp giấy đăng ký, như: dịch vụ đào tạo về đọc liều chiếu xạ cá nhân, dịch vụ đào tạo kiểm tra chất lượng thiết bị X quang chẩn đoán y tế, dịch vụ đào tạo về ghi đo bức xạ, dịch vụ đào tạo về vận hành thiết bị chiếu xạ....

Để khắc phục các tồn tại trên, Cục ATBXHN đang triển khai nhiệm vụ xây dựng thông tư về hướng dẫn về cơ sở đào tạo dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử. Đồng thời hàng năm, Cục ATBXHN gửi công văn đề nghị các cơ sở thực hiện dịch vụ này báo cáo về tình hình triển khai thực hiện dịch vụ để nắm bắt tình hình và đề xuất các biện pháp quản lý phù hợp

13.3. Hoạt động đào tạo ATBX

Thông tư 34/2014/TT-BKHCN ngày 27 tháng 11 năm 2014 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về “đào tạo an toàn bức xạ đối với nhân viên bức xạ, người phụ trách an toàn và dịch vụ đào tạo an toàn bức xạ”.

Mục tiêu của việc tổ chức đào tạo theo Thông tư 34 là nhằm để nâng cao nhận thức, trách nhiệm và chất lượng hoạt động bảo đảm an toàn bức xạ, an ninh nguồn phóng xạ đối với nhân viên bức xạ của cơ sở, người phụ trách an toàn, người quản lý của cơ sở và nhằm xây dựng văn hóa an toàn an ninh của cá cơ sở có các hoạt động tiến hành công việc bức xạ như: sử dụng nguồn phóng xạ theo từng loại hình tiến hành công việc bức xạ ví dụ như X quang trong y tế, sử dụng trong công nghiệp, trong nghiên cứu, đào tạo, lưu giữ nguồn phóng xạ …

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

74

Các tổ chức, cá nhân tiến hành công việc bức xạ trên phạm vi toàn quốc khi tổ chức đào tạo cho nhân viên bức xạ của đơn vị mình phải chấp hành nghiêm các quy định về đào tạo an toàn bức xạ đối với nhân viên bức xạ và người phụ trách an toàn, cụ thể:

1. Đào tạo Nhân viên bức xạ phải qua đào tạo an toàn bức xạ tương ứng với loại hình công việc bức xạ đang tiến hành;

2. Đối với người phụ trách an toàn của cơ sở, ngoài việc phải tham gia khóa đào tạo ATBX đối với loại hình công việc bức xạ đang thực hiện, như đã nêu tại điểm 1. Đồng thời, phải tham dự khóa đào tạo bổ sung dành riêng cho người phụ trách an toàn. Người phụ trách an toàn phải được cơ sở dịch vụ đào tạo cấp giấy chứng nhận đối với 2 khóa đào tạo nêu trên.

3. 3 năm 1 lần, cơ sở phải cử nhận viên bức xạ, người phụ trách an toàn bức xạ phải đi dự khóa đào tạo để cập nhật lại các kiến thức và an toàn bức xạ, những quy định văn bản quy phạm pháp luật mới có liên quan để nâng cao chất lượng các hoạt động bức xạ bảo đảm an toàn an ninh.

4. Các cơ sở phải có kế hoạch để người quản lý chủ sơ sở tiến hành công việc bức xạ để tham dự khóa đào tạo an toàn bức xạ để có trách nhiệm trong công tác quản lý của cơ sở, tăng cường công tác bảo đảm an toàn, an ninh và xây dựng văn hóa an toàn, văn hóa an ninh tại cơ sở

Đây cũng là một trong những căn cứ quan trọng để thẩm định, xem xét đánh giá đối với các hồ sơ đề nghị cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ, chứng chỉ nhân viên bức xạ.

Hiện tại có 10 cơ sở đã được Cục cấp giấy đăng ký hoạt động dịch vụ đào tạo ATBX. Nhìn chung các cơ sở đã chấp hành tốt các quy định tại Thông tư 34/2014/TT-ATBXHN tổ chức đào tạo và cấp chứng nhận đào tạo an toàn bức xạ cho các cơ sở, cá nhân theo loại hình tiến hành công việc bức xạ, các hoạt động đào tạo ATBX dần dần đi vào nề nếp.

Năm 2016, Cục ATBXHN sẽ tổ chức công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động đào tạo ATBX của các tổ chức dịch vụ.

13.4. Hoạt động đào tạo nhân lực của Cơ quan pháp quy hạt nhân

Trong kế hoạch năm 2015, Cục ATBXHN đã chủ trì tổ chức:

- Khóa bồi dưỡng cơ bản về quá trình truyền nhiệt và thủy nhiệt (khóa học được thực hiện với giảng viên là các chuyên gia trong nước, học viên là cán bộ thuộc Cục ATBXHN và Viện NLNTVN);

- Khóa bồi dưỡng thực hành thẩm định an toàn báo cáo SAR (khóa học được thực hiện với giảng viên là các chuyên gia Nhật Bản, học viên là cán bộ thuộc Cục ATBXHN; phía đối tác Nhật Bản chi trả chi phí cho chuyên gia, tiền thuê phiên dịch tiếng Nhật; Phía Việt Nam chịu chi phí tổ chức khóa học, chi phí đón tiếp đoàn);

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

75

- Khóa bồi dưỡng nâng cao về quản lý sự cố nặng tại Nhật Bản (Phía đối tác hỗ trợ phí đào tạo, chỗ ở cho học viên, tiền đi lại trong Nhật Bản; phía Việt Nam chi trả kinh phí tiền sinh hoạt, vé máy bay).

Để chuẩn bị nguồn nhân lực cho cơ quan pháp qui hạt nhân và nguồn nhân lực cho các cơ quan nghiên cứu- triển khai và hỗ trợ kỹ thuật, ngày 15/10/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1756/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhân lực quản lý nhà nước, nghiên cứu- triển khai và hỗ trợ kỹ thuật đến 2020 phục vụ phát triển điện hạt nhân (Kế hoạch 1756) . Kế hoạch 1756 là cơ hội tốt cho Cục triển khai công tác đào tạo nhân lực pháp quy hạt nhân. Tuy nhiên, cần xây dựng cơ chế phù hợp để triển khai kế hoạch công tác nhân sự tự chủ và tự chịu trách nhiệm cao nhất của Cục về nhân lực pháp quy hạt nhân

13.5. Đào tạo theo các kênh hợp tác song phương

Trong năm 2015, Cục ATBXHN đã phối hợp với IAEA và các đối tác quốc tế khác như EC, Nhật Bản, Liên Bang Nga, Hoa Kỳ,...tổ chức một số khóa đào tạo cho cán bộ của Cục ATBXHN, Viện NLNT Việt Nam, Cục Năng lượng nguyên tử và Tập đoàn Điện lực Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Kinh phí thực hiện các khóa đào tạo trong nước do phía đối tác tài trợ, phía Việt Nam chi kinh phí tổ chức lớp học; với các khóa đào tạo tại nước ngoài, phía đối tác chịu toàn bộ kinh phí. Thông qua các khóa đào tạo này, cán bộ trong lĩnh vực Năng lượng nguyên tử đã nâng cao trình độ và kỹ năng, từng bước đáp ứng các yêu cầu chuyên môn theo từng vị trí việc làm. Bảng 1 và 2 sau đây hệ thống các lớp đào tạo đã thực hiện trong năm 2015 qua kênh hợp tác song phương

Bảng 1. Các khóa đào tạo ở nước ngoài năm 2015 qua kênh hợp tác song phương STT Tên lớp đào tạo Số cán bộ tham

gia của Cục ATBXHN

Tham gia tổ chức

11. Thạc sĩ về An toàn bức xạ hạt nhân 03 KINS/KAIST (Hàn Quốc)

12. An ninh hạt nhân 09 Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Lào, Nhật Bản, Ý

13. An toàn bức xạ 09 IAEA, EC 14. Bảo vệ bức xạ 03 IAEA 15. Bảo vệ thực thể 03 IAEA, Nhật

Bản 16. Các chương trình tính toán vật lý lò

(SCALE/PARCS) 02 EC

17. Đánh giá nguy hại và tiếp cận thông tin rủi ro tới hệ thống an ninh hạt nhân đối

01 IAEA

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

76

với vật liệu phóng xạ và hạt nhân mất kiểm soát

18. Giám định hạt nhân 03 Hàn Quốc 19. Hệ thống kế toán và kiểm soát vật liệu

hạt nhân nhà nước 01 Nhật Bản

20. Kiến thức cơ bản về bức xạ 02 Nhật Bản 21. Kiến thức cơ bản về nguồn điện khẩn

cấp và các hệ thống đo đạc và điều khiển

08 IAEA

22. Luật hạt nhân 01 IAEA 23. Quy định và biện pháp hành chính liên

quan trong lĩnh vực an ninh hạt nhân 02 IAEA

24. Nguy cơ đe dọa nội bộ và văn hóa an ninh

02 King College London, Anh

25. Thẩm định Báo cáo phân tích an toàn (SAR)

03 Hoa Kỳ

26. Quản lý năng lượng hạt nhân 01 Nhật Bản 27. Thanh tra pháp quy hạt nhân 03 Áo 28. Xây dựng cách tiếp cận phòng ngừa

theo chiều sâu khi phát hiện việc vận chuyển vật liệu phóng xạ và hạt nhân qua biên giới nằm ngoài kiểm soát của cơ quan pháp quy

03 IAEA

29. Ứng dụng lý thuyết và thực tiễn của phương pháp tính toán RESRAD BIOTA và các phương pháp khác trong hệ thống RESRAD nhằm xác định liều, rủi ro và giới hạn cho phép tại các khu vực nhiễm xạ

01 IAEA

TỔNG CỘNG 60

Bảng 2. Các khóa đào tạo, bồi dưỡng trong nước năm 2015 qua kênh hợp tác song phương STT Tên lớp đào tạo Số cán bộ tham

gia của Việt Nam

Số cán bộ tham gia của Cục ATBXHN

Tham gia tổ chức

1. Hội thảo quốc gia về quản lý chất thải phóng xạ cho các hoạt động khai thác, xay xát và chế biến đất hiếm

13 5 IAEA Viện Công nghệ xạ hiếm

2. Khóa tập huấn về “Thanh tra an ninh nguồn phóng xạ”

25 10 Hoa Kỳ, Sở KHCN TP Hồ Chí Minh

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

77

3. Hội thảo về “Quản lý thông tin thanh sát”

10 5 Hoa Kỳ

4. Hội thảo về Văn hóa an ninh hạt nhân

20 10 Đại học Georgia Hoa Kỳ

5. Hội thảo về Kế hoạch ứng phó sự cố quốc gia đối với các sự cố mất an ninh nguồn phóng xạ

27 10 DOE Hoa Kỳ

6. Hội thảo về Tìm kiếm và Thu hồi nguồn phóng xạ

25 10 DOE Hoa Kỳ

7. Hội thảo về“Đánh giá và phân tích hệ thống an ninh của các cơ sở hạt nhân”

15 9 USNRC

8. Hội thảo về Quản lý đánh giá cấp phép

19 7 IAEA

9. Khóa đào tạo cho cán bộ Cục về mô phỏng quá trình chuyển tiếp lò phản ứng sử dụng chương trình tính toán thủy nhiệt RELAP5 và TRACE

15 8 IAEA

10. Hội thảo về Thanh tra xây dựng và đảm bảo chất lượng

30 10 IAEA

11. Hội thảo về Quy trình cấp phép xây dựng NMĐHN

12 12 IAEA

12. Hội thảo về đánh giá báo cáo phân tích an toàn sơ bộ (PSAR) lần 3

31 12 IAEA

13. Hội thảo về đánh giá báo cáo phân tích an toàn sơ bộ (PSAR) lần 4

26 12 IAEA

14. Hội thảo về Chương trình tính toán thủy nhiệt RELAP 5 cho nhà máy điện hạt nhân

12 12 IAEA

TỔNG CỘNG 132

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

78

XIV. HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN

Thông tin, tuyên truyền là một trong những chức năng, nhiệm vụ của Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) trong công tác quản lý nhà nước về ATBXHN. Hoạt động thông tin bao gồm: i) xây dựng hệ thống thông tin quốc gia về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân, ii) thực hiện hoạt động thông tin khoa học và thông tin đại chúng về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân.

Trong những năm qua, Cục đã triển khai nhiều hoạt động thông tin, tuyên truyền về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân; an ninh nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân, cơ sở hạt nhân và thanh sát hạt nhân nhằm thông tin kịp thời cho các cấp Lãnh đạo, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan tổ chức có liên quan cũng như nâng cao hiểu biết, nhận thức của đông đảo quần chúng nhân dân, góp phần phục vụ công tác quản lý nhà nước về ATBXHN cũng như đảm bảo sự công khai minh bạch của Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia.

Trong giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam quyết định phát triển điện hạt nhân, công tác thông tin, tuyên truyền về an toàn, an ninh hạt nhân là một nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao nhận thức, từ đó tạo sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, góp phần đảm bảo sự thành công của chương trình phát triển điện hạt nhân quốc gia.

14.1. Công tác thông tin tuyên truyền phổ biến pháp luật

Công tác thông tin tuyên truyền phổ biến pháp luật đã được chú trọng trong thời gian qua. Các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử được cập nhật đầy đủ trên Cổng thông tin điện tử của Bộ và của Cục ATBXHN. Tuyển tập VBQPPL trong lĩnh vực ATBXHN và NLNT đã được biên soạn và xuất bản lần thứ 2 vào năm 2015. Bên cạnh đó, nhằm tăng cường công tác phổ biến pháp luật, trong năm 2015 Cục đã tổ chức Hội thảo phổ biến VBQPPL tại Hà Nội cho các đối tượng thuộc các Bộ, ngành có liên quan, các viện nghiên cứu, các Sở KH&CN, và Lãnh đạo và cán bộ phụ trách an toàn của các cơ sở bức xạ.

14.2. Công tác xuất bản các ấn phẩm của Cơ quan pháp quy hạt nhân

Hàng năm, Cục xây dựng và xuất bản Báo cáo công tác quản lý nhà nước về ATBXHN nhằm tổng kết, đánh giá công tác quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, an ninh nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân và cơ sở hạt nhân và thanh sát hạt nhân. Báo cáo cung cấp thông tin về tình hình quản lý trong lĩnh vực an toàn bức xạ, hạt nhân từ Trung ương tới địa phương cho các cơ quan Đảng, Chính phủ, Bộ ngành làm cơ sở trong hoạch định đường lối chính

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

79

sách để phát triển và hoàn thiện hạ tầng quốc gia bảo đảm an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân. Báo cáo công tác quản lý nhà nước về ATBXHN năm 2015 nhằm đánh giá tình hình chung về công tác xây dựng VBQPPL; hoạt động cấp phép, thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước; công tác quản lý an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, an ninh và thanh sát hạt nhân của lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, của các cơ sở bức xạ trong lĩnh vực công nghiệp, y tế,các cơ sở tiến hành dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT, hoạt động ứng phó sự cố; hoạt động thông tin và đào tạo, hợp tác quốc tế của cơ quan quản lý nhà nước... Các phụ lục trong Báo cáo quốc gia là tư liệu tra cứu quan trọng về quản lý nhà nước trong lĩnh vực ATBXHN.

Cục ATBXHN đã định kỳ hàng quý xuất bản Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân. Năm 2015, đã xuất bản Tập san số 6,7,8 và 9 nhằm cung cấp thông tin cho bạn đọc về các hoạt động của cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia, các nghiên cứu về pháp quy hạt nhân, trao đổi của các chuyên gia, kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực pháp quy hạt nhân và hoạt động quản lý nhà nước về an toàn bức xạ ở các địa phương. Dự kiến sẽ xây dựng Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân thành Tạp chí Pháp quy hạt nhân, một tạp chí chuyên ngành trong lĩnh vực NLNT.

14.3. Duy trì và cập nhật thông tin trên Cổng thông tin điện tử của Cục ATBXHN

Trong năm 2015, Cục ATBXHN đã nâng cấp Trang thông tin điện tử của Cục thành Cổng thông tin điện tử của đơn vị với giao diện thân thiện, dễ sử dụng, nhiều chuyên trang, chuyên mục và có tính bảo mật cao, được duy trì với 02 thứ tiếng Anh - Việt.

Cổng thông tin điện tử của Cục ATBXHN đăng tải đầy đủ các thông tin phục vụ công tác quản lý như các thủ tục hành chính, hướng dẫn cấp phép, VBQPPL... và thường xuyên cung cấp tin tức về hoạt động của Cục, tin tức trong và ngoài nước trong lĩnh vực NLNT, các tài liệu về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân, các bài viết nghiên cứu chuyên sâu, ý kiến trao đổi của các nhà quản lý, nhà khoa học. Đã xây dựng trang thông tin giao lưu trực tuyến và hòm thư góp ý trên Cổng thông tin điện tử của Cục.

Cổng thông tin điện tử của Cục ATBXHN đã thường xuyên được cập nhật thông tin, với số lượng trung bình 3 tin, bài / tuần. Trong năm 2015, Cổng thông tin điện tử đã có trên 1,4 triệu lượt truy cập tham khảo thông tin.

14.4. Hoạt động thông tin khoa học phục vụ công tác quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân

Trong năm vừa qua, Cục ATBXHN đã có những hoạt động thông tin khoa học phục vụ công tác quản lý nhà nước về an toàn bức xạ hạt nhân:

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

80

- Thu thập, tổ chức bảo quản và phân loại vốn tài liệu khoa học theo loại hình và nội dung. Phát triển nguồn thông tin và các dịch vụ thông tin theo hướng hiện đại hóa, trong đó chú trọng vào các nguồn thông tin điện tử và các nguồn thông tin số hóa.

- Cục ATBXHN đã xây dựng và duy trì quản lý thư viện của mình với khoảng 2000 đầu sách tài liệu chuyên ngành và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, tài liệu đào tạo, hội thảo trong lĩnh vực an toàn bức xạ và hạt nhân.

- Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của thư viện, từng bước xây dựng thư viện hiện đại, đáp ứng được nhu cầu tra cứu thông tin của cán bộ trong cơ quan

- Xây dựng, từng bước phân loại và quản lý và vận hành các CSDL về sách, tạp chí, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến an toàn bức xạ và hạt nhân.

- Phát triển nguồn lực thông tin và các dịch vụ thông tin theo hướng hiện đại hóa, trong đó chú trọng vào các nguồn thông tin điện tử và các nguồn thông tin số hóa

- Hiện nay, Thư viện Cục đã có được một số lượng tài liệu bao gồm:

+ Tổng số sách, tài liệu: gần 2.000 đầu sách (bao gồm các tài liệu chuyên ngành, các tiêu chuẩn, hướng dẫn trong và ngoài nước)

+ Tài liệu văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực an toàn bức xạ và hạt nhân

+ Tài liệu dạng tệp dữ liệu từ các hội thảo, các khóa đào tạo trong lĩnh vực an toàn bức xạ và hạt nhân.

14.5. Triển khai Đề án 370 về thông tin, tuyên truyền phát triển điện hạt nhân.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 370/2013/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án Thông tin tuyên truyền phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam đến năm 2020” (Đề án 370).

Cục ATBXHN là một trong những cơ quan chuyên môn chính chịu trách nhiệm triển khai các nội dung tuyên truyền về an toàn, an ninh hạt nhân trong Đề án. Trong năm 2015, Cục ATBXHN đã tích cực tham gia xây dựng và thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền phổ biến VBQPPL và cung cấp thông tin về an toàn và an ninh hạt nhân phục vụ phát triển điện hạt nhân.

Kết quả thực hiện nhiệm vụ đã góp phần tăng cường công tác thông tin tuyên truyền của cơ quan quản lý nhà nước về đảm bảo an toàn bức xạ, an toàn

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

81

hạt nhân trong phát triển điện hạt nhân tới các đối tượng công chúng khác nhau, góp phần thực hiện các mục tiêu đề ra của Đề án 370.

Từ các bài học rút ra trong hoạt động quản lý những năm qua, đặc biệt là các bài học từ các sự cố mất nguồn phóng xạ, đã cho thấy để nâng cao niềm tin của công chúng đối với công tác quản lý an toàn, an ninh hạt nhân trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử và niềm tin đối với chương trình phát triển điện hạt nhân của Việt Nam thì bên cạnh công tác thông tin tuyên truyền về điện hạt nhân cũng cần tăng cường thông tin, tuyên truyền về an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ. Trong thời gian tới, trong khuôn khổ Đề án 370 bên cạnh các nội dung thông tin tuyên truyền về an toàn, an ninh hạt nhân, Cục ATBXHN sẽ tăng cường các hoạt động thông tin tuyên truyền về an ninh nguồn phóng xạ với việc tổ chức các hội thảo thông tin tuyên truyền về an ninh nguồn phóng xạ tại các địa phương trên cả nước.

14.6. Các hoạt động khác

Để thực hiện tốt chức năng về thông tin, tuyên truyền, Cục ATBXHN đã thiết lập và duy trì mối quan hệ với các cơ quan báo chí, tích cực phối hợp và cung cấp thông tin cho các đơn vị báo chí. Cục đã cung cấp cho Trung tâm Thông tin của Bộ KH&CN khoảng 70 tin, gấp 3 lần so với yêu cầu.

Để nâng cao chất lượng hoạt động thông tin, tuyên truyền, Cục ATBXHN đã chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác thông tin thông qua việc tổ chức hoặc cử cán bộ tham gia các khoá tập huấn, hội thảo về thông tin tuyên truyền trong và ngoài nước. Năm 2015, Cục ATBXHN đã phối hợp với Cơ quan pháp quy hạt nhân của Pháp (ASN) tổ chức Hội thảo thông tin tuyên truyền với sự tham dự của các đại diện của các Bộ, ngành có liên quan nhằm chia sẻ kinh nghiệm và trao thông tin trong lĩnh vực pháp quy hạt nhân.

Một hoạt động nổi bật của cơ quan pháp quy hạt nhân trong năm 2015 là đã tổ chức thành công Hội nghị pháp quy hạt nhân toàn quốc lần thứ 2 tại Đà Lạt. Hội nghị có sự tham gia đông đủ của các nhà quản lý từ các cơ quan quản lý trung ương và cơ quan quản lý tại chuyên gia quốc tế. Hội nghị đã tổng kết, đánh giá hoạt động quản lý an toàn, an ninh hạt nhân trong lĩnh vực năng lượng, bao gồm cả hoạt động quản lý đối với dự án nhà địa phương, các nhà khoa học, lãnh đạo và người phụ trách an toàn của các cơ sở sử dụng nguồn bức xạ, đại biểu các cơ quan quản lý, các cơ quan kỹ thuật và các máy điện hạt nhân. Trên cơ sở các đánh giá, Hội nghị cũng đưa ra các đề xuất kế hoạch hành động cho việc hoàn thiện hạ tầng quốc gia về bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân.

Hội nghị Pháp quy hạt nhân 2015 là sự kiện lớn của ngành NLNT Việt Nam. Tại Hội nghị, Bộ KH&CN cũng đã trao các bằng khen cho các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác bảo đảm ATBXHN.

14.7. Đánh giá chung

Tuy còn khó khăn về cơ sở hạ tầng thông tin cũng như hạn chế về nguồn nhân lực, trong những năm qua, hoạt động thông tin pháp quy hạt nhân đã có

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

82

những bước phát triển đáng kể, tăng cả về số lượng và chất lượng, góp phần phục vụ công tác quản lý nhà nước về ATBXHN.

Trong thời gian tới, trước những yêu cầu và thách thức mới, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam quyết định xây dựng nhà máy điện hạt nhân, cần tăng cường hơn nữa các hoạt động thông tin tuyên truyền về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, an ninh nguồn phóng xạ, an ninh và thanh sát hạt nhân, ứng phó sự cố hạt nhân, văn hóa an toàn, văn hóa an ninh nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng tăng và cho các đối tượng khác nhau, góp phần nâng cao nhận thức, tạo niềm tin và sự ủng hộ của công chúng đối với tính an toàn và hiệu quả của các hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình, trong đó có phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam.

XV. HỢP TÁC QUỐC TẾ

15.1. Tổng quan về hoạt động hợp tác quốc tế về an toàn, an ninh và không phổ biến hạt nhân

Trong năm 2015, Cục ATBXHN tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động hợp tác quốc tế (HTQT) song phương và đa phương, tập trung chủ yếu vào việc nâng cao năng lực cán bộ của cơ quan pháp quy, hoàn thiện cơ sở hạ tầng pháp quy cho chương trình điện hạt nhân. Có thể nói, hoạt động HTQT của Cục ATBXHN đang bước vào giai đoạn mới, chú trọng hơn đến chất lượng và hiệu quả hợp tác, đóng góp thiết thực cho các hoạt động quản lý nhà nước

15.2. Hợp tác đa phương

15.2.1. Hợp tác với IAEA

Trong năm 2015, Cục đã cử được hơn 100 lượt cán bộ tham dự các Hội thảo, khóa học do IAEA tổ chức liên quan đến an toàn, an ninh, thanh sát hạt nhân và quản lý chung. Cục cũng tiếp tục đẩy mạnh hợp tác với IAEA và triển khai các hoạt động trong khuôn khổ các Dự án với IAEA gồm:

- Dự án Nâng cao năng lực pháp quy giai đoạn cấp phép xây dựng Nhà máy điện hạt nhân - VIE 9015;

- Kế hoạch hỗ trợ an ninh tích hợp (INSSP): đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm đánh giá cơ sở hạ tầng an ninh hạt nhân chuẩn bị cho xây dựng NMĐHN của Việt Nam. IAEA đã cử Đoàn chuyên gia vào giới thiệu về Dịch vụ tư vấn quốc tế về Bảo vệ thực thể (IPPAS), lộ trình thực hiện IPPAS sẽ được đề xuất với IAEA trong năm 2016-2017;

- Triển khai Dự án định vị nguồn phóng xạ di động RADLOT-VN theo hợp tác 03 bên IAEA-Hàn Quốc-Việt Nam;

- Các dự án hợp tác kỹ thuật: RAS9061 “Tăng cường năng lực các cơ

quan pháp quy hạt nhân tại khu vực và văn hóa an toàn”; RAS9066 “Tăng

cường cơ sở hạ tầng giáo dục và đào tạo và xây dựng năng lực về an toàn bức

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

83

xạ”; RAS9067 “Tăng cường cơ chế bảo đảm tuân thủ hiệu quả đối với việc vận

chuyển chất phóng xạ” và RAS9071 “Thiết lập hạ tầng quản lý chất thải phóng

xạ”;

- Chương trình thí điểm về tăng cường năng lực thẩm định an toàn hạt nhân (Pilot Program);

Để chuẩn bị cho chương trình hợp tác với IAEA gia đoạn 2016 – 2020, Cục ATBXHN đã phối hợp với các cơ quan liên quan của Việt Nam và IAEA hoàn thiện Khung chương trình quốc gia (CPF) giai đoạn 2016-2020.

15.2.2. Hợp tác hạt nhân vùng Châu Á Thái Bình Dương (RCA)

Cục ATBXHN giữ vai trò là Điều phối viên quốc gia RCA của Việt Nam trong việc điều phối các Chủ dự án trong khuôn khổ RCA tham gia các hoạt động hội nghị, hội thảo, khóa tập huấn, v.v. Tính đến tháng 9/2015 (trước khi đầu mối RCA chuyển về Viện Năng lượng nguyên tử), Cục đã làm thủ tục cho 32 lượt cán bộ tham dự các khóa đào tạo/hội nghị trong khuôn khổ RCA.

15.2.3. Hợp tác với Ủy ban Châu ÂU (EC)

Dự án VN3.01/09 “Hoàn thiện khung pháp quy về an toàn hạt nhân, hỗ trợ Cục ATBXHN xây dựng các quy trình, thủ tục nội bộ và nâng cao năng lực thẩm định an toàn hạt nhân cho các cán bộ của Cục” do EU tài trợ với tổng kinh phí 2 triệu Euro.Năm 2015, Cục đã triển khai, tổ chức 05 sự kiện là các cuộc họp, hội thảo thuộc các nhiệm vụ của dự án, đặc biệt tổ chức thành công Cuộc họp Tổng kết Dự án ngày 15-16/4/2015. Dự án đã kết thúc và đạt kết quả tích cực. Trên cơ sở kết quả của dự án được đánh giá tốt, EC đã đồng ý để hỗ trợ tiếp tục cho cơ quan pháp quy hạt nhân của Việt Nam Dự án EC VN3.01-13“Tăng cường năng lực và tính hiệu quả của Cục ATBXHN và tổ chức hỗ trợ kỹ thuật của Cục”. Cục ATBXHN đã phối hợp với EC để hoàn tất các thủ tục phê duyệt dự án và xây dựng kế hoạch hoạt động triển khai Dự án giai đoạn tiếp theo.

- Dự án EC INSC Project MC.03/10 T&T: Đào tạo và thực tập cho cơ quan pháp quy và tổ chức hỗ trợ kỹ thuật của cơ quan pháp quy

Trong năm 2015 đã tổ chức cho 27 lượt cán bộ tham dự các Khóa đào tạo ngắn hạn (1-2 tuần) và Đào tạo thực hành (Tutoring, 2 tháng) theo kênh đào tạo của ENSTTI và Iter-CONSULT tại các nước Châu Âu

15.2.4. Dự án CBRN

Với vai trò là Điều phối viên quốc gia về Sáng kiến thiết lập trung tâm hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hóa học, sinh học, phóng xạ và hạt nhân (CBRN), Cục ATBXHN đã điều phối các hoạt động triển khai Sáng kiến tại Việt Nam cũng như theo dõi, quản lý việc triển khai các dự án thành phần trong khuôn khổ Sáng kiến. Trong năm 2015, Cục ATBXHN đã tổ chức 04 hội thảo tại Việt Nam và cử 09 đoàn tham gia các khóa đào tạo, hội nghị tại nước ngoài liên quan đến an ninh và ứng phó với các sự cố sử dụng vật liệu CBRN. Đặc biệt, Cục ATBXHN đã phối hợp với Viện nghiên cứu Tư pháp và Tội phạm liên bang của Liên Hợp quốc (UNICRI) tổ chức hội thảo về xây dựng Kế hoạch hành động

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

84

quốc gia với sự tham dự của đại diện các Bộ, ngành của Việt Nam nhằm thống nhất quan điểm trong việc giảm thiểu các nguy cơ về CBRN, xác định các ưu tiên cho việc xây dựng năng lực; đảm bảo rằng việc xây dựng năng lực quốc gia phù hợp và thống nhất với phương pháp tiếp cận chung và kinh nghiệm tốt nhất trong lĩnh vực CBRN, từ đó xác định và thảo luận các dự án cần được EU tài trợ cho Việt Nam cho từng lĩnh vực cụ thể.

15.2.4. Các hợp tác khác:

Năm 2015, Cục ATBXHN tiếp tục triển khai các hoạt động hợp tác với Mạng lưới an toàn hạt nhân Châu Á (ANSN), hợp tác trong khuôn khổ Diễn dàn hợp tác pháp quy hạt nhân (RCF) để nâng cao năng lực pháp quy và cập nhật kế hoạch hoạt động nhằm tăng cường hỗ trợ của IAEA với Việt Nam, tham gia các hoạt động trong ASEANTOM (Mạng lưới các cơ quan pháp quy hạt nhân các nước Đông Nam Á).

15.3. Hợp tác song phương

15.3.1. Hợp tác với Nga

Tiếp tục triển khai các hoạt động hợp tác đã thống nhất trong các Biên bản hợp tác giữa các cơ quan của hai nước, cụ thể trong việc đào tạo cán bộ cho cơ quan pháp quy hạt nhân của Việt Nam. Cục ATBXHN đã phối hợp với Cơ quan pháp quy hạt nhân của Nga tổ chức 02 hội thảo tại Hà Nội về an ninh hạt nhân và thanh tra nhà máy điện hạt nhân và tổ chức 03 đoàn cán bộ tham dự hội thảo, khóa tập huấn về an ninh hạt nhân và thẩm định an toàn hạt nhân tại Nga.

15.3.2. Hợp tác với Nhật Bản

Tiếp tục triển khai các hoạt động hợp tác với Cơ quan pháp quy hạt nhân Nhật Bản (NRA), Tập đoàn Công nghiệp nặng Mitsubishi (MHI); Cơ quan Năng lượng nguyên tử Nhật Bản (JAEA); Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản (MEXT). Cụ thể, phối hợp với phía Nhật Bản tổ chức 08 hội thảo, khóa tập huấn tại Việt Nam về các nội dung liên quan đến an toàn hạt nhân và cử 07 đoàn cán bộ của Việt Nam sang tham dự hội thảo và đào tạo tại Nhật bản về an ninh và không bổ biến hạt nhân và quản lý an toàn nhà máy điện hạt nhân.

15.3.3. Hợp tác với Hoa Kỳ

- Hợp tác với Cơ quan pháp quy hạt nhân (USNRC):

+ Tiếp tục triển khai các hoạt động hợp tác, tiếp nhận hỗ trợ đào tạo trong chương trình CAMP về sử dụng các phần mềm tính toán trong phân tích an toàn hạt nhân;

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

85

+ Tiếp tục tiếp nhận hỗ trợ của US NRC trong xây dựng năng lực của cơ quan pháp quy theo Chương trình xây dựng cơ quan pháp quy quốc tế (International Regulatory Development Partnership – IRDP).

+ Tham dự các hoạt động khác trong khuôn khổ hợp tác với US NRC;

- Hợp tác với Cơ quan An ninh hạt nhân quốc gia, Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (NNSA/ USDOE): tiếp tục triển khai Dự án Giảm thiểu nguy cơ phóng xạ toàn cầu (GTRI) về nâng cấp và duy trì hệ thống an ninh cho nguồn phóng xạ có hoạt độ cao (trên 1000Ci) tại các cơ sở bức xạ trong cả nước; các hoạt động thuộc Chương trình An ninh hạt nhân quốc tế (INSP) và Chương trình Cam kết và Thanh sát hạt nhân quốc tế (INSEP).

- Hợp tác khác: Hợp tác trong khuôn khổ Chương trình kiểm soát xuất nhập khẩu (Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thực hiện); hợp tác với Công ty GE Hitachi, nhằm mục đích thiết lập cơ sở pháp lý cho việc triển khai các hoạt động hợp tác, tăng cường hơn nữa năng lực phân tích và thẩm định an toàn hạt nhân của Cục ATBXHN; và mở rộng quan hệ hợp tác với Chương trình An ninh hạt nhân toàn cầu (GNS) của Cơ quan Giảm thiểu Nguy cơ Quốc phòng (DTRA), Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (DoD); Hợp tác với Công ty Lighbrigh về đào tạo thẩm định và thanh tra an toàn hạt nhân.

15.3.4. Hợp tác với Hàn Quốc Cục ATBXHN đã phối hợp với Viện An toàn hạt nhân Hàn Quốc (KINS)

tổ chức đón đoàn chuyên gia của IAEA và KINS vào làm việc, triển khai dự án của các bên liên quan, xây dựng kế hoạch triển khai Dự án RADLOT; tổ chức 01 đoàn ra tham dự “Hội thảo Nhà lãnh đạo an toàn hạt nhân tương lai” tại Hàn Quốc.

Trong năm 2015, Cục ATBXHN cũng đã phối hợp với Viện Không phổ biến và kiểm soát hạt nhân Hàn Quốc (KINAC) tổ chức 01 đoàn ra tham dự Khóa đào tạo quốc tế về thanh sát hạt nhân tổ chức tại Daejeon, Hàn Quốc và 01 đoàn ra tham dự Khóa đào tạo quốc tế lần thứ 4 của KINAC/INSA về an ninh hạt nhân, tổ chức tại Viện An ninh và không phổ biến vũ khí hạt nhân quốc tế (INSA) , tại Daejeon, Hàn Quốc

Trong chương trình hợp tác với Hàn Quốc, Cục ATBXHN đã cử 03 cán bộ tham dự chương trình đào tạo thạc sĩ về an toàn bức xạ và hạt nhân tại Hàn Quốc.

15.3.5. Hợp tác với Anh Quốc Năm 2015 Cục ATBXHN đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Vương quốc

Anh thông qua việc triển khai các hoạt động với Đại sứ quán Vương quốc Anh tại Hà Nội, Bộ Năng lượng và biến đổi khí hậu Vương quốc Anh (DECC), Đại học Hoàng gia Luân Đôn (King’s Collegue London) với Dự án “Nâng cao năng lực của Việt Nam trong việc thực hiện chiến lược phát triển hạt nhân dân sự” giai đoạn 2014 - 2015.

Trong 3 tháng đầu năm 2015, Chuyên gia của Cơ quan pháp quy hạt nhân Vương quốc Anh (ONR) đã hỗ trợ các hoạt động pháp quy cho Cục ATBXHN: Góp ý cho bản dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi, tư vấn về xây dựng

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

86

năng lực thẩm định, thanh tra an toàn dự án điện hạt nhân, tư vấn về xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn phục vụ cho chương trình điện hạt nhân của Việt Nam, đề xuất kế hoạch hợp tác, đào tạo cán bộ cho Cục ATBXHN trong năm 2015 trong khuôn khổ các hoạt động hợp tác giữa Cục ATBXHN và ĐSQ Anh.

Trong thời gian chuyên gia ONR làm việc tại Việt Nam, Cục ATBXHN đã mời chuyên gia tham gia đoàn thanh tra NMĐHN Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2 với tư cách là quan sát viên để tư vấn việc triển khai hoạt động thanh tra NMĐHN và tổ chức thăm Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt để tìm hiểu các hoạt động nghiên cứu tại Viện. Cục ATBXHN cũng phối hợp với chuyên gia ONR tổ chức Hội thảo về thực hiện hoạt động thanh tra nhà máy điện hạt nhân và chia sẻ kinh nghiệm của Vương quốc Anh trong việc triển khai hoạt động thanh tra NHMĐHN. Cũng trong năm 2015, Cục ATBXHN cũng đã phối với Anh tổ chức Hội thảo về Văn hóa an ninh hạt nhân tổ chức tại Hà Nội nhằm giới thiệu cho cán bộ pháp quy, cán bộ làm việc tại cơ sở bức xạ và hạt nhân về văn hóa an ninh hạt nhân thông qua các hướng dẫn và kinh nghiệm thực tế của quốc tế và làm thủ tục cho 02 đoàn cán bộ tham dự các hội thỏa liên quan đến Bảo vệ thực thể và an ninh hạt nhân tại Anh và In-đô-nê-xi-a.

Cục ATBXHN đã phối hợp với ĐSQ Anh tổ chức Cuộc họp tổng kết các hoạt động hợp tác giai đoạn 2014 – 2015 và trên cơ sở đó đề xuất kế hoạch hợp tác giữa Cục ATBXHN và các đối tác của Vương quốc Anh trong giai đoạn 2015 – 2016.

15.3.6. Hợp tác với Pháp Trong năm 2015, Cục ATBXHN đã làm việc với Phái đoàn chuyên gia

Viện Bảo vệ bức xạ và an toàn hạt nhân Pháp trong khuôn khổ Hội thảo “Đánh giá các phương án an toàn của lò phản ứng hạt nhân ATMEA1” và trao đổi về Dự án xây dựng Trung tâm ứng phó sự cố của Cục ATBXHN với đề xuất kinh phí hỗ trợ từ EC.

15.3.7. Hợp tác với Lào Tiếp tục triển khai thực hiện các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ Nghị

định thư hợp tác với CHDCND Lào, Cục ATBXHN đã phối hợp với các cơ quan của nước bạn tổ chức Hội nghị tổng kết Nhiệm vụ Nghị định thư tại Viên Chăn, Lào từ ngày 22-23/7/2015 nhằm đánh giá và nghiệm thu kết quả thực hiện Nhiệm vụ hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ theo Nghị định thư với Lào. Việc thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ với CHDCND Lào cho thấy vai trò của Việt Nam trong việc hỗ trợ các nước mới gia nhập Cơ quan năng lượng quốc tế IAEA như Lào, góp phần khẳng định vai trò của Việt Nam trong khu vực và nâng cao mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Lào.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

87

XVI. CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN Ở TRUNG ƯƠNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG

16.1. Chức năng, nhiệm vụ

Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (được viết tắt là Cục ATBXHN) là cơ quan trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý nhà nước và thực thi các nhiệm vụ quản lý nhà nước về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân trên phạm vi cả nước; quản lý, thực hiện các hoạt động dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Cục. Nhiệm vụ và quyền hạn của Cục:

1. Tổ chức xây dựng trình Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân. Tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật phục vụ phát triển ngành năng lượng nguyên tử; quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn bảo đảm an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân; chế độ, chính sách đặc thù cho những người làm việc trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

2. Xây dựng, trình lãnh đạo cấp có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện các chính sách, quy hoạch phát triển, các chương trình, kế hoạch 5 năm và hàng năm về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân.

3. Tổ chức khai báo chất phóng xạ, thiết bị bức xạ, vật liệu hạt nhân, thiết bị hạt nhân; cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ; cấp chứng chỉ nhân viên bức xạ; tổ chức cấp, thu hồi đăng ký hoạt động và chứng chỉ hành nghề dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử liên quan tới an toàn bức xạ và hạt nhân, bao gồm: đào tạo nhân viên bức xạ; đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân tiến hành công việc bức xạ; đo liều chiếu xạ cá nhân, đánh giá hoạt độ phóng xạ; kiểm định, hiệu chuẩn các thiết bị ghi đo bức xạ, thiết bị bức xạ, thiết bị hạt nhân; lắp đặt, bảo dưỡng, sửa chữa thiết bị bức xạ, thiết bị hạt nhân; tẩy xạ; thay, đảo nhiên liệu cho lò phản ứng hạt nhân; lắp đặt nguồn phóng xạ và các hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử liên quan tới an toàn bức xạ và hạt nhân khác theo phân công của Bộ trưởng.

4. Thẩm định và tổ chức thẩm định an toàn đối với công việc bức xạ; thẩm định và tổ chức thẩm định an ninh đối với nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân và cơ sở hạt nhân.

5. Kiểm tra, thanh tra chuyên ngành về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân theo thẩm quyền.

6. Hướng dẫn, chỉ đạo và phối hợp với các Sở Khoa học và Công nghệ, các cơ quan, đơn vị có liên quan thực hiện quản lý nhà nước về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

88

7. Hỗ trợ kỹ thuật cho công tác quản lý nhà nước về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân; tổ chức nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và triển khai thực hiện các dịch vụ về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân.

8. Thực hiện quản lý nhà nước về an toàn, an ninh chất thải phóng xạ, vật liệu hạt nhân, nhiên liệu hạt nhân, nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng, phóng xạ môi trường, ứng phó khẩn cấp và xử lý sự cố bức xạ hạt nhân, kiểm soát chiếu xạ nghề nghiệp, chiếu xạ dân chúng và chiếu xạ y tế; phối hợp với Tổng Cục TCĐLCL trong công tác quản lý hệ thống Phòng chuẩn đo lường bức xạ.

9. Tổ chức hoạt động thanh sát hạt nhân.

10. Xây dựng hệ thống thông tin quốc gia về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân.

11. Thực hiện hoạt động thông tin khoa học và thông tin đại chúng về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân.

12. Chủ trì và phối hợp tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân.

13. Tổ chức thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân; nghiên cứu, đề xuất việc ký, gia nhập các điều ước, thỏa thuận quốc tế về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân; tham gia thực hiện các điều ước, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

14. Quản lý cán bộ, tài sản, hồ sơ và tài liệu của Cục theo phân cấp của Bộ và quy định của pháp luật.

15. Thực hiện các nhiệm vụ khác được Bộ trưởng giao.

16.2. Mô hình tổ chức

Cục Kiểm soát và an toàn bức xạ, hạt nhân được thành lập năm 2003 và được đổi tên thành Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) vào tháng 10/2008.

Căn cứ Nghị định số 28/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Bộ trưởng Bộ KH&CN đã ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Cục ATBXHN (Quyết định số 2248/QĐBKHCN ngày 10/10/2008).

Căn cứ Nghị định số 20/2013/NĐ-CP ngày 26/2/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ KH&CN, Bộ trưởng Bộ KH&CN đã ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Cục ATBXHN (Quyết định số 217/QĐBKHCN ngày 18/2/2014) để thay thế Quyết định 2248/QĐ-BKHCN ký ngày 10/10/2008. Theo đó, Cơ cấu tổ chức của Cục gồm 8 đơn vị quản lý nhà nước là:

1. Văn phòng Cục;

2. Phòng Kế hoạch và Tài chính;

3. Phòng An ninh và thanh sát hạt nhân;

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

89

4. Thanh tra Cục;

5. Phòng Cấp phép;

6. Phòng Tiêu chuẩn An toàn;

7. Phòng Hợp tác quốc tế;

8. Phòng Pháp chế và Chính sách

Và ba đơn vị sự nghiệp là:

1. Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật an toàn bức xạ hạt nhân và ứng phó sự cố;

2. Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật an toàn bức xạ thành phố Hồ Chí Minh;

3. Trung tâm Thông tin và Đào tạo.

Hiện tại, các đơn vị mới và kiện toàn lại đã được Bộ KH&CN ký Quyết định thành lập trừ Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật an toàn bức xạ thành phố Hồ Chí Minh sẽ được Bộ KH&CN xem xét sau và ký Quyết định thành lập vào thời điểm thích hợp.

Về công tác kiện toàn tổ chức, Cục đã trình Bộ ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Thanh tra Cục; ban hành Quy định chức năng nhiệm vụ các đơn vị quản lý nhà nước về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân và Điều lệ tổ chức và hoạt động 02 đơn vị sự nghiệp.

Về công tác kiện toàn ổn định nhân sự, Cục đã xây dựng và trình Bộ Đề án Vị trí việc làm của Cục và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc nhằm ổn định và tăng cường nhân lực đáp ứng các nhiệm vụ được giao.

Đồng thời với việc kiện toàn về tổ chức và cán bộ, Cục đã và đang tổ chức xây dựng hoàn thiện để trình chính thức ba văn bản quan trọng lên Bộ KH&CN:

i) Đề án phát triển nguồn nhân lực của Cục đến năm 2020 (trong đó làm rõ nhu cầu nhân lực, kế hoạch tuyển dụng và đào tạo cán bộ);

ii) Dự án đầu tư ODA tăng cường năng lực hỗ trợ kỹ thuật của Cục. Dự án đầu tư trung hạn phát triển Cục đến năm 2020.

iii) Đề án nâng cấp Cục ATBXHN thành Cơ quan pháp quy hạt nhân Quốc gia.

Mô hình tổ chức hiện nay của Cục ATBXHN là bước chuyển tiếp quan trọng để Cục tiến đến hoàn thiện theo mô hình tổ chức sẽ được quy định trong Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của một Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia.

16.3. Nguồn nhân lực

Đến thời điểm 31/12/2015, nhân lực của Cục ATBXHN bao gồm 99 cán bộ công chức, viên chức và người lao động. Cụ thể: 30 cán bộ Công chức; 15 cán bộ Viên chức; 03 cán bộ Hợp đồng theo NĐ 68 và 51 cán bộ Hợp đồng xác định

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

90

thời hạn. Trong tổng số cán bộ của Cục, có trên 90 cán bộ có trình độ đại học và sau đại học trong đó có 9 Tiến sỹ (7 Tiến sỹ và 2 Phó giáo sư, Tiến sỹ).

16.4. Ngân sách Nhà nước

Tổng kinh phí NN cấp năm 2015 là: 15.175.000.000 đồng. Trong đó:

- Lương, hoạt động bộ máy:

+ Công chức: 4.269.000.000 đồng

+ Viên chức: 1.763.000.000 đồng

- Phụ cấp ưu đãi ngành năng lượng nguyên tử:

+ Quản lý hành chính: 647.000.000đ

+ Sự nghiệp: 502.000.000đ

- Nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng: 1.319.000.000 đồng

- Nhiệm vụ đặc thù: 900.000.000 đồng

- HTQT (đoàn ra, đoàn vào, vốn đối ứng EC, Niên liễm và đoàn ra): 1.550.000.000 đồng

- Đề tài, đề án: 973.000.000 đồng

- Kinh phí không thường xuyên:

+ Hoạt động của Tổ công tác liên Bộ: 120.000.000 đồng

+ Hoạt động của Hội đồng ATHNQG: 850.000.000 đồng

+ Tăng cường cơ sở vật chất trang TB: 1.852.000.000 đồng

- Kinh phí sự nghiệp thông tin và truyền thông: 430.000.000 đồng

16.5. Tình hình thu phí và lệ phí cấp phép

Tổng thu phí năm 2015 là: 6.335.064.600 đồng. Trong đó:

+ Nộp ngân sách: 1.070.704.690 đồng

+ Được để lại: 5.264.359.910 đồng

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

91

XVII. CÁC CƠ QUAN TƯ VẤN VỀ AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN

17.1. Hoạt động của Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia (ATHNQG) năm 2015

Cục ATBXHN với vai trò của cơ quan thường trực giúp Hội đồng ATHNQG trong các hoạt động chuyên môn để Hội đồng có thể tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ trong chỉ đạo, giải quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành về bảo đảm an toàn dự án điện hạt nhân. Các công việc đã được thực hiên bao gồm các vấn đề trình Thủ tướng Chính phủ về: Khung văn bản pháp luật về điện hạt nhân của Việt Nam; Công tác chuẩn bị và tổ chức thẩm định báo cáo phân tích an toàn phục vụ phê duyệt địa điểm và Dự án đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận; công tác soạn thảo Luật NLNT sửa đổi; Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng an toàn và an ninh phục vụ phát triển điện hạt nhân của Việt Nam; Quy hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực.

17.1.1. Các phiên họp của Hội đồng

Phiên họp lần thứ 7 của Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia (Hội đồng) được tổ chức vào ngày 22 tháng 07 năm 2015, tại trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội. Nội dung Phiên họp tập trung chủ yếu vào các vấn đề quan trọng, cấp thiết hiện nay như tình hình xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về điện hạt nhân; công tác chuẩn bị và tổ chức thẩm định Báo cáo PTAT và Báo cáo ĐTM của dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1; tình hình thực hiện nghiên cứu, khảo sát bổ sung về địa điểm của nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2; kết luận của Hội thảo quốc gia về an toàn địa điểm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận do các chuyên gia Việt Nam thực hiện đối với các vấn đề về an toàn địa điểm của Dự án ĐHN Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2.

Trên cơ sở các báo cáo được trình bày tại Phiên họp, ý kiến thảo luận của các thành viên Hội đồng, Chủ tịch Hội đồng đã thông qua các kết luận chính như sau:

- Tình hình xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về điện hạt nhân

+ - Nhiệm vụ sửa đổi Luật Năng lượng nguyên tử: Để chuẩn bị cho việc trình dự thảo Luật NLNT vào Kỳ họp 2, Quốc hội khoá 10 (2016), phiên họp Hội đồng lần 8 sẽ tập trung cho ý kiến đối với dự thảo sơ bộ của Luật NLNT sửa đổi. Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) cần sớm lập dự toán kinh phí cho nhiệm vụ sửa đổi Luật NLNT cho giai đoạn 2016-2017.

- Danh mục văn bản quy phạm pháp luật: Thực hiện rà soát lại danh mục các văn bản QPPL cần điều chỉnh, bổ sung so với Công văn 248/TTg-KTN ngày 19/02/2013 để chuyển cho các Bộ ngành cho ý kiến và phê duyệt lại trong năm 2015. Đây là công việc làm thường xuyên hàng năm theo chỉ đạo của Phó Thủ Tướng Hoàng Trung Hải.

- Công tác chuẩn bị và tổ chức thẩm định Báo cáo PTAT và Báo cáo ĐTM của dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1: Cục ATBXHN cần tập trung, đẩy mạnh

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

92

tiến độ thực hiện công tác mời thầu tư vấn quốc tế hiện đã chậm so với yêu cầu của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải và tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ này một cách quyết liệt, cần sớm phê duyệt kinh phí cho thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ kỹ thuật của 14 tổ chuyên gia Việt Nam cho công tác chuẩn bị và tổ chức thẩm định cùng nhà thầu tư vấn quốc tế.

- Vấn đề an toàn địa điểm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2: Tổ chức các cuộc họp giữa các chuyên gia Việt Nam trong lĩnh vực đánh giá an toàn địa điểm với EVN để làm rõ những nội dung nào cần kiến nghị tư vấn Nga và Nhật Bản có những khảo sát, đánh giá hoặc cung cấp tài liệu bổ sung, tổ chức phân tích đối sánh tuổi của các mẫu lõi khoan liên quan tại đứt gãy Hòn Đeo; EVN làm việc với các tư vấn Nga và Nhật Bản để yêu cầu tiếp tục khảo sát, đánh giá hoặc cung cấp tài liệu bổ sung còn thiếu EVN cần tiếp tục tổ chức quan trắc địa chấn, khí tượng, thủy văn, hải văn, phóng xạ môi trường tại khu vực địa điểm sau khi tư vấn Nga và Nhật bản kết thúc các hoạt động quan trắc liên quan ở địa điểm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2.

- Chiến lược và chính sách quốc gia đối với quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng: Bộ KHCN tiếp tục việc xây dựng chiến lược và chính sách quốc gia đối với quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng. Bộ KHCN chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương ban hành quy định về Quỹ quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng của nhà máy điện hạt nhân.

Phiên họp lần thứ 8 của Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia được tổ chức vào ngày 18 tháng 11 năm 2015 tại trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ. Hội đồng đã cho ý kiến và thảo luận nhằm trao đổi các vấn đề còn có ý kiến khác nhau giữa chuyên gia Việt Nam và các tư vấn của EVN trên cơ sở kết quả khảo sát thực tế của Đoàn chuyên gia của Hội đồng.

Tại phiên họp lần thứ 8, Hội đồng cũng thảo luận về việc thực hiện hệ thống quản lý chất lượng của Chủ đầu tư (EVN) đối với việc triển khai dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận ở giai đoạn khảo sát, đánh giá địa điểm và lập dự án đầu tư; về quan trắc địa chấn, khí tượng, thủy văn, hải văn và phóng xạ môi trường tại khu vực địa điểm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 (Hiện trạng và kế hoạch tiếp theo); về dự thảo Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân cấp quốc gia; về kế hoạch chuẩn bị nhân lực và phương tiện ứng phó sự cố điện hạt nhân; về đề án phát triển Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia phục vụ chương trình phát triển điện hạt nhân và Kế hoạch hoạt động của Hội đồng ATHNQG năm 2016.

Hội đồng đánh giá cao nỗ lực của các Bộ, ngành liên quan trong tổ chức triển thực hiện các kết luận của Phiên họp lần thứ 7 và đưa ra một số kết luận cho phiên họp này như sau:

- Chiến lược và chính sách quốc gia về quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng cần được đưa vào trong các quy định mang tính nguyên tắc của Luật Năng lượng nguyên tử (NLNT). Do đó, đơn vị được giao

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

93

chủ trì soạn thảo cần chủ động phối hợp với Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập Luật NLNT để bổ sung những nội dung cơ bản của Chiến lược và chính sách này vào trong dự thảo Luật NLNT sửa đổi.

- Hiện nay, Việt Nam đã và sẽ ký kết một số Hiệp định thương mại tự do (FTA) với các nước và khu vực và đã kết thúc đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Để thực hiện những cam kết của các Hiệp định này, trong thời gian tới nhiều đạo luật sẽ phải được xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung, trong đó một số luật có những quy định liên quan trực tiếp đến Luật NLNT. Bên cạnh đó, việc sửa đổi Luật NLNT 2008 chủ yếu là giải quyết những vướng mắc, bất cập, không khả thi trong quá trình triển khai dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân. Các nội dung nêu trên cơ bản được quy định tại Nghị định số 70/2010/NĐ-CP ngày 22/6/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật NLNT về nhà máy điện hạt nhân và các Thông tư có liên quan nên trước mắt cần sửa đổi, bổ sung các văn bản này. Vì vậy, Hội đồng đống ý với đề xuất của đơn vị chủ trì soạn thảo về việc xin ý kiến Chính phủ và Quốc hội cho phép lùi thời hạn trình dự án Luật NLNT sửa đổi sang kế hoạch năm 2018. Tuy nhiên, yêu cầu đơn vị chủ trì vẫn phải tiếp tục tập trung hoàn thiện dự thảo Luật NLNT sửa đổi.

- Hội đồng kiến nghị Bộ KH&CN khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành Khung văn bản pháp luật về điện hạt nhân của Việt Nam làm cơ sở cho việc phân công các Bộ, ngành tổ chức thực hiện, đáp ứng yêu cầu của dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận.

- Hội đồng kiến nghị Bộ KH&CN và Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) khẩn trương tổ chức thuê tư vấn thẩm định báo cáo phân tích an toàn và báo cáo đánh giá tác động môi trường của nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1.

Về công tác khảo sát địa điểm của Đoàn chuyên gia của Hội đồng

Hội đồng đánh giá cao sự tích cực và trách nhiệm của Đoàn chuyên gia tư vấn của Hội đồng, đặc biệt các ý kiến tư vấn đối với Chủ đầu tư (EVN), Cơ quan pháp quy hạt nhân (Cục ATBXHN) và Hội đồng trong các hoạt động sắp tới. Hội đồng yêu cầu EVN và Cục ATBXHN, trước mắt, tổ chức triển khai thực hiện các kiến nghị của Đoàn chuyên gia đối với nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1. Đối với những kiến nghị liên quan đến quan trắc địa chấn tại địa điểm, yêu cầu thực hiện theo ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Hội đồng là duy trì các trạm quan trắc đã được thiết lập trong khuôn khổ các đề tài độc lập cấp Nhà nước bằng nguồn kinh phí sự nghiệp khoa học do Bộ KH&CN cung cấp.

Về công tác xây dựng hệ thống quản lý chất lượng của Chủ đầu tư đối với

các giai đoạn triển khai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận

Hội đồng ghi nhận cố gắng của EVN trong việc xây dựng và duy trì hệ thống quản lý chất lượng theo ISO. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực điện hạt nhân cần có các yêu cầu riêng đối với hệ thống quản lý chất lượng trong từng giai đoạn triển khai thực hiện dự án. Nghị định số 70/2010/NĐ-CP cũng như Cơ

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

94

quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) đã có những văn bản quy định và hướng dẫn về vấn đề này. Với trách nhiệm cao nhất về bảo đảm an toàn cho dự án điện hạt nhân, Hội đồng đề nghị EVN chủ động phối hợp với Cục ATBXHN và yêu cầu trợ giúp quốc tế để sớm xây dựng Hệ thống quản lý tích hợp của Chủ đầu tư đối với dự án điện hạt nhân. Đồng thời, Hội đồng cũng yêu cầu Cục ATBXHN sớm xây dựng các văn bản hướng dẫn yêu cầu cốt lõi của Hệ thống quản lý chất lượng của Chủ đầu tư dự án điện hạt nhân dựa trên hướng dẫn của IAEA.

Về hệ thống quan trắc địa chấn, khí tượng, thủy văn, hải văn và phóng xạ

môi trường tại khu vực địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 1 và 2

Hội đồng yêu cầu EVN cần nghiên cứu quy định trong nước, hướng dẫn của IAEA và kinh nghiệm các nước để chuẩn bị thiết lập Hệ thống quan trắc về địa chấn, khí tượng, thủy văn, hải văn và phóng xạ môi trường tại khu vực địa điểm chung cho cả nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2. Hội đồng đồng ý với đề xuất của EVN về việc sẽ thiết lập hệ thống quan trắc này khi Dự án đầu tư của nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận được phê duyệt.

Về Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân cấp quốc gia

Hội đồng ghi nhận công tác chuẩn bị tích cực của Ban chuẩn bị đề án về Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân cấp quốc gia. Để hoàn thiện và trình phê duyệt theo kế hoạch, Hội đồng yêu cầu các Bộ, ngành và các địa phương cần sớm gửi ý kiến góp ý về cho Cơ quan soạn thảo để tổng hợp và hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngoài ra, để bảo đảm tính khách quan khoa học và phù hợp với thông lệ quốc tế, Hội đồng yêu cầu Cơ quan soạn thảo xin ý kiến góp ý của IAEA trước khi trình ban hành.

Về Kế hoạch chuẩn bị nhân lực và phương tiện sẵn sàng ứng phó sự cố bức

xạ và hạt nhân

Hội đồng ghi nhận sự cố gắng và nỗ lực của của Cơ quan thường trực Ủy ban tìm kiếm cứu nạn quốc gia trong việc chuẩn bị bản dự thảo kế hoạch. Hội đồng cho rằng đây là một phần (hay đề án thành phần) của Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân cấp quốc gia. Do đó, bản kế hoạch này cần phải được ban hành sau khi Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân cấp quốc gia. Để tạo điều kiện cho công tác soạn thảo bản kế hoạch có chất lượng, Hội đồng kiến nghị:

- Bộ Quốc phòng hỗ trợ và tạo điều kiện về kinh phí cho công tác soạn thảo cũng như cho công tác tham quan khảo sát nước ngoài vì đây là lĩnh vực hoàn toàn mới đối với Việt Nam.

- Ủy ban tìm kiếm cứu nạn quốc gia phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát tính thống nhất của bản kế hoạch này với các nội dung của Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ, hạt nhân quốc gia sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

95

- Cục ATBXHN hỗ trợ các thông tin, tài liệu liên quan, đặc biệt các tài liệu hướng dẫn của IAEA.

Về đề án nâng cao năng lực và thẩm quyền cho Cơ quan pháp quy hạt

nhân quốc gia

Hội đồng thống nhất về sự cần thiết phải đầu tư nâng cao năng lực và thẩm quyền cho Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia để thực hiện nhiệm vụ quản lý an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân đối với dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận. Để từng bước thực hiện được yêu cầu này, Hội đồng kiến nghị:

- Bộ Nội vụ sớm phê duyệt Đề án vị trí việc làm cho Cục ATBXHN và tạo điều kiện để bổ sung nhân lực cho Cục ATBXHN hàng năm, bắt đầu từ năm 2016, đáp ứng như cầu phục vụ dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận.Bộ KH&CN tạo điều kiện đầu tư về ngắn hạn và trung hạn cho Cục ATBXHN và chuẩn bị đề án phát triển Cơ quan pháp quy nhân trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

- Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm phê duyệt chủ trương cho phép đưa dự án ODA đầu tư tăng cường năng lực kỹ thuật cho Cơ quan pháp quy hạt nhân của Việt Nam vào danh mục vận động tài trợ năm 2015 của Việt Nam đối với Nhật Bản.

Về Kế hoạch hoạt động năm 2016 của Hội đồng

Hội đồng cơ bản đồng ý với Kế hoạch công tác năm 2016 của Hội đồng do Cơ quan thường trực chuẩn bị. Qua thảo luận, Hội đồng yêu cầu Cơ quan thường trực hoàn thiện bản Kế hoạch trên cơ sở ý kiến góp ý của Chủ đầu tư liên quan đến báo cáo hoạt động khảo sát địa điểm lập thiết kế kỹ thuật sẽ được thực hiện trong phiên họp thứ 10 thay cho báo cáo tại phiên họp thứ 9.

Về kiến nghị của Cơ quan thường trực về xây dựng kho lưu giữ nguồn

phóng xạ đã qua sử dụng của quốc gia

Đây đang là vấn đề tồn tại của quốc gia, dẫn đến không thực hiện được quy định của Thông tư 22/2014/TT-BKHCN về quản lý nguồn phóng xạ đã qua sử dụng. Trên cơ sở đề xuất của Cục ATBXHN và Bộ Tư lệnh Hóa học, Hội đồng đồng ý chủ trương giao cho Bộ Tư lệnh Hóa học thực hiện nhiệm vụ cải tạo, nâng cấp các cơ sở lưu giữ nguồn phóng xạ đã qua sử dụng của Bộ Tư lệnh hóa học để phục vụ nhu cầu của quốc gia. Để thực hiện chủ trương này, Hội đồng kiến nghị Bộ KH&CN có văn bản đề nghị Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ trên cho Bộ Tư lệnh hóa học. Đồng thời, kiến nghị Bộ KH&CN chỉ đạo Cục ATBXHN phối hợp với Bộ Tư lệnh hóa thực tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ trên trong thời gian sớm nhất và báo cáo kết quả thực hiện cho Hội đồng trong phiên họp lần thứ 9.

Về kiến nghị của Cơ quan thường trực về việc giao nhiệm vụ nghiên cứu

các bài học kinh nghiệm của tại nạn Fukushima cho các Bộ, ngành liên quan

Trên cơ sở chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 8550/VPCP-HTQT ngày 20 tháng 10 năm 2015, Cơ quan thường trực của Hội đồng đã kiến nghị Hội đồng yêu cầu các Bộ, ngành liên quan phân công tổ chức nghiên cứu

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

96

và có báo cáo tại các phiên họp năm 2016 của Hội đồng để Hội đồng kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các cơ chế, chính sách và giải pháp liên quan đến bảo đảm an toàn trong triển khai thực hiện dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Ngoài các Bộ, ngành được giao trong văn bản số 8550/VPCP-HTQT nêu trên, Hội đồng kiến nghị giao thêm cho Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu các báo cáo tổng kết các bài học kinh nghiệm của tai nạn Fukushima của IAEA.

17.1.2. Công tác khảo sát, tham quan tại nước ngoài

Đoàn công tác của Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia (ATHNQG) đi Viên, Cộng hòa Áo từ ngày 26 đến 31/01/2015. Mục đích của Đoàn công tác là nhằm tham vấn các chuyên gia IAEA về Sổ tay Luật hạt nhân (Handbook on Nuclear Law, năm 2010); Thảo luận các bất cập trong Luật NLNT và các vấn đề quan trọng phục vụ triển khai dự án điện hạt nhân.

17.1.3. Hội thảo khoa học quốc gia của các đề tài nghiên cứu độc lập cấp nhà nước về địa điểm xây dựng NMĐHN Ninh Thuận

Trong thời gian 19-20/3/2015 tại trụ sở Bộ KHCN, Cục ATBXHN đã phối hợp với Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia (NAFOSTED) tổ chức “Hội thảo Khoa học quốc gia báo cáo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia Việt Nam về địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2” trong khuôn khổ hoạt động của Hội đồng ATHNQG.

Hội thảo đã nghe các báo cáo kết quả thực hiện 3 đề tài độc lập cấp Nhà nước được triển khai trong giai đoạn 2012-2014, bao gồm:

• Đề tài “Đánh giá Gradient chuyển dịch kiến tạo trong Pleistocen muộn và hiện đại khu vực dự kiến xây dựng NMĐHN Ninh Thuận” do GS.TS. Phan Trọng Trịnh, Viện địa chất, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam làm chủ nhiệm;

• Đề tài “Nghiên cứu đánh giá đứt gãy hoạt động phục vụ công tác phê duyệt địa điểm dự kiến xây dựng các NMĐHN ở Ninh Thuận” do TS. Vũ Văn Chinh, Viện địa chất, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam làm chủ nhiệm;

• Đề tài “Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động đất và sóng thần tại khu vực Ninh Thuận và lân cận phục vụ công tác thẩm định địa điểm xây dựng NMĐHN” do PGS.TS Nguyễn Hồng Phương, Viện Vật lý địa cầu, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam làm chủ nhiệm.

17.2. Hoạt động của Tiểu ban An toàn và an ninh hạt nhân năm 2015

Tiểu ban An toàn và an ninh hạt nhân đã tư vấn giúp và giúp Ban chỉ đạo Nhà nước trong các hoạt động chuyên môn liên quan đến việc bảo đảm an toàn dự án điện hạt nhân và xây dựng chính sách về an toàn, an ninh.

Các Phiên họp của Tiểu ban An toàn và an ninh hạt nhân

Phiên họp lần thứ 4 của Tiểu ban ATANHN tổ chức ngày 23/07/2015 tại Hà Nội. Tiểu ban đã cho ý kiến và thảo luận về các nội dung sau: tình hình triển

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

97

khai công tác chuẩn bị và tổ chức thẩm định Báo cáo PTAT và Báo cáo ĐTM của dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1; Kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng an ninh hạt nhân; Kế hoạch triển khai thực hiện các khuyến cáo của Đoàn đánh giá pháp quy tích hợp IRRS-2014 của IAEA; Tình hình triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu DBT phục vụ dự án điện hạt nhân Ninh Thuận của Bộ Công an; Báo cáo khảo sát bổ sung địa điểm nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2 và kế hoạch khảo sát địa điểm phục vụ lập thiết kế kỹ thuật dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1; tình hình xây dựng và thẩm định chấp thuận áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn phục vụ triển khai Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận; Tình hình triển khai xây dựng Mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường; Công tác quan trắc tiếp tục đối với phóng xạ môi trường, khí tượng, thủy văn, hải văn của Chủ đầu tư; kết quả thanh tra an toàn đối với công tác khảo sát địa điểm của nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.

Trên cơ sở các báo cáo được trình bày tại Phiên họp, ý kiến thảo luận của các thành viên Tiểu ban, Trưởng Tiểu ban đã thông qua các kết luận chính của Phiên họp lần thứ 4 như sau:

- Về kế hoạch triển khai thực hiện các khuyến cáo của Đoàn đánh giá pháp quy tích hợp IRRS-2014 của IAEA và phát triển cơ sở hạ tầng an ninh hạt nhân: Hiện nay, IAEA đang giúp Việt Nam đánh giá công tác chuẩn bị các loại hạ tầng cho Dự án điện hạt nhân đầu tiên, vì vậy, có thể có các nội dung chồng chéo. Cục ATBXHN cần chủ động tổ chức các cuộc họp chuyên đề với các cơ quan liên quan để xây dựng “Kế hoạch phát triển cơ sơ hạ tầng an ninh hạt nhân” trên cơ sở xem xét các khuyến cáo của Đoàn đánh giá pháp quy tích hợp IRRS-2014 của IAEA và các kế hoạch về hạ tầng cho dự án điện hạt nhân đã được phê duyệt, tránh sự chồng chéo, trùng lặp.

- Về tình hình triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu DBT phục vụ dự án điện hạt nhân Ninh Thuận của Bộ Công an: Cần lưu ý, an ninh hạt nhân là vấn đề bí mật của từng quốc gia, nên không thể đề nghị các đối tác Nga và Nhật đưa thành một nội dung trong Hồ sơ Dự án điện hạt nhân. Vì vậy, Bộ Công an, Tập đoàn điện lực Việt Nam cần phối hợp với các cơ quan chức năng để xây dựng Cơ sở dữ liệu này (có tham khảo hướng dẫn của IAEA và kinh nghiệm của nước ngoài).

- Về vấn đề thẩm định chấp thuận áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn phục vụ triển khai Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận (theo quy định tại Thông tư 21): Về các ý kiến của EVN liên quan đến các một số vướng mắc trong quá trình thực hiện Thông tư số 21/2013/TT-BKHCN quy định việc áp dụng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật về an toàn hạt nhân trong lựa chọn địa điểm, thiết kế, xây dựng, vận hành và tháo dỡ tổ máy điện hạt nhân do Tập đoàn EVN kiến nghị:, giao Cục ATBXHN tổ chức họp, thảo luận với EVN để xem xét từng vấn đề bất cập cụ thể và thống nhất đề xuất phương án xử lý trình Lãnh đạo Bộ KH&CN quyết định. Tuy nhiên, cần quán triệt nguyên tắc giải pháp xử lý vướng mắc phải không làm ảnh hưởng đến mục tiêu bảo đảm an toàn của Dự án.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

98

Phiên họp lần thứ 5 của Tiểu ban An toàn và an ninh hạt nhân (Tiểu ban) được tổ chức vào ngày 19 tháng 11 năm 2015 tại Hà Nội. Các báo cáo được trình bày tại cuộc họp tập trung chủ yếu vào các vấn đề Kế hoạch triển khai việc hoàn thiện các cơ sở hạ tầng an ninh hạt nhân theo khuyến cáo của IAEA (INSP-2014) phục vụ Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận; Kế hoạch triển khai việc hoàn thiện các cơ sở hạ tầng an toàn hạt nhân theo khuyến cáo của IAEA (IRRS-2014) phục vụ Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận; Kế hoạch triển khai xây dựng Mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường; Báo cáo về hoạt động thanh tra an toàn dự án điện hạt nhân theo hướng dẫn của IAEA và đề xuất cho Việt Nam; Báo cáo hiện trạng, kế hoạch tuyển dụng, đào tạo (cán bộ quản lý, chuyên gia chủ chốt và nhân viên kỹ thuật) của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) phục vụ cho việc triển khai Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận; Báo cáo tình hình triển khai thực hiện quyết định số 450/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Triển khai các biện pháp bảo đảm an ninh trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử”;

Trên cơ sở các báo cáo được trình bày tại Phiên họp, ý kiến thảo luận của các thành viên Tiểu ban, Trưởng Tiểu ban đã thông qua các kết luận chính của Phiên họp lần thứ 5 như sau:

Về hoàn thiện cơ sở hạ tầng an ninh hạt nhân phục vụ dự án điện hạt nhân

Ninh Thuận

- Yêu cầu Cơ quan thường trực xây dựng báo cáo về việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng an ninh hạt nhân phục vụ dự án điện hạt nhân Ninh Thuận gửi Ban chỉ đạo Nhà nước, trong đó tách thành 02 nhóm chủ đề tương ứng với (1) Nội dung liên quan đến an ninh nguồn phóng xạ; (2) Các nội dung về an ninh vật liệu hạt nhân và cơ sở hạt nhân trực tiếp phục vụ dự án điện hạt nhân .

- Căn cứ trên Kế hoạch hỗ trợ an ninh hạt nhân tích hợp của IAEA (INSP-2014) và tài liệu hướng dẫn về cơ sở hạ tầng an ninh hạt nhân của IAEA (NSS-19), đồng thời căn cứ hiện trạng của Việt Nam, Báo cáo cần làm rõ những nội dung nào về cơ sở hạ tầng an ninh hạt nhân đã hoàn thiện, đang triển khai hoặc chưa triển khai để đưa ra kiến nghị cụ thể, gắn với các nhiệm vụ đang triển khai trong đề xuất Khung văn bản quy phạm pháp luật điện hạt nhân sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng theo Quyết định số 2241/QĐ-TTg ngày 11/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ và các đề án, dự án cấp Bộ khác đang triển khai.

- Về các mốc trong dự án điện hạt nhân cần thống nhất với EVN để xác định điểm mốc số 2 và điểm mốc số 3 từ đó đưa ra lộ trình triển khai cho từng nội dung của cơ sở hạ tầng an ninh hạt nhân thích hợp.

- Báo cáo kèm theo các đề xuất, kiến nghị cụ thể với Ban chỉ đạo và các Bộ ngành liên quan để triển khai thực hiện việc hoàn thiện các cơ sở hạ tầng an ninh hạt nhân phù hợp với lộ trình triển khai Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận cần được hoàn thiện thống nhất với các Bộ, ngành có liên quan và trình Trưởng Tiểu ban trước 20/12/2015.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

99

Về hoàn thiện cơ sở hạ tầng an toàn hạt nhân phục vụ dự án điện hạt

nhân Ninh Thuận

- Yêu cầu Cơ quan thường trực xây dựng báo cáo cho Ban chỉ đạo về vấn đề này, căn cứ trên báo cáo của Đoàn đánh giá pháp quy tích hợp của IAEA (IRRS-2014) và tài liệu hướng dẫn về cơ sở hạ tầng an toàn hạt nhân của IAEA (SSG-16) và căn cứ hiện trạng của Việt Nam, Báo cáo cần làm rõ các nội dung nào về cơ sở hạ tầng an toàn hạt nhân đã hoàn thiện, đang triển khai hoặc chưa triển khai để đưa ra kiến nghị cụ thể, gắn với các nhiệm vụ đang triển khai trong đề xuất Danh mục văn bản quy phạm pháp luật điện hạt nhân sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng theo quyết định số 2241 và các đề án, dự án cấp Bộ khác đang triển khai.

- Về các mốc trong dự án điện hạt nhân cần thống nhất với EVN để xác định điểm mốc số 2 và điểm mốc số 3, từ đó đưa ra lộ trình triển khai cho từng nội dung của cơ sở hạ tầng an toàn hạt nhân thích hợp.

- Báo cáo kèm theo các đề xuất, kiến nghị cụ thể với Ban chỉ đạo và các Bộ, ngành liên quan để triển khai thực hiện việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng an toàn hạt nhân phù hợp với lộ trình triển khai của Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận cần được hoàn thiện, thống nhất với các Bộ, ngành có liên quan và trình Trưởng Tiểu ban trước 20/12/2015.

Về triển khai thực hiện mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi

trường quốc gia

- Cơ quan chủ trì thực hiện dự án đầu tư xây dựng Mạng lưới cần làm việc với các cơ quan quản lý đầu tư xây dựng của Bộ KH&CN để làm rõ cơ sở pháp lý của việc đầu tư dự án ODA. Đối với đầu tư trong nước cần lập kế hoạch cụ thể, phân kỳ đầu tư theo các nội dung cấp bách, có tính ưu tiên cao.

- Cơ quan chủ trì thực hiện dự án đầu tư xây dựng Mạng lưới cần hoàn thiện đầy đủ các cơ sở pháp lý đã được Bộ KH&CN giao chuẩn bị và ban hành.

- Đây là một nhiệm vụ cần thiết đã được Thủ tướng Chính phủ giao. Tuy nhiên để triển khai thực hiện trong điều kiện Chính phủ đang thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, đề nghị Cơ quan chủ trì thực hiện dự án trình Bộ KH&CN nhiệm vụ này như một loại hình dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt làm căn cứ cho việc đầu tư và thu xếp tài chính bảo đảm hoạt động của Mạng lưới.

- Đối với các Trạm địa phương, đề nghị Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) soạn thảo công văn để Bộ hướng dẫn các địa phương trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt loại hình dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước đối với việc đầu tư và duy trình hoạt động của các Trạm địa phương.

Về triển khai xây dựng Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật ứng phó sự cố

tỉnh Quảng Ninh

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

100

- Đây là dự án có nhu cầu cấp bách cần sớm triển khai để sẵn sàng ứng phó sự cố đối với các nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc.

- Đề nghị Cục ATBXHN báo cáo Bộ trưởng để giao cho địa phương làm chủ đầu tư Dự án Xây dựng Trung tâm và Cục ATBXHN sẽ hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho Trung tâm.

- Chi phí cho nguồn nhân lực và duy trì hoạt động của Trung tâm được Nhà nước cấp như một loại hình dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước.

Về công tác thanh tra an toàn dự án điện hạt nhân

- Đề nghị Cục ATBXHN hoàn thiện các thông tư hướng dẫn hoạt động thanh tra trong các giai đoạn còn lại của dự án điện hạt nhân bao gồm thiết kế, chế tạo, xây dựng, vận hành, tháo dỡ nhà máy theo hướng dẫn của IAEA và phù hợp với lộ trình sửa đổi Luật Năng lượng nguyên tử (NLNT) cũng như dự thảo Khung văn bản pháp luật về điện hạt nhân mà Bộ KH&CN sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong năm 2015.

- Về nhân lực thanh tra và các phương tiện, thiết bị hỗ trợ công tác thanh tra, đề nghị Cục ATBXHN lồng ghép vào các dự án đầu tư và đề án đào tạo nguồn nhân lực để bảo đảm thực hiện được nhiệm vụ thanh tra của Cục đối với Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận.

Về công tác đào tạo, chuẩn bị nguồn nhân lực của EVN cho việc triển khai

dự án điện hạt nhân Ninh Thuận

- Hiện tại EVN đang triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ này trên cơ sở đề án riêng về đào tạo nguồn nhân lực cho chủ đầu tư nhà máy điện hạt nhân đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

- Do tiến độ triển khai Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận bị chậm so với kế hoạch ban đầu, nên Tiểu ban lưu ý việc sử dụng các sinh viên đã được đào tạo để bảo đảm duy trì được đội ngũ, tránh bị “mất người” do không có công việc cụ thể cho các sinh viên mới tốt nghiệp.

Về tình hình triển khai đề án 450 về các biện pháp bảo đảm an ninh hạt

nhân của Bộ Công an

- Bộ Công an đã và đang tích cực triển khai các nội dung của đề án 450.

- Tiểu ban đồng ý với các kiến nghị của Bộ Công an và sẽ yêu cầu Ban chỉ đạo Nhà nước có ý kiến để các Bộ, ngành liên quan tạo điều kiện để hỗ trợ Bộ Công an hoàn thành nhiệm vụ được giao, bao gồm xây dựng văn bản quy phạm, đào tạo nhân lực, hợp tác và học tập kinh nghiệm quốc tế, phối hợp xây dựng Báo cáo DBT và đưa nhiệm vụ xây dựng Nghị định về phân công trách nhiệm các Bộ, ngành về an ninh hạt nhân vào trong dự án Luật NLNT sửa đổi để có cơ sở triển khai thực hiện.

17.3. Kết luận

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

101

Hội đồng ATHNQG và Tiểu ban ATANHN đã hoàn thành chương trình công tác nam 2015, đóng góp hiệu quả cho công tác chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng Chính Phủ và Ban chỉ đạo Nhà nước Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận đạt được hiệu quả tốt, kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong công tác quản lý Nhà nước về ATBXHN và trong quản lý triển khai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Hoạt động của Hội đồng và Tiểu ban được lãnh đạo Bộ KH&CN đánh giá cao và được đề nghị xếp vào sự kiện và kết quả nổi bật trong hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực an toàn bức xạ và hạt nhân.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

102

XVIII. CÁC SỰ CỐ BỨC XẠ NĂM 2015 VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

18.1. Các sự cố bức xạ năm 2015

18.1.1. Sự cố mất nguồn phóng xạ tại Nhà máy sản xuất thép Pomina 3 tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

Sau khi nhận được thông tin về sự việc mất nguồn phóng xạ Co-60 trên dây chuyền sản xuất thép của Nhà máy thép Pomina 3(địa chỉ: Khu công Nghiệp Phú Mỹ, Huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), ngày 06/4/2015, Đoàn thanh tra Cục ATBXHN phối hợp với Thanh tra Bộ KHCN, Sở KHCN tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, tiến hành thanh tra toàn diện Nhà máy thép Pomina 3. Ngoài việc thanh tra làm rõ trách nhiệm, các vi phạm của nhà máy dẫn đến việc mất nguồn phóng xạ, Đoàn thanh tra còn đốc thúc cơ sở tiến hành các biện pháp rà soát tìm kiếm tích cực nguồn phóng xạ trong phạm vi nhà máy, việc tìm kiếm này cũng được Đoàn tiến hành giám sát đôn đốc trực tiếp trong thời gian tiến hành thanh tra.

Qua quá trình thanh tra, Đoàn thanh tra đã làm rõ một số điểm chính như sau:

Sự việc mất nguồn phóng xạ trên dây chuyền đúc của Nhà máy đã diễn ra từ tháng 11/2014 nhưng Lãnh đạo Nhà máy không nắm được tình hình, không triển khai các biện pháp tìm kiếm và thu hồi nguồn kịp thời, đến tận ngày 01/4/2015, Nhà máy mới có công văn số 2-PO3/215030 trình báo thất lạc nguồn phóng xạ gửi Công an Đồn các Khu công nghiệp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Sở KHCN tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tiếp đó đến ngày 06/4/2015 Cục ATBXHN mới nhận được Công văn số 01/BC-PO3/15005 của Nhà máy báo cáo sự việc mất nguồn phóng xạ. Ngoài việc làm mất nguồn phóng xạ, chậm trễ trong việc báo cáo cho các cơ quan chức năng về sự việc mất nguồn dẫn đến khó khăn cho công tác tìm kiếm nguồn sau này, Nhà máy còn có các hành vi chấp hành chưa tốt các quy định về đảm bảo an toàn an ninh nguồn phóng xạ được quy định tại Luật Năng lượng nguyên tử cà các văn bản có liên quan như:

- Không áp dụng ngay các biện pháp cần thiết để thu hồi nguồn phóng xạ bị thất lạc;

- Lưu giữ 01 nguồn phóng xạ mà chưa có giấy phép, vi phạm quy định về giấy phép tiến hành công việc bức xạ;

- Tự ý tháo dỡ nguồn phóng xạ từ dây chuyền sản xuất đưa vào kho mà không thông báo cho Cục An toàn bức xạ và hạt nhân biết, làm thay đổi thực trạng nguồn phóng xạ so với hồ sơ đề nghị cấp giấy phép, vi phạm quy định về điều kiện ghi trong giấy phép tiến hành công việc bức xạ;

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

103

- Bố trí các nhân viên không có chứng chỉ nhân viên bức xạ làm các nhiệm vụ của Người phụ trách an toàn.

Căn cứ vào các hành vi vi phạm được thiết lập tại biên bản vi phạm hành chính của Đoàn thanh tra, Cục trưởng Cục ATBXHN đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nhà máy với tổng số tiền là 93 triệu đồng và tước quyền sử dụng giấy phép tiến hành công việc bức xạ số 301/GP-ATBXHN do Cục ATBXHN cấp ngày 02/8/2012 trong thời hạn 01 tháng.

Sự cố mất nguồn phóng xạ tại Nhà máy thép Pomina 3 cho thấy hệ thống quản lý ATBX tại các doanh nghiệp vẫn còn kẽ hở, ý thức trách nhiệm về bảo đảm an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ của nhiều cơ sở, cá nhân tiến hành công việc bức xạ còn thấp, quy trình quản lý nguồn phóng xạ bị buông lỏng, vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến sự cố mất nguồn phóng xạ nếu cơ quan quản lý không có những biện pháp quyết liệt, phù hợp.

18.1.2. Sự cố mất nguồn phóng xạ tại Công ty cổ phần xi măng Bắc Kạn DATC.

Vụ việc mất nguồn phóng xạ Cs-137 thuộc dây chuyền xả clinke của Công ty cổ phần xi măng Bắc Kạn DATC được phát hiện vào ngày 15/12/2015 sau khi Giám đốc Công ty đến trình báo tại Sở KHCN Bắc Kạn. Nguồn phóng xạ trên đã được Cục ATBXHN cấp giấy phép sử dụng cho Công ty năm 2010, thời điểm phát hiện bị mất nguồn phóng xạ trong bối cảnh toàn bộ tài sản của Công ty đã bị Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn tiến hành kê biên theo Quyết định của toàn án và giao cho Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Kạn quản lý từ ngày 31/3/2015.

Ngày 28/01/2016 Bộ Khoa học và Công nghệ đã cử Đoàn công tác của Cục ATBXHN làm việc với UBND tỉnh Bắc Kạn để nắm bắt tình hình sự việc cũng như bàn bạc các hướng xử lý trách nhiệm của các bên liên quan đến sự việc mất nguồn phóng xạ. Căn cứ trên kết quả buổi làm việc ngày 28/01/2016, ngày 22/02/2016 Cục trưởng Cục ATBXHN đã ra các Quyết định tiến hành thanh tra đối với Công ty cổ phần xi măng Bắc Kạn DATC và Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Bắc Kạn để làm rõ trách nhiệm cũng như các vi phạm của các bên liên quan. Đối với Công ty cổ phần xi măng Bắc Kạn DTC, đơn vị phải chịu trách nhiệm đối với việc lưu giữ nguồn phóng xạ không có giấy phép, không báo cáo định kỳ hàng năm thực trạng tiến hành công việc bức xạ cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, trong khi đó Ngân hàng thương mại Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh chịu trách nhiệm về việc làm mất nguồn phóng xạ. Tất cả các hành vi trên đã được Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân ra Quyết định xử lý vi phạm hành

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

104

chính theo các điều khoản hướng dẫn tại Nghị định số 107/2013/NĐ-CP ngày 20/9/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Qua quá trình làm việc một số vấn đề được rút ra như sau:

Cũng giống như các vụ việc mất nguồn đã xảy ra từ trước đến nay, nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng mất nguồn phóng xạ vẫn xuất phát từ việc chấp hành không nghiêm túc các quy định của Pháp luật về an toàn bức xạ đặc biệt là công tác lưu giữ nguồn phóng xạ, ý thức chủ quan và buông lỏng trong việc đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ. Bên cạnh đó sự đùn đẩy trách nhiệm của các bên liên quan trong việc quản lý nguồn phóng xạ sau khi doanh nghiệp bị kê biên tài sản cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới nguồn phóng xạ bị buông lỏng quản lý và dẫn đến mất nguồn.

Sự yếu kém trong công tác sản xuất kinh doanh của Hội đồng quản trị và các cổ đông dẫn tới doanh nghiệp không có một bộ máy quản lý điều hành hiệu quả từ đó kéo theo công tác đảm bảo an toàn an ninh cho nguồn phóng xạ không được quan tâm.

Việc sử dụng dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng hiện nay đã lỗi thời và hầu như không còn được các công ty sản xuất xi măng sử dụng, điều này dẫn đến nguy cơ tiềm ẩn đối với việc mất nguồn phóng xạ như ở Công ty cổ phần xi măng Bắc Kạn là khá lớn. Để tránh tình trạng này tái diễn cần chú trọng vào việc thống kê chính xác số lượng các nhà máy xi măng lò đứng trên cả nước, trên cơ sở đó có công văn nhắc nhở các cơ sở này chấp hành nghiêm túc các quy định đảm bảo an toàn an ninh các nguồn phóng xạ, không tự ý di dời các nguồn phóng xạ khỏi dây chuyền sản xuất, tiến hành thanh lý mua bán các nguồn mà không có sự báo cáo cáo xin ý kiến tới các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, hạt nhân (Cục ATBXHN, Sở KHCN địa phương). Các Sở KHCN cần ưu tiên quan tâm triển khai công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên đối với các cơ sở có dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng sử dụng nguồn phóng xạ trên địa bàn địa phương, nhắc nhở các cơ sở chấp hành tốt việc đảm bảo an ninh cho nguồn phóng xạ, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.

18.1.3. Vụ việc chuyển giao nguồn phóng xạ tiềm ẩn nguy cơ mất an ninh nguồn phóng xạ tại Công ty cổ phần tập đoàn Tân Mai.

Sau khi nhận được công văn số 953/SKHCN-QLC ngày 22/7/2015 của Sở KHCN Đồng Nai về việc phối hợp công tác quản lý an toàn, an ninh nguồn phóng xạ với thông báo việc Công ty Cổ phần tập đoàn Tân Mai (Công ty Tân Mai) đã chuyển giao một số nguồn phóng xạ Kr-85 cho một số đơn vị tiểm ẩn nguy cơ mất kiểm soát và mất an ninh đối với nguồn phóng xạ, tháng 11/2015 Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra đột xuất đối với 02 đơn vị phía bắc có tiếp nhận thiết bị từ Công ty Tân Mai (Công ty Cổ phần Giấy Hoàng Văn Thụ và Công ty CPTM

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

105

Nguyên Việt) để xác minh tình trạng các nguồn phóng xạ mà các Công ty này đã tiếp nhận của Công ty Tân Mai.

Trong quá trình thanh tra Đoàn thanh tra đã xác nhận một số thông tin như sau:

Công ty Tân Mai là đơn vị sử dụng các dây chuyền sản xuất chứa nguồn phóng xạ đã được Cục ATBXHN cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ, Công ty thực hiện việc bán lại dây chuyền sản xuất có chứa nguồn phóng xạ cho các cơ sở khác (bán cho Công ty CP giấy Hoàng Văn Thụ 02 nguồn Kr-85 sử dụng trong dây chuyền sản xuất giấy; bán cho Công ty CPTM Nguyên Việt 02 dây chuyền, trong đó một dây chuyền có chứa 01 nguồn Kr-85 từ năm 2014) nhưng không có báo cáo và được sự cho phép của Cục ATBXHN. Tiếp theo Công ty Tân Mai lại bán dây chuyền có chứa nguồn phóng xạ cho Công ty CPTM Nguyên Việt, Công ty Tân Mai không thông báo cho Công ty CPTM Nguyên Việt trong dây chuyền có chứa nguồn phóng xạ, dẫn đến nguồn phóng xạ được coi là hàng hóa thông thường và bị mua đi bán lại qua một số cơ sở khác mà không hề có sự thông báo tới Cục ATBXHN. Sau rất nhiều nỗ lực liên hệ với Công ty Tân Mai, tiến hành thanh tra Công ty Nguyên Việt, thanh tra Công ty Việt Đức Anh, Đoàn thanh tra của Cục ATBXHN đã xác định được nguồn phóng xạ hiện đang do Công ty Việt Đức Anh có trụ sở tại tỉnh Bắc Ninh quản lý. Ngày 19/01/2016, Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra đột xuất đối với Công ty CP Giấy Việt Đức Anh để xác định tình trạng nguồn phóng xạ, trong quá trình kiểm tra thực tế Đoàn thanh tra đã phát hiện số hiệu nhận dạng của khối chứa nguồn phóng xạ bên trong không trùng khớp với số hiệu nhận dạng trên thân máy và cũng không trùng khớp với số hiệu nhận dạng mà Công ty Tân Mai khai báo đã bán cho công ty Nguyên Việt trước đó. Nguyên nhân của sự việc này được Công ty Tân Mai giải trình là do trong quá trình sử dụng các dây chuyền khi hỏng hóc, Công ty Tân Mai đã tự ý tháo lắp và sửa chữa, bảo dưỡng dây chuyền nên đã tháo dỡ và lắp nhầm khối chứa nguồn nguồn phóng xạ của các dây chuyền với nhau (tức là nguồn thuộc dây chuyên này lại lắp vào dây chuyền kia ) mà không có sự báo cáo và cho phép của Cục ATBHN. Đây cũng lại là một trong những hành vi không tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn bức xạ của Công ty Tân Mai.

Như vậy, việc quản lý, chuyển giao các nguồn phóng xạ của Công ty Tân Mai là khá phức tạp và có nhiều vấn đề bất cập trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật. Công ty không thực hiện các trách nhiệm của mình khi chuyển giao nguồn phóng xạ cho các đơn vị khác, không thông báo và nhắc nhở các đơn vị tiếp nhận nguồn phóng xạ về việc xin cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ. Các hành vi này chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc thất lạc nguồn phóng xạ như đã nêu trên. Nếu Cục ATBXHN không tiến hành thanh tra đối với Công ty

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

106

Nguyên Việt thì tình trạng các nguồn phóng xạ của Công ty Tân Mai đến nay vẫn chưa được làm rõ và tiềm ẩn rất lớn nguy cơ mất nguồn phóng xạ.

Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra và xử lý vi phạm đối với Công ty Tân Mai về hành vi không báo cáo với Cục ATBXHN khi chuyển nhượng nguồn phóng xạ cho tổ chức, cá nhân khác. Hành vi vi phạm bị xử phạt theo quy định tại Khoản 1, Điều 7 Nghị định số 107/NĐ-CP ngày 20/9/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Đây cũng là một trường hợp cần được nhắn nhở và xử lý triệt để nhằm chấn chỉnh nghiêm khắc các hành vi sai phạm của đơn vị. Qua vụ việc của Công ty Tân Mai các cơ quan quản lý liên quan từ trung ương đến địa phương (UBND tỉnh, Sở KHCN) cần đẩy mạnh thông tin tuyên truyền rộng rãi và cùng nhau phối hợp quản lý chặt chẽ các đơn vị sử dụng nguồn phóng xạ trên từng địa phương để tránh trường hợp xảy ra như của Công ty Tân Mai dễ dẫn đến việc thất lạc nguồn phóng xạ đặc biệt là các đơn vị đang gặp phải khó khăn kinh tế, bộ máy quản lý không ổn định, lỏng lẻo, công tác bảo đảm an toàn bức xạ, an ninh nguồn phóng xạ không được quan tâm, thực chất là bỏ ngỏ.

18.2. Kế hoạch tăng cường công tác bảo đảm an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ

Qua các đợt thanh tra đối với các trường hợp mất an ninh nguồn phóng xạ trong năm 2015 (Nhà máy thép Pomina 3, Công ty cổ phần xi măng Bắc Kạn DATC và Công ty cổ phần tập Đoàn Tân Mai) cho thấy cần thực hiện tốt một số giải pháp sau nhằm tăng cường công tác đảm bảo an toàn an ninh đối với các nguồn phóng xạ:

a. Tăng cường công tác quản lý

Tăng cường phối hợp giữa các Bộ, ngành có liên quan, UBND các tỉnh, thành phố trong việc triển khai, thực hiện Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 10/7/2015.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở có nguồn phóng xạ: hằng năm tổ chức thanh tra, kiểm tra bảo đảm đủ tần suất thanh, kiểm tra đối với các đơn vị này; khi tiến hành thanh tra, kiểm tra cần phải có nội dung về an ninh nguồn phóng xạ, trong đó các đoàn thanh, kiểm tra phải xác minh được sự tồn tại của nguồn phóng xạ.

Xây dựng hoàn thiện và thường xuyên cập nhật hệ thống kiểm soát nguồn phóng xạ, bảo đảm có đầy đủ thông tin về nguồn phóng xạ, có thể truy cập và truy xuất được thông tin một cách chính xác, nhanh chóng, hiệu quả theo phân cấp, thẩm quyền quản lý của Cục ATBXHN và các Sở KHCN.

Cần xây dựng và ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết cho Điều 8 Nghị định số 07/2010/NĐ-CP về kinh phí bảo đảm việc phát hiện, tìm kiếm, xử lý và lưu giữ nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân và thiết bị hạt nhân nằm ngoài sự

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

107

kiểm soát, trong đó có chế tài bắt buộc đối với tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu nguồn phóng xạ bị thất lạc phải hoàn trả toàn bộ chi phí cho việc tìm kiếm, xử lý và lưu giữ nguồn phóng xạ.

b. Tăng cường năng lực của cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ

Tăng cường năng lực cho Cục ATBXHN và các Sở KHCN địa phương để thực hiện tốt chức năng quản lý an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ, bảo đảm nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị cho hoạt động thanh tra và quản lý, chú trọng công tác đào tạo cán bộ. Đối với cán bộ Sở cần bổ sung kiến thức kỹ thuật về nguồn phóng xạ, năng lực kiểm tra xác minh sự tồn tại của nguồn phóng xạ trong các loại thiết bị khác nhau. Đối với cán bộ Thanh tra Cục ATBXHN cần bổ sung các kỹ năng thanh tra, năng lực phân tích, xử lý các tình huống pháp luật khác nhau.

c. Tăng cường công tác tuyên truyền

Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền để các đơn vị sử dụng thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ nắm được và thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về an toàn bức xạ, an ninh nguồn phóng xạ. Xây dựng văn hóa an toàn, an ninh nguồn phóng xạ tại các cơ sở, quán triệt, quan tâm thông suốt từ lãnh đạo đơn vị đến nhân viên quản lý vận hành trong công tác bảo đảm an toàn bức xạ, an ninh nguồn phóng xạ tại các cơ sở.

Đồng thời, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để nâng cao ý thức người dân có hiểu biết về bức xạ ion hóa, nguồn phóng xạ nhận biết được dấu hiệu cảnh báo của các nguồn phóng xạ, giúp phát hiện các nguồn phóng xạ và tránh được các nguy cơ rủi ro do thiếu hiểu biết.

Cục ATBXHN và các Sở KHCN địa phương cần thường xuyên tổ chức hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật, tuyên truyền, đào tạo, nâng cao nhận thức về bảo đảm an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ cho các tổ chức, cá nhân có nguồn phóng xạ. Yêu cầu các cơ sở sử dụng nguồn phóng xạ này phải gắn dấu hiệu cảnh báo bức xạ ion hóa theo quy định của Thông tư số 13/2015/TT-BKHCN ngày 21/7/2015 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 23/2010/TT-BKHCN, trong đó có ghi rõ hai hàng chữ “PHÓNG XẠ NGUY HIỂM CHẾT NGƯỜI”

d. Đối với các cơ sở sử dụng, lưu giữ nguồn phóng xạ

Nâng cao nhận thức trong lãnh đạo và nhân viên của cơ sở về trách nhiệm bảo đảm an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ, xây dựng văn hóa an toàn, an ninh, chú trọng nâng cao vai trò người phụ trách an toàn, để người phụ trách an toàn là chức danh có thực lực, thẩm quyền, tạo điều kiện để người phụ trách an toàn có thể tham mưu hiệu quả cho lãnh đạo và trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy việc triển khai thực hiện các mảng công tác về an toàn bức xạ, an ninh nguồn

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

108

phóng xạ tại cơ sở. Thực hiện thường xuyên và định kỳ công tác đào tạo nhân viên có công việc tiếp xúc với bức xạ, cử đi học các lớp tập huấn về an toàn bức xạ, an ninh nguồn phóng xạ. Mọi cán bộ của cơ sở từ nhân viên đến người lãnh đạo phải nhận thức và quán triệt trách nhiệm bảo đảm an toàn bức xạ, an ninh nguồn phóng xạ cao nhất trước tiên thuộc về cơ sở. Trách nhiệm này đã được quy định rất rõ trong Luật Năng lượng nguyên tử nhưng trên thực tế lãnh đạo các đơn vị thường xem nhẹ, chưa đặt tương xứng với yêu cầu của quy định Pháp luật hiện hành, nhất là so với mảng sản xuất, kinh doanh.

Thực hiện nghiêm túc Thông tư số 23/2010/TT-BKHCN ngày 29/12/2010 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ về hướng dẫn bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ và Thông tư số 13/2015/TT-BKHCN ngày 21/7/2015 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 23/2010/TT-BKHCN.

Tăng cường công tác an ninh, triển khai các hệ thống giám sát như trang bị máy ghi hình tại nơi sử dụng nguồn phóng xạ, trang bị hàng rào bảo vệ an ninh không cho người không có nhiệm vụ tiếp cận khu vực sử dụng hoặc lưu giữ nguồn phóng xạ.

Thực hiện nghiêm túc các yêu cầu trong Công văn số 776/ATBXHN-Ttra ngày 24/6/2015 về việc tăng cường công tác bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ, an toàn bức xạ tại các đơn vị sử dụng nguồn phóng xạ trong hệ các thiết bị đo, điều khiển tự động quá trình sản xuất. Cụ thể:

- Thường xuyên, định kỳ rà soát lại nội quy, quy trình vận hành, sửa chữa, bảo dưỡng để có đầy đủ các quy định bảo đảm an toàn, an ninh nguồn phóng xạ.

- Nghiêm cấm mọi hành vi tự tháo nguồn phóng xạ, di dời, thay đổi vị trí sử dụng thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ so với hồ sơ cấp phép đã trình Cục ATBXHN.

- Trong trường hợp phải tháo nguồn phóng xạ khỏi nơi sử dụng thì phải có phương án cụ thể do lãnh đạo đơn vị phê duyệt: nêu rõ người chịu trách nhiệm tổng thể hoạt động tháo dỡ, thời gian tháo dỡ, thời điểm kết thúc, các biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh. Đơn vị phải có công văn báo cáo Cục ATBXHN và chỉ triển khai khi được sự đồng ý của Cục ATBXHN; chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn, an ninh trong suốt thời gian tháo dỡ; có báo cáo bằng văn bản cho Cục ATBXHN và Sở KHCN địa phương sau khi kết thúc tháo dỡ.

- Trường hợp nguồn phóng xạ được lưu giữ tạm thời tại kho thì phải thiết lập khu vực kiểm soát an ninh, xây dựng và thực hiện quy trình kiểm soát ra vào khu vực kiểm soát an ninh, thực hiện các biện pháp giám sát và kiểm đếm nguồn phóng xạ theo quy định. Khu vực lưu giữ nguồn phóng xạ phải tách biệt với các vật liệu khác,có biển cảnh báo bức xạ, trang bị khóa bảo đảm an ninh, có quy chế quản lý kho, bố trí người chịu trách nhiệm quản lý kho.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

109

- Lãnh đạo đơn vị cần phổ biến, quán triệt các biện pháp tăng cường an ninh nguồn phóng xạ đến toàn thể nhân viên của đơn vị có hoạt động liên quan.

Trong trường hợp phát hiện sự cố mất an toàn, an ninh đối với nguồn phóng xạ, đơn vị phải thông báo kịp thời tới cơ quan chức năng địa phương, Sở KHCN địa phương và Cục ATBXHN; áp dụng ngay các biện pháp cần thiết để tìm kiếm, thu hồi nguồn phóng xạ bị thất lạc, mất cắp, chiếm đoạt, chuyển giao hoặc sử dụng bất hợp pháp; sẵn sàng, chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý; mọi diễn biến quá trình tìm kiếm, thu hồi nguồn phóng xạ phải có liên hệ, thông báo cho cơ quan quản lý.

XIX. KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN GIAI ĐOẠN 2011-2015 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG

GIAI ĐOẠN 2016-2020

19.1. Kết quả giai đoạn 2011-2015

I. Công tác xây dựng, hoàn thiện văn bản qui phạm pháp luật và các tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan

1.1. Sửa đổi, bổ sung Luật năng lượng nguyên tử

Việc sửa đổi, bổ sung Luật năng lượng nguyên tử đã được đưa vào Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội Khóa XIII. Cục ATBXHN theo chỉ đạo cả Bộ đã triển khai các nhiệm vụ thực hiện Dự án Luật năng lượng nguyên tử (sửa đổi):

- Làm việc với Bộ Tư pháp để đưa Dự án vào Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh hàng năm của Quốc hội;

- Thành lập Ban soạn thảo và Tổ Biên tập, xây dựng kế hoạch làm việc, tổ chức Hội thảo sơ kết thi hành Luật, tổ chức 2 phiên họp Ban Soạn thảo, thường xuyên họp Tổ Biên tập;

- Tổ chức đoàn công tác đi khảo sát các vấn đề cần chỉnh sửa trong Luật năng lượng nguyên tử;

- Tham vấn chuyên gia Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) về các nội dung cần sửa đổi, bổ sung;

- Đã xây dựng dự thảo số 1 của Luật năng lượng nguyên tử (sửa đổi) và báo cáo Hội đồng An toàn hạt nhân Quốc gia.

Hiện này, căn cứ Nghị quyết của Quốc hội số 89/2015/QH13 ngày 09/6/2015 và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1273/QĐ-TTg ngày 07/8/2015, Bộ Khoa học và Công nghệ được giao là cơ quan chủ trì soạn thảo Dự án Luật năng lượng nguyên tử (sửa đổi), dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến tháng 10/2016. Cục ATBXHN đã lập kế hoạch và đang tổ chức triển khai thực hiện theo lộ trình đã được Quốc hội thông qua.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

110

1.2. Nghị định của Chính phủ

Ngay sau Luật NLNT được ban hành, ngoài một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật NLNT (Nghị định số 07/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010; Nghị định số 111/2009/NĐ-CP ngày 11/12/2009; Nghị định số 70/2010/NĐ-CP ngày 22/6/2010), trong giai đoạn 2011-2015 Cục ATBXHN phối hợp với các đơn vị trong và ngoài Bộ xây dựng được các Nghị định sau:

- Nghị định số 124/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy định chính sách ưu đãi, hỗ trợ người đi đào tạo trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

- Nghị định số 107/2013/NĐ-CP ngày 20/9/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử (Thay thế cho Nghị định số 111/2009/NĐ-CP ngày 11/12/2009).

1.3. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ

Trong giai đoạn 2011-2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định về các nội dung sau:

- Phê duyệt các quy hoạch, bao gồm Quy hoạch tổng thể phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử và các quy hoạch chi tiết về phát triển ứng dụng NLNT trong các ngành kinh tế- xã hội, bao gồm y tế, công nghiệp và các ngành kinh tế kỹ thuật, nông nghiệp, tài nguyên và bảo vệ môi trường; Định hướng quy hoạch phát triển điện hạt nhân; Định hướng quy hoạch địa điểm lưu giữ, chôn cất chất thải phóng xạ và Quy họach Mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia.

- Phê duyệt các Đề án về: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; Tăng cường năng lực nghiên cứu – triển khai và hỗ trợ kỹ thuật phục vụ phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử và bảo đảm an toàn, an ninh; Triển khai các biện pháp bảo đảm an ninh trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; Thông tin, tuyên truyền phát triển điện hạt nhân.

- Phê duyệt cơ chế, chính sách bồi thường, hỗ trợ di dân tái định cư dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận; Phê duyệt Dự án di dân, tái định cư của các nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận.

- Thành lập và/hoặc kiện toàn các tổ chức: Hội đồng Phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia, Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia, Hội đồng thẩm định nhà nước thẩm định báo cáo đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận, Ban chỉ đạo Nhà nước Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.

- Ban hành Danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật và Tối mật thuộc lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

- Ban hành Chế độ ưu đãi nghề nghiệp đối với những người làm việc trong các đơn vị thuộc lĩnh vực năng lượng nguyên tử của Bộ Khoa học và Công nghệ.

- Theo kế hoạch trong năm 2015, Thủ tướng Chính phủ sẽ ký ban hành Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân quốc gia và phê duyệt Đề án tăng

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

111

cường năng lực cho các cơ quan quản lý nhà nước về phát triển ứng dụng NLNT và về bảo đảm an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân .

1.4. Thông tư

Trong giai đoạn 2011-2015 Bộ KH&CN đã ban hành được 21 thông tư để hướng dẫn thi hành các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân, phục vụ kịp thời cho công tác quản lý nhà nước, đặc biệt là quản lý Dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.

Bộ KH&CN đang hoàn thiện dự thảo để ban hành trong năm 2015 các văn bản sau: Thông tư quy định hình thức và nội dung báo cáo phân tích an toàn trong hồ sơ cấp phép xây dựng nhà máy điện hạt nhân; Thông tư ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với thiết bị X quang y tế và thiết bị CT Scaner; Thông tư quy định báo cáo đánh giá an toàn đối với cơ sở thăm dò, khai thác, chế biến quặng phóng xạ; Thông tư quy định về cấp đăng ký hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

1.5. Tiêu chuẩn, quy chuẩn

- Đã ban hành trong giai đoạn 2011-2015: 5 tiêu chuẩn an toàn hạt nhân phục vụ cho việc phê duyệt địa điểm nhà máy điện hạt nhân.

- Dự kiến trong năm 2015: Ban hành 11 tiêu chuẩn về an toàn hạt nhân phục vụ dự án điện hạt nhân.

- Để phục vụ cho triển khai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận trong điều kiện chưa đủ năng lực xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan đến điện hạt nhân, Cục ATBXHN để kiến nghị ban hành Thông tư số 21/2013/TT-BKHCN về việc chấp thuận áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn của quốc tế và nước ngoài cho dự án điện hạt nhân của Việt Nam.

Đánh giá chung và đề xuất

Đánh giá chung trong 5 năm qua, Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng và đang được hoàn thiện đáp ứng cơ bản yêu cầu quản lý an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân ở Việt Nam. Tuy nhiên để đáp ứng tốt hơn yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý, đặc biệt là quản lý chương trình điện hạt nhân thì vẫn cần sửa đổi một số văn bản đã ban hành cũng như bổ sung hoàn chỉnh khung văn bản pháp luật về điện hạt nhân. Ngày 15 tháng 11 năm 2015, Bộ KH&CN đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Khung văn bản quy phạm, tiêu chuẩn, quy chuẩn về điện hạt nhân của Việt Nam.

II. Hoạt động cấp phép

2.1. Tổ chức thẩm định, cấp, gia hạn, sửa đổi bổ sung các loại giấy phép tiến hành công việc bức xạ, chứng chỉ nhân viên bức xạ (CCNVBX) theo phân cấp của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN)

Thực hiện theo các quy định của Luật Năng lượng nguyên tử (NLNT) và Thông tư số 08/2010/TT-BKHCN ngày 22/7/2010 của Bộ KH&CN về cấp giấy

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

112

phép tiến hành công việc bức xạ và chứng chỉ nhân viên bức xạ, trong giai đoạn từ năm 2011 đến tháng 10 năm 2015 Cục ATBXHN đã thẩm định, cấp và trình Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành: 2660 giấy phép các loại và 2435 chứng chỉ nhân viên bức xạ. Cụ thể:

Năm Số giấy phép ban hành Số CCNVBX ban hành

2011 535 618

2012 512 361

2013 521 659

2014 582 504

10/2015 510 293

Tổng 2660 2435

Điểm nổi bật của công tác cấp phép trong giai đoạn này là Cục ATBXHN đã hoàn thành việc tổ chức thẩm định và trình Bộ cấp 2 loại giấy phép mới, chưa tùng có tiền lệ ở Việt Nam là:

- Giấy phép vận hành chính thức cho Lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu cho Viện nghiên cứu hạt nhân sau khi thực hiện chuyển đổi nhiên liệu từ độ giàu cao (HEU) sang sử dụng nhiên liệu độ giàu thấp (LEU);

- Giấy phép đóng gói, vận chuyển và xuất khẩu nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng có độ làm giàu cao (HEU) từ Viện nghiên cứu hạt nhân về Nga.

Thông qua việc thực hiện cấp 2 loại giấy phép này, năng lực của đội ngũ cán bộ Cục được nâng lên thông qua công việc thực tiễn và sẽ được sử dụng cho các công việc tương tự của dự án điện hạt nhân cũng như dự án lò nghiên cứu trong thời gian tới ở Việt Nam.

2.2. Tổ chức thẩm định, ban hành Giấy đăng ký hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử và chứng chỉ hành nghề dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử

Thực hiện theo quy định của Luật NLNT, trong giai đoạn từ năm 2011 đến tháng 10 năm 2015, Cục ATBXHN đã thực hiện thẩm định và cấp 128 giấy đăng ký hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử và 67 chứng chỉ hành nghề dịch vụ.

Năm Số giấy Đăng ký ban hành Số Chứng chỉ hành nghề ban hành

2011 20 0

2012 17 0

2013 27 0

2014 33 0

2015 31 67

Tổng 128 67

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

113

2.3. Quản lý hồ sơ cấp giấy phép, giấy đăng ký, chứng chỉ nhân viên bức xạ ; Vận hành hệ thống quản lý dữ liệu cấp phép (RAISVN).

Từ năm 2006 Cục ATBXHN đã triển khai quản lý hệ thống dữ liệu về cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ theo phần mềm IRAI do Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) cung cấp. Để đáp ứng yêu cầu thực tế quản lý tại Việt Nam, Cục ATBXHN đã triển khai cải tiến phần mềm này thành phiên bản mới RAISVN. Đây là phần mềm cho phép quản lý giữ liệu cấp phép trực tuyến thông qua internet. Cục ATBXHN đã liên tục cập nhật giữ liệu, khai thác hiệu quả phục vụ hoạt động quản lý nhà nước theo chức năng của Cục và hỗ trợ cho các sở quản lý được các hoạt động tiến hành công việc bức xạ trên địa bàn.

Bên cạnh việc vận hành hệ thống quản lý giữ liệu cấp phép trực tuyến, Cục ATBXHN tổ chức lưu giữ, bảo quản hồ sơ cấp giấy phép, giấy đăng ký và chứng chỉ nhân viên bức xạ theo hệ thống ISO.

2.4. Tổ chức kiểm soát, cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động cấp phép

Cục ATBXHN đã xây dựng các quy trình hướng dẫn chi tiết liên quan đến hoạt động cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ, cấp giấy đăng ký hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử và đăng trên trang Web của Cục. Thực hiện niêm yết các thủ tục hành chính, xây dựng quy trình phối hợp nội bộ trong thẩm định cấp phép góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc. Hệ thống quản lý hành chính công của Cục được vận hành rất tốt, không để chậm trễ về việc xử lý bất kỳ hồ sơ xin cấp phép nào của các doanh nghiệp, tạo được uy tín đối với khách hàng.

So sánh với kết quả đạt được nhiệm kỳ 2007-2011

Nhìn chung những kết quả đạt được trong hoạt động cấp phép nhiệm kỳ 2011 -2016 so với nhiệm kỳ 2007-2011 của Cục ATBXHN thể hiện bước phát triển vượt bậc trên nhiều phương diện, cụ thể :

- Số lượng giấy phép tiến hành công việc bức xạ đã ban hành hàng năm tăng khoảng từ 5-10%;

- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn; quy trình nội bộ liên quan đến hoạt động cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ, giấy đăng ký hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT và chứng chỉ nhân viên bức xạ;

- Hoạt động hướng dẫn cấp phép, cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động cấp phép, năng lực thẩm định an toàn của Cục ATBXHN được cải tiến góp phần xử lý hiệu quả các hồ sơ xin cấp phép của các doanh nghiệp;

- Tăng cường vai trò quản lý, giám sát của Cục ATBXHN sau khi cấp giấy phép, cấp giấy đăng ký;

Một số hạn chế cần tập trung khắc phục trong thời gian tới :

- Cải tiến trong việc xử lý sơ bộ hồ sơ cấp phép bằng internet để rút ngắn hơn nữa thời gian xử lý hồ sơ và thủ tục cấp phép cho các doanh nghiệp;

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

114

- Ban hành đầy đủ các quy định về quản lý hoạt động đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho nhân viên bức xạ và hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT liên quan đến an toàn bức xạ và hạt nhân.

III. Hoạt động Thanh tra

Từ năm 2011 đến nay, công tác thanh tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ngày càng được quan tâm chú trọng. Chất lượng của các cuộc thanh tra ngày càng được nâng cao, tổ chức thanh tra theo trọng điểm, nhu cầu của xã hội.

Trọng tâm thanh tra của Cục ATBXHN tập trung vào các cơ sở công nghiệp lớn sử dụng nhiều nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ, các đơn vị NDT sử dụng nguồn bức xạ di động, những đơn vị chưa được thanh tra trong nhiều năm hoặc có biểu hiện không tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật, các cơ sở y tế lớn sử dụng nhiều thiết bị bức xạ, nguồn phóng xạ trong khám chữa bệnh. Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra về an toàn hạt nhân cũng bắt đầu được chú trọng. Những năm gần đây, hoạt động thanh tra lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu Đà Lạt và thanh tra hoạt động khảo sát, đánh giá địa điểm nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận được tổ chức định kỳ hàng năm. Cụ thể:

- Năm 2013, Cục ATBXHN đã tiến hành thanh tra được 62 cơ sở, trong đó có 33 cơ sở công nghiệp (chiếm 53,2%), 11 cơ sở y tế (chiếm 17,7%), 06 cơ sở nghiên cứu đào tạo (chiếm 9,7%), 07 cơ sở ứng dụng bức xạ trong kinh doanh vàng bạc (chiếm 11,3%), 03 cơ sở dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử (chiếm 4,8%) và 02 cơ sở hạt nhân (chiếm 3,2%). Các Đoàn thanh tra của Cục đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với 03 đơn vị với tổng số tiền phạt là 28.000.000 đồng.

- Năm 2014, Cục ATBXHN đã triển khai 12 đoàn thanh tra theo kế hoạch và 08 đợt thanh tra đột xuất đối với 52 cơ sở trên địa bàn 11 tỉnh và thành phố, trong đó: cơ sở công nghiệp (chiếm 46,2%); cơ sở y tế (chiếm 30,8%); cơ sở dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT (chiếm 9,6%); cơ sở giáo dục đào tạo, hải quan, địa chất (chiếm 5,8%); cơ sở hạt nhân (chiếm 4%); cơ sở nghiên cứu (chiếm 2%); cơ sở sa khoáng (chiếm 2%).

- Năm 2015, Cục ATBXHN đã triển khai thực hiện 13 đợt thanh tra đối với 73 đơn vị, cụ thể: 03 đợt thanh tra đối với Ban Quản lý dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận và tiến hành 10 đợt thanh tra ATBX đối với 72 đơn vị có hoạt động bức xạ trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố trong cả nước. Tổng số đơn vị vi phạm bị lập biên bản xử lý vi phạm hành chính là 15 đơn vị với tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính trong năm 2015 là 228 triệu đồng.

Kết quả thanh tra từ năm 2011 đến nay cho thấy công tác đảm bảo an toàn bức xạ và hạt nhân đã có nhiều tiến bộ. Việc chấp hành các quy định của Pháp luật đã dần đi vào nề nếp. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như sau:

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

115

+ Việc khai báo và xin cấp giấy phép tiến hành công việc đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn trường hợp sử dụng thiết bị bức xạ không có giấy phép hoặc giấy phép đã hết hạn.

+ Việc tổ chức theo dõi liều xạ cá nhân tại nhiều cơ sở vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ theo đúng quy định của Pháp luật.

+ Việc báo cáo thực trạng an toàn tiến hành công việc bức xạ hàng năm của các cơ sở bức xạ cho cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân chưa được thực hiện đầy đủ.

+ Sự quan tâm của lãnh đạo các đơn vị sử dụng bức xạ đối với công tác an toàn chưa nhiều, vai trò người phụ trách an toàn còn hạn chế.

So sánh với kết quả đạt được nhiệm kỳ 2007-2011

So sánh với hoạt động thanh tra nhiệm kỳ 2007- 2011 công tác thanh tra giai đoạn 2011 -2015 được tổ chức chuyên sâu và chuyên nghiệp hơn. Số lượng đơn vị có thể ít hơn so với thời gian trước do các đơn vị X quang y tế được chuyển giao dần cho các Sở KHCN tổ chức thanh kiểm tra, phù hợp với thẩm quyền cấp phép các đơn vị X quang y tế của Sở, qua đó tăng cường hơn nữa công tác quản lý và đảm bảo an toàn bức xạ trên địa bàn các tỉnh.

Trọng tâm thanh tra trong những năm gần đây đã có sự thay đổi, tập trung vào các cơ sở lớn sử dụng nhiều nguồn phóng xạ, các đơn vị có tính chất phức tạp, các đơn vị làm dịch vụ.

Hoạt động thanh tra đã phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Qua đó, chấn chỉnh lại hoạt động của đơn vị cũng như nâng cao công tác đảm bảo an toàn bức xạ tại cơ sở.

Hoạt động thanh tra cũng đã góp phần nâng cao hơn nghiệp vụ chuyên môn của các cán bộ của Sở KHCN, tăng cường công tác quản lý và phối hợp tốt hơn giữa Cục với các sở KH&CN trong công tác quản lý ATBX trên địa bàn.

Công tác thanh tra của Cục ATBXHN ngày càng chuyên sâu về chuyên môn có tính chuyên nghiệp cao, các cán bộ được đào tạo chuyên sâu và có kinh nghiệm trong công tác tổ chức, triển khai đoàn thanh tra.

Thực hiện khuyến cáo của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) Cục ATBXHN đã chủ động tiến hành các cuộc thanh tra bảo đảm an toàn hạt nhân đối với lò phản ứng nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt cũng như đối với Ban quản lý dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Kết quả thanh tra đã góp phần nâng cao công tác bảo đảm an toàn cho hoạt động của lò Đà lạt cũng như có đóng góp tích cực trong bảo đảm an toàn cho NMĐHN được xây dựng trong tương lai.

Một số hạn chế cần tập trung khắc phục trong thời gian tới :

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

116

- Chưa bảo đảm thực hiện đầy đủ quy định về tần suất thanh tra các cơ sở bức xạ cũng như chưa tiến hành thẩm định chất lượng các thiết bị bức xạ trong y tế trong các đợt thanh tra để bảo đảm các thiết bị bức xạ này đáp ứng các yêu cầu về chất lượng phục vụ công tác chẩn đoán và điều trị.

- Nhân lực và phương tiện kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thanh tra còn hạn chế, không đáp ứng yêu cầu công việc thanh tra theo quy định của pháp luật.

IV. Công tác quản lý nhà nước về an ninh và thanh sát hạt nhân

4.1. An ninh hạt nhân

An ninh hạt nhân là vấn đề tương đối mới. Từ sau sự kiện 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, công tác bảo đảm an ninh hạt nhân, chống buôn bán, vận chuyển trái phép vật liệu hạt nhân, vật liệu phóng xạ đã thực sự trở thành mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng quốc tế.

- Trong khuôn khổ Dự án an ninh hạt nhân hợp tác với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế, từ năm 2011, với trách nhiệm là đầu mối trong hoạt động này, Cục ATBXHN đã phối hợp với các đơn vị liên quan đón đoàn chuyên gia IAEA vào khảo sát kỹ thuật; đón đoàn kiểm toán vào kiểm toán các hoạt động của IAEA; thực hiện việc tiếp nhận thiết bị do IAEA cung cấp; chủ trì, phối hợp việc lắp đặt thành công 08 cổng phát hiện phóng xạ tại Sân bay quốc tế Nội Bài, thiết bị cho Tổng cục Hải quan và Trung tâm Hỗ trợ Kỹ thuật của Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, tạo thành mạng lưới cảnh báo và ứng phó; tổ chức các Hội thảo đào tạo về sử dụng thiết bị và phối hợp ứng phó cảnh báo phóng xạ cho cán bộ Hải quan tại Sân bay quốc tế Nội Bài và cảng Cái Mép, Bà Rịa – Vũng Tàu.

Đây là lần đầu tiên các cổng phát hiện phóng xạ loại này được lắp đặt tại

Việt Nam, góp phần vào việc phòng, chống buôn bán trái phép vật liệu phóng

xạ, bảo đảm an ninh hạt nhân, đồng thời thể hiện trách nhiệm quốc gia của Việt Nam đối với bảo đảm an ninh hạt nhân trên phạm vi toàn cầu. Việc tổ chức đào

tạo cho các cán bộ trực tiếp vận hành thiết bị đã bảo đảm cho các thiết bị được

vận hành theo đúng quy trình chuẩn, xây dựng nguồn lực cho Việt Nam, bảo

đảm tính bền vững của toàn bộ hệ thống.

Với hoạt động ban đầu hiệu quả, IAEA đã đồng ý hỗ trợ thêm 04 cổng phát hiện phóng xạ cho Nhà ga T2 của Sân bay quốc tế Nội Bài và hệ thống cổng phát hiện phóng xạ cho Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất.

- Từ năm 2012, Việt Nam và IAEA đã phê duyệt Kế hoạch hỗ trợ an ninh hạt nhân tích hợp (INSSP) làm cơ sở cho các hoạt động hỗ trợ của IAEA trong lĩnh vực an ninh hạt nhân. Nhiều hoạt động hợp tác đã được thực hiện theo Kế hoạch này. Để cập nhật tình hình cũng như nhu cầu mới của ta trong lĩnh vực an ninh hạt nhân, tháng 12/2014, Cục ATBXHN đã tổ chức Hội thảo Cập nhật bản INSSP với sự tham gia của các Bộ, ngành liên quan. Bản Kế hoạch cập nhật tập

trung vào việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực an ninh hạt

nhân và xây dựng năng lực đánh giá, thẩm định hệ thống bảo vệ thực thể của

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

117

nhà máy điện hạt nhân, nhằm phục vụ chương trình điện hạt nhân của Việt Nam.

- Trong bối cảnh cộng đồng quốc tế rất quan tâm đến chống khủng bố hạt nhân, đã có nhiều diễn đàn về an ninh hạt nhân, chống khủng bố hạt nhân đã được xây dựng. Việt Nam đã tham gia Hội nghị thượng đỉnh An ninh hạt nhân lần thứ nhất tại Oa-sinh-tơn (năm 2010), lần thứ hai tại Xê-un (năm 2012) và Hội nghị lần thứ ba tại Hà Lan (năm 2014). Ngoài ra, Cục cũng đã tham gia chương trình phòng chống vũ khí sinh hoạt, hóa học và búc xạ hạt nhân (CBRN) do EC tài trợ cho khu vục Đông Nam Á.

Cục ATBXHN đã chủ trì nghiên cứu để tư vấn cho các cuộc họp cấp chuyên gia và cấp cao chuẩn bị cho các Hội nghị thượng đỉnh và Lãnh đạo và cán bộ của Cục đã tham gia Đoàn Việt Nam do Lãnh đạo cấp cao của Việt Nam dẫn đầu tham dự cả ba Hội nghị Thượng đỉnh. Cục đã chủ trì xây dựng Báo cáo quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ để gửi cho Hội nghị, thể hiện tinh thần trách nhiệm của Việt Nam trong lĩnh vực an ninh hạt nhân. Các ý kiến đóng góp

xác đáng và hiệu quả của Cục An toàn bức xạ và hạt nhân đã được Bộ Ngoại

giao sử dụng để đàm phán, thảo luận với các đối tác tham gia các diễn đàn này,

thể hiện tính tích cực, chủ động và thiện chí của Việt Nam trong việc cùng cộng

đồng quốc tế phòng, chống khủng bố hạt nhân, đồng thời bảo đảm lợi ích quốc

gia của Việt Nam.

Cục đã phối hợp với các cơ quan quốc tế (ANSTO của Úc, NNSA của Mỹ và EC) tổ chức các khóa tập huấn về ứng phó sự cố bức xạ, hạt nhân và an ninh nguồn phóng xạ nhóm 1 cho cán bộ quản lý an toàn bức xạ ở Sở KHCN địa phương và các cơ sở bức xạ lớn trên toàn quốc.

Trong 3 năm 2011-2013, Trung tâm HTKT của Cục cũng đã tham gia đào tạo về ứng phó sự cố cho Cảnh sát biển Việt Nam trong khuôn khổ dự án an ninh của Đại sứ quán Mỹ

4.2. Thanh sát hạt nhân

Một trong các công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực hạt nhân là thực hiện thanh sát, bảo đảm Việt Nam thực hiện đầy đủ cam kết của mình theo Hiệp định Thanh sát (Hiệp định về việc Áp dụng thanh sát theo Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân) đã ký với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (ký năm 1989, có hiệu lực năm 1990). Đặc biệt, từ sau khi ta phê chuẩn Nghị định thư bổ sung của Hiệp định Thanh sát vào tháng 9/2012, công việc này trở nên nhiều hơn.

- Mặc dù Việt Nam đã thực hiện theo Hiệp định Thanh sát từ năm 1990, do lịch sử, đến cuối năm 2007, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này mới được chuyển giao cho Cục ATBXHN từ Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Thông qua hồ sơ cấp phép, Cục ATBXHN đã rà soát lại các cơ sở có thể là các địa điểm ngoài cơ sở hạt nhân, làm cơ sở để đàm phán với IAEA về việc thiết lập Địa điểm ngoài cơ sở (Location Outside Facilities (LOFs)). Với việc thiết lập được Địa điểm ngoài cở sở, đến đầu năm 2008, Việt Nam đã được IAEA

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

118

chấp nhận miễn trừ thanh sát đối với urani nghèo sử dụng làm che chắn cho các máy xạ trị tại các bệnh viện. Việc thiết lập được các Địa điểm ngoài cơ sở, một

yêu cầu mà IAEA đã đề nghị thực hiện từ năm 2005, đã làm rõ tính minh bạch

trong các hoạt động hạt nhân dân sự của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho

hoạt động của các bệnh viện có máy xạ trị chữa trị ung thư.

- Theo quy định của Hiệp định Thanh sát, hàng năm chuyên gia của IAEA vào thực hiện thanh sát tại Việt Nam một lần và Việt Nam phải gửi các báo cáo kế toán vật liệu hạt nhân của các cơ sở có sử dụng vật liệu hạt nhân. Là đầu mối của Việt Nam về việc thực hiện thanh sát, Cục ATBXHN có trách nhiệm tổng hợp các báo cáo kế toán của các cơ sở để lập thành báo cáo quốc gia theo mẫu quy định của IAEA (khoảng 06 báo cáo một năm. Riêng năm 2013 là 10 báo cáo do có việc chuyển nhiên liệu urani có độ giàu cao trở lại Nga).

Với việc Nghị định thư bổ sung đã được phê chuẩn, hàng năm Cục ATBXHN phải gửi các khai báo theo yêu cầu của Nghị định thư và chuyên gia IAEA sẽ vào thực hiện tiếp cận bổ sung, chỉ được báo trước 24 tiếng. Do cơ sở có hoạt động liên quan đến hạt nhân của Việt Nam ở cả Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt và Hà Nội, nên việc thu xếp để chuyên gia IAEA vào thực hiện tiếp cận bổ sung cần phải nhanh chóng, kịp thời để đáp ứng yêu cầu của IAEA, đồng thời cũng phải tuân thủ các thủ tục trong nước và bảo đảm lợi ích quốc gia.

Với sự chuẩn bị chu đáo của Cục ATBXHN, đặc biệt là trong giai đoạn chuẩn bị phê chuẩn Nghị định thư bổ sung, Cục đã tiếp nhận và thực hiện tốt các đợt thanh sát định kỳ tại các cơ sở chịu sự điều chỉnh của Hiệp định Thanh sát; tiếp nhận và thực hiện tiếp cận bổ sung của chuyên gia IAEA theo Nghị định thư bổ sung. Cho đến năm 2015, Việt Nam đã tiếp nhận thành công 08 tiếp cận bổ sung của chuyên gia IAEA.

Cục ATBXHN đã xây dựng và gửi cho IAEA đúng thời hạn các báo cáo kế toán vật liệu hạt nhân hàng năm cũng như các báo cáo về thay đổi vật liệu hạt nhân và đến tháng 11/2015, đã có tổng cộng 52 khai báo theo Nghị định thư bổ sung. Hiện tại, IAEA đánh giá vật liệu hạt nhân của Việt Nam đã được kế toán đầy đủ và không có vật liệu hạt nhân, hoạt động hạt nhân không khai báo.

Việc tiếp nhận thành công chuyên gia IAEA vào thực hiện thanh sát và tiếp

cận bổ sung cũng như việc gửi các báo cáo và khai báo đầy đủ, chính xác và

đúng thời hạn, thể hiện sự nghiêm túc của Việt Nam trong việc thực hiện các

cam kết, nghĩa vụ quốc tế. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử thực hiện thanh

sát của Việt Nam, Việt Nam đã đạt được Kết luận mở rộng của IAEA. Đây là một bước tiến lớn của Việt Nam trong lĩnh vực thanh sát, thể hiện sự minh bạch

của Việt Nam trong các hoạt động hạt nhân, và do đó củng cố sự tin tưởng của

cộng đồng quốc tế đối với chương trình hạt nhân của Việt Nam, tạo điều kiện

thuận lợi cho chương trình điện hạt nhân của nước ta.

- Trong năm 2014, Cục ATBXHN đã làm thủ tục với IAEA để chấm dứt thanh sát cho Thô-ri của Viện Công nghệ Xạ Hiếm sử dụng làm màng phủ trên các lưới nhôm xuất khẩu; miễn trừ thanh sát cho hơn 3000 kg urani nghèo lưu

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

119

giữ tại Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân và các cơ sở sử dụng urani nghèo làm che chắn nguồn phóng xạ và đã được IAEA chấp thuận.

Việc thô-ri được IAEA chấp nhận chấm dứt thanh sát và urani nghèo được

chấp nhận miễn trừ thanh sát đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các

cơ sở và doanh nghiệp.

- Tham gia Chương trình chuyển đổi nhiên liệu của Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt: Chương trình chuyển đổi nhiên liệu cho Lò PƯNC Đà Lạt được tiến hành với hai giai đoạn: a) Giai đoạn 1: từ tháng 12/2003 đến 9/2007, kết thúc với việc Việt Nam tiếp nhận 36 bó nhiên liệu LEU chưa qua sử dụng thay thế cho việc trả về Nga 35 bó nhiên liệu HEU chưa qua sử dụng; b) Giai đoạn 2: từ tháng 10/2007 đến tháng 7/2013, thay thế toàn bộ số nhiên liệu HEU đang sử dụng trong Lò PƯNC Đà Lạt và chuyển trả 106 bó nhiên liệu HEU đã qua sử dụng về lưu giữ tại Nga.

Trong Giai đoạn 2, việc thực hiện kiểm đếm, kế toán theo Hiệp định Thanh sát đối với nhiên liệu đã qua sử dụng là một công việc mới, lần đầu tiên chúng ta tiến hành. Việc kiểm đếm này phải được thực hiện đối với từng bó nhiên liệu, trong khi đó các bó nhiên liệu do đã sử dụng trong lò phản ứng nên có độ phóng xạ rất cao, và do đó việc thao tác với các bó nhiên liệu này phải hết sức cẩn thận và phải được thực hiện dưới nước.

Với trách nhiệm là đầu mối cho hoạt động thanh sát của Việt Nam, Cục ATBXHN đã trao đổi và mời chuyên gia IAEA vào trước để cùng nghiên cứu, tìm ra giải pháp thích hợp cho việc kiểm đếm các bó nhiên liệu. Với sự hỗ trợ của cán bộ Viện Nghiên cứu hạt nhân, Cục đã cùng chuyên gia IAEA thực hiện

việc kiểm đếm và xác định nhận dạng của từng bó nhiên liệu trong suốt thời

gian nạp nhiên liệu vào thùng vận chuyển theo đúng yêu cầu của IAEA và không

ảnh hưởng đến tiến độ cũng như an toàn của toàn bộ quá trình. Báo cáo thay đổi vật liệu hạt nhân cũng đã được xây dựng và nộp cho IAEA đúng thời hạn, bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của Việt Nam theo Hiệp định Thanh sát.

V. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động chuẩn đo lường bức xạ; kiểm định và hiệu chuẩn; chiếu xạ nghề nghiệp và phóng xạ môi trường.

Năm 2013 và năm 2015 Cục ATBXHN đã triển khai kiểm tra chất lượng dịch vụ đọc liều chiếu xạ cá nhân đối với các đơn vị thực hiện dịch vụ đo liều chiếu xạ cá nhân trên toàn quốc. Năm 2014 Cục TBXHN đã triển khai kiểm tra đánh giá chất lượng dịch vụ kiểm chuẩn thiết bị ghi đo bức xạ tại 02 phòng chuẩn liều của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Cục ATBXHN thực hiện các hoạt động này, qua đó kịp thời đưa ra các kiến nghị nhằm chấn chỉnh đối với các đơn vị làm dịch vụ và đưa ra giải pháp quản lý để nâng cao chất lượng đối với các dịch vụ này. Về phóng xạ môi trường cho đến nay chúng ta vẫn chưa triển khai thực hiện việc xây dựng Mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia theo Quyết định số 1636/QĐ-TTg cả Thủ tướng Chính phủ. Về quản lý phóng xạ môi trường, Hiện chúng ta mới chỉ

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

120

có các số liệu của 3 trạm quan trắc thuộc mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia do Bộ tài nguyên và Môi trường quản lý.

Một số bất cập về quản lý của công tác quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực này là như sau:

- Chưa có phòng chuẩn đo lường bức xạ cấp I của quốc gia.

- Chưa thực hiện đúng quy định tại Thông tư 19/2012/TT-BKHCN về quản lý chiếu xạ nghề nghiệp, cụ thể là dịch vụ đo liều chiếu xạ chưa được thực hiện đúng quy định;

- Tồn tại các bất cập trong quản lý hoạt động chuẩn đo lường bức xạ, hoạt động kiểm định và hiệu chuẩn trong lĩnh vực NLNT giữa quy định của Luật NLNT với quy định của Luật Đo lường;

- Chưa triển khai thực hiện Quyết định số 1636/QĐ-TTg về Quy hoạch mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia.

VI. Công tác quản lý nhà nước về ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân

Thực hiện theo quy định của Luật NLNT và Thông tư số 25/2014/TT-BKHCN ngày 08/10/2014 của Bộ KH&CN quy định việc chuẩn bị ứng phó và ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân, lập và phê duyệt kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân (trước đó là Thông tư số 24/2012/TT-BKHCN ngày 04/12/2012 về Hướng dẫn lập và phê duyệt kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân cấp cơ sở và cấp tỉnh), Cục ATBXHN đã hướng dẫn, thẩm định và phê duyệt đối với : 155 kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ cấp cơ sở ; hướng dẫn, tổ chức thẩm định và trình Bộ trưởng phê duyệt đối với 15 kế hoạch ứng phó sự cố cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Theo kế hoạch trong năm 2015 Cục ATBXHN sẽ hoàn thiện để Bộ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân quốc gia.

Thực hiện các công việc liên quan tới ứng phó sự cố hạt nhân của nhà máy điện hạt nhân Fukushima 1 trong quyền hạn và trách nhiệm của Cục: Đo kiểm tra nhiễm bẩn phóng xạ cho người, hàng hóa và môi trường; Cung cấp và phối hợp cung cấp thông tin cho các Bộ, Ngành và báo chí; Liên tục theo dõi và cung cấp số liệu phông bức xạ tại Hà Nội và một số tỉnh tại Nhật Bản; Cung cấp kết quả tính toán phát tán chất phóng xạ của Cơ quan khí tượng Nhật Bản, Na Uy; Kết quả đo mức độ nhiễm xạ trên người của các công dân về Việt Nam từ Nhật Bản sau sự cố; Kết quả đo mức phóng xạ I-131, Cs-137 trong không khí tại Hà Nội.

Cục đã kịp thời cử các cán bộ cùng các thiết bị tham gia tìm kiếm và ứng phó trong sự cố mất nguồn phóng xạ Ir-192 của Công ty Apave tại thành phố Hồ Chí Minh; tìm kiếm và ứng phó trong sự cố mất nguồn phóng xạ Co-60 của Công ty Pomina 3 tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Cục đã tổ chức đào tạo ứng phó sự cố cho cán bộ Sở, ban ngành và cơ sở tiến hành công việc bức xạ trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, Hải Phòng, Sơn La, Quảng Ngãi, Tây Ninh, Hà Tĩnh.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

121

Một số hạn chế cần tập trung khắc phục trong thời gian tới :

- Các cơ sở chưa thực sự quan tâm đến công tác chuẩn bị và ứng phó ứng phó sự cố bức xạ, cho nên khi xảy ra sự cố còn lúng túng trong xử lý.

- Chưa phê duyệt hết kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân của các tỉnh thành trong cả nước.

- Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân quốc gia cũng chưa được phê duyệt.

- Công tác xây dựng năng lực kỹ thuật hõ trợ cho hoạt động ứng phó sự cố bức xạ của Cơ quan pháp quy chưa được quan tâm đầu tư.

- Chưa xây dựng được đội ứng phó sự cố chuyên nghiệp của Cơ quan pháp quy hạt nhân.

VII. Công tác quản lý nhà nước về thông tin, tuyên truyền pháp quy hạt nhân

- Hoạt động thông tin tuyên truyền phổ biến VBQPPL: đã đăng tải đầy đủ dự thảo các văn bản trên Cổng thông tin của Bộ và Cục để xin ý kiến các Bộ, ngành và cập nhật đầy đủ các văn bản mới được ban hành trong lĩnh vực NLNT. Xuất bản Tuyển tập các VBQPPL trong lĩnh vực ATBXHN và NLNT.

- Từ năm 2012, hàng năm xây dựng và xuất bản Báo cáo quốc gia về công tác công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực ATBXHN. Đây là tài liệu mà cơ quan pháp quy hạt nhân phải báo cáo hàng năm lên Lãnh đạo Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các thành viên Chính phủ, Ban chỉ đạo nhà nước điện hạt nhân, Hội đồng ATHNQG, Hội đồng phát triển ứng dụng NLNT quốc gia, các Bộ, ngành và các đối tượng có liên quan.

-Thường xuyên đăng tải trên website của Cục tin tức về các hoạt động của Cục, tin tức trong và ngoài nước trong lĩnh vực NLNT bằng cả tiếng Anh và tiếng Việt; bài viết của các nhà quản lý, nhà khoa học; tài liệu về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân,…. Các thông tin được đăng tải đầy đủ và kịp thời, góp phần tăng cường thông tin, tuyên truyền và phổ biến kiến thức về ATBXHN cũng như đảm bảo tính công khai, minh bạch của cơ quan pháp quy hạt nhân. Tính đến 31/10/2015, đã có gần 8 triệu lượt truy cập trang tin thông tin điện tử của Cục. Để tăng hiệu quả truyền thông, Cục đã nâng cấp Trang web lên Cổng thông tin điện tử về an toàn, an ninh hạt nhân với giao diện thân thiện, dễ sử dụng, nhiều chuyên trang, chuyên mục, tính bảo mật cao. Cung cấp thông tin cho các đơn vị báo chí trong Bộ và trung bình hàng năm, cung cấp cho Cổng thông tin của Bộ khoảng 70 tin (gấp 3 lần so với yêu cầu của Bộ).

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

122

- Xây dựng và xuất bản Tập san Thông tin pháp quy hạt nhân (số 1 và 2 năm 2013 và từ năm 2014 xuất bản hàng quý) nhằm cung cấp thông tin cho bạn đọc về các hoạt động trong quản lý nhà nước về ATBXHN ở cấp trung ương và địa phương và các bài viết chuyên sâu của các chuyên gia lĩnh vực pháp quy hạt nhân.

-Tham gia chuẩn bị và tổ chức các sự kiện lớn: Họp báo về sự cố Fukushima tháng 3/2011, tham gia các kỳ triển lãm điện hạt nhân, Hội nghị Pháp quy hạt nhân, Hội nghị thường niên cán bộ phụ trách an toàn bức xạ lần 1, 2 vào năm 2013, 2015.

-Tham gia tích cực vào Đề án thông tin tuyên truyền điện hạt nhân đến năm 2020 (Đề án 370) với việc triển khai các nội dung được phê duyệt cho năm 2014, 2015 và lập kế hoạch tổng thể cho giai đoạn 2016-2020.

- Tuy còn nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng thông tin nhưng công tác tổ chức xây dựng và quản lý hệ thống thông tin khoa học đã và đang phục vụ tốt cho các hoạt động quản lý của Cục. Bộ phận Thư viện Cục đã bắt đầu nghiên cứu triển khai thí điểm Thư viện số để tiện lợi cho việc tra cứu thông tin. Bên cạnh đó việc cập nhật các tài liệu Hội thảo, Khoá đào tạo của các cán bộ Cục tham dự, sách mới, công tác lưu trữ, phân loại tài liệu sách báo của Thư viện Cục được duy trì.

Một số hạn chế cần tập trung khắc phục trong thời gian tới :

- Công tác thông tin pháp quy hạt nhân chưa được chú trọng đầy đủ, vẫn bị hòa lẫn với các hoạt động thông tin tuyên truyền chung về điện hạt nhân, trong khi đây là hoạt động được quốc tế xác định cần có tính độc lập, khách quan riêng.

- Công cụ, phương tiện phục vụ công tác thông tin pháp quy hạt nhân còn rất thiếu.

- Chưa có quy định về trách nhiệm thông tin sự cố bức xạ và hạt nhân cho Cơ quan pháp quy hạt nhân.

- Chưa tổ chức định kỳ các triển lãm hay diễn đàn về an toàn điện hạt nhân do Cơ quan pháp quy hạt nhân chủ trì như một kênh thông tin quan trọng cho công chúng.

VIII. Công tác quản lý nhà nước các điều ước quốc tế về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân

- Trong thời gian từ năm 2011 đến 2014, Cục ATBXHN đã nghiên cứu, xây dựng Tờ trình Chính phủ để đề xuất Bộ KHCN trình Chính phủ và Chủ tịch nước phê chuẩn Nghị định thư bổ sung của Hiệp định Thanh sát và tham gia 04 điều ước quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân. Nhờ quá trình nghiên cứu công phu và chuẩn bị chu đáo, với sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các đơn vị liên quan,

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

123

các điều ước quốc tế này đã được cấp trên (Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, Chính phủ) quyết định tham gia. Các điều ước quốc tế này bao gồm: Công ước An toàn hạt nhân (gia nhập năm 2010), Công ước Bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân và Phần sửa đổi của Công ước (gia nhập và phê chuẩn năm 2012), Nghị định thư bổ sung của Hiệp định Thanh sát (phê chuẩn năm 2012), Công ước chung về An toàn quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và An toàn quản lý chất thải phóng xạ (gia nhập năm 2013). Việc tham gia các điều ước quốc tế này đã giúp Việt Nam

hoàn thiện hành lang pháp lý quốc tế cho chương trình phát triển ứng dụng

NLNT của mình, đặc biệt chương trình điện hạt nhân, đáp ứng các khuyến cáo

của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế, tăng cường sự tin tưởng của cộng

đồng quốc tế vào sự minh bạch của chương trình điện hạt nhân cũng như quyết tâm bảo đảm an toàn, an ninh ở mức cao của Việt Nam đối với chương trình

điện hạt nhân.

- Để thực hiện Công ước An toàn hạt nhân, Cục ATBXHN đã chủ trì xây dựng Báo cáo Quốc gia về công tác bảo đảm an toàn hạt nhân để báo cáo trước Hội nghị đánh giá định kỳ của Công ước (năm 2011 và năm 2014) cũng như trả lời câu hỏi của các Quốc gia thành viên khác về vấn đề bảo đảm an toàn hạt nhân của Việt Nam, xây dựng Báo cáo Quốc gia về hoạt động của Việt Nam sau tai nạn hạt nhân Fukushima, Nhật Bản, để báo cáo tại Hội nghị bất thường của Công ước (năm 2012).

- Thực hiện Công ước chung về An toàn quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng và An toàn quản lý chất thải phóng xạ, Cục ATBXHN đã chủ trì xây dựng và trình Chính phủ thông qua Báo cáo Quốc gia để bảo cáo trước Cuộc họp đánh giá định kỳ năm 2015, và trả lời câu hỏi của các Quốc gia thành viên khác. Các

hoạt động tích cực của Cục trong khuôn khổ các Công ước trên đã bảo đảm cho

Việt Nam thực hiện đầy đủ và tốt nghĩa vụ của mình trong khuôn khổ Công ước,

đóng góp vào việc củng cố sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế vào cam kết của

Chính phủ ta về việc bảo đảm an toàn cho chương trình điện hạt nhân của Việt

Nam.

- Từ năm 2010, Cục ATBXHN được giao thực hiện nghiên cứu để đề xuất các phương án đàm phán Hiệp định song phương với Hoa Kỳ về hợp tác trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân dân sự (Hiệp định 123). Các phương án này đã là cơ sở để Tổ Công tác liên Bộ về các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân trình Chính phủ, Bộ Chính trị và thực hiện đàm phán với phía Hoa Kỳ. Trong hai năm 2012 và 2013, hai vòng đàm phán đã được thực hiện. Với sự kiên trì, nhất quán và khéo léo của ta trong quá trình đàm phán, Hiệp định đã được ký tắt tháng 11/2013, ký chính thức tháng 5/2014, đạt được phương án cao nhất của ta, bảo đảm quyền của Việt Nam theo Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân. Hiệp định đã có hiệu lực ngày 03/10/2014. Việc Hiệp định 123 có hiệu lực sẽ giúp

cho chương trình điện hạt nhân của Việt Nam, đặc biệt trong việc lựa chọn công

nghệ điện hạt nhân cho Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2. Nếu không ký được

Hiệp định 123, ta không thể lựa chọn công nghệ điện hạt nhân có nguồn gốc từ Hoa

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

124

Kỳ. Ngoài ra, Cục ATBXHN còn được giao chuẩn bị và tổ chức ký Thỏa thuận hợp tác hạt nhân với Vương quốc Anh.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

125

IX. Hoạt động thẩm định an toàn dự án điện hạt nhân Ninh Thuận

- Cục đã tổ chức xử lý hồ sơ Báo cáo phân tích an toàn (PTAT) dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 trong Hồ sơ phê duyệt địa điểm và Dự án đầu tư;

- Cục đã tổ chức công tác mời thầu tư vấn quốc tế hỗ trợ thẩm định báo cáo PTAT và Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM): xây dựng Kế hoạch lựa chọn nhà thầu gói thầu “Dịch vụ tư vấn nhằm hỗ trợ Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Tài nguyên và Môi trường trong thẩm định các Báo cáo phân tích an toàn và Báo cáo đánh giá tác động môi trường cho việc Phê duyệt địa điểm và Dự án đầu tư Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1”; Điều khoản tham chiếu (TOR) và Yêu cầu thẩm định Báo cáo Phân tích an toàn (PTAT); Bộ tiêu chí đánh giá năng lực các nhà thầu trong các hồ sơ chào năng lực các nhà thầu tham gia thực hiện gói thầu; tổ chức đánh giá hồ sơ chào năng lực của các nhà thầu tham gia thực hiện gói thầu và trình Bộ KH&CN phê duyệt danh sách ngắn.

- Công tác chuẩn bị năng lực để phục vụ thẩm định: Cục đã đề xuất thành lập 14 nhóm chuyên gia kỹ thuật bao gồm trưởng nhóm, các chuyên gia chủ chốt là các chuyên gia đầu ngành của Việt Nam trong các lĩnh vực có liên quan của Báo cáo PTAT và Báo cáo ĐTM được huy động từ các cơ quan khác nhau ở trong nước. Thông qua nhiệm vụ này, Việt Nam sẽ đào tạo đội ngũ chuyên gia, để trong các dự án điện hạt nhân tiếp theo thì chuyên gia Việt Nam có thể từng bước tự thực hiện được việc thẩm định Báo cáo PTAT và Báo cáo ĐTM.

- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước như EVN, IAEA, Rosatom, Rostechnarzor, Nga, Nhật Bản, Pháp, v.v. tổ chức các hoạt động về đánh giá an toàn địa điểm Dự án ĐHN Ninh Thuận như hội thảo, khảo sát thực tế tại địa điểm.

- Hỗ trợ kỹ thuật, lập kế hoạch chuyên môn, xây dựng báo cáo cho các đoàn công tác Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia kiểm tra thực địa công tác khảo sát của chủ đầu tư và tư vấn cho chủ đầu tư; Hội thảo đánh giá an toàn địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 1 và 2; Hội thảo an toàn lựa chọn địa điểm NMĐHN.

X. Hoạt động của Hội đồng ATHNQG

Cục ATBXHN với vai trò của cơ quan thường trực đã giúp Hội đồng ATHNQG trong các hoạt động chuyên môn để tư vấn giúp Thủ tướng Chính phủ trong chỉ đạo, giải quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành về bảo đảm an toàn dự án điện hạt nhân.

Trong giai đoạn từ năm 2012-2015, đã thực hiện được các nội dung sau:

1. Chuẩn bị nội dung, tổ chức 07 phiên họp của Hội đồng ATHNQG, chuẩn bị văn bản trình Hội đồng thông qua trong các phiên họp trước khi trình Thủ tướng Chính phủ về:

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

126

- Khung văn bản quy phạm pháo luật cho chương trình điện hạt nhân tại Việt Nam; Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.

- Công tác chuẩn bị và tổ chức thẩm định báo cáo phân tích an toàn phục vụ phê duyệt địa điểm và Dự án đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.

- Thảo luận một số chính sách quan trọng về quản lý chất thải phóng xạ, quản lý nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng và một số chính sách liên quan khác.

- Công tác soạn thảo Luật NLNT sửa đổi.

- Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng an toàn và an ninh phục vụ phát triển điện hạt nhân của Việt Nam; Quy hoạch đào tạo phát triển nguồn nhân lực.

2. Chuẩn bị nội dung, tổ chức 06 đoàn công tác khảo sát tại địa điểm dự kiến xây dựng nhà máy điện hạt nhân:

- Kiểm tra, đánh giá công tác khảo sát của chủ đầu tư và nhà thầu tư vấn trong các vấn đề quan trọng liên quan tới an toàn địa điểm để có kết luận phù hợp về các vấn đề đứt gãy, động đất và sóng thần cũng như yêu cầu chủ đầu tư và nhà thầu tư vấn thực hiện các khảo sát bổ sung;

- Kiểm tra, đánh giá và trao đổi về khảo sát khí tượng, thủy văn, hải văn; Tác động của NMĐHN Ninh Thuận 1 và 2 đến con người, môi trường và các hoạt động kinh tế - xã hội tại địa phương; bảo đảm an ninh cho NMĐHN Ninh Thuận 1 và 2 trong các giai đoạn của dự án: chuẩn bị, xây dựng và vận hành; Hệ thống quan trắc phóng xạ môi trường phục vụ triển khai dự án ĐHN Ninh Thuận 1 và 2.

3. Chuẩn bị nội dung, tổ chức 06 đoàn công tác khảo sát, tham quan tại các nước có ngành công nghiệp điện hạt nhân tiên tiến nhằm trao đổi, tham vấn về:

- Xây dựng dự thảo Luật NLNT sửa đổi

- Hoàn thiện các cơ sở hạ tầng an toàn và an ninh hạt nhân phục vụ triển khai dự án điện hạt nhân.

- Xây dựng và thực thi chính sách quốc gia về an toàn hạt nhân nói chung, trong đó có chính sách về chu trình nhiên liệu, quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng, bảo đảm an toàn quản lý chất thải hạt nhân.

- Kinh nghiệm về quản lý các nhà thầu tham gia xây dựng; nguyên nhân làm chậm tiến độ xây dựng và những vấn đề tương tự mà Việt Nam đã và đang gặp phải khi triển khai dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.

5. Tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia về an toàn địa điểm NMĐHN Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2, trong đó tập trung trao đổi về các vấn đề quan trọng còn tồn tại ý kiến trái chiều nhau cần được giải quyết liên quan tới các đới phá hủy kiến tạo, đứt gãy, sóng thần, ...

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

127

6. Tổ chức các cuộc họp của 14 Nhóm chuyên gia trong nhiệm vụ chuẩn bị, tổ chức thẩm định Báo cáo phân tích an toàn và Báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2.

XI. Hoạt động của Tiểu ban An toàn và an ninh hạt nhân

Cục ATBXHN với vai trò của cơ quan thường trực đã giúp Tiểu ban An toàn và an ninh hạt nhân trong các hoạt động chuyên môn liên quan đến việc bảo đảm an toàn dự án điện hạt nhân và xây dựng chính sách về an toàn, an ninh. Trong giai đoạn từ năm 2012-2015 đã chuẩn bị nội dung, tổ chức 03 phiên họp Tiểu ban An toàn và an ninh hạt nhân về các nội dung sau

- Soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ triển khai dự án điện hạt nhân; áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn cho dự án điện hạt nhân Ninh Thuận;

- Công tác chuẩn bị và tổ chức thẩm định báo cáo phân tích an toàn; thanh tra an toàn trong khảo sát địa điểm

- Các biện pháp bảo đảm an ninh và bảo vệ nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2;

- Kế hoạch ứng phó sự cố tại nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2; Tình hình triển khai thực hiện Quy hoạch mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia;

- Kế hoạch triển khai thực hiện các khuyến cáo của Đoàn đánh giá pháp quy tích hợp IRRS-2014 của IAEA và phát triển cơ sở hạ tầng an ninh hạt nhân;

- Tham gia và thực hiện các điều ước quốc tế về an toàn, an ninh, không phổ biến vũ khí hạt nhân và bồi thường thiệt hại hạt nhân;

XII. Hoạt động hợp tác quốc tế

Trong nhiệm kỳ 2011-2016, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) đã tích cực thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động hợp tác quốc tế (HTQT) song phương và đa phương, tập trung chủ yếu vào việc nâng cao năng lực cán bộ, xây dựng cơ sở hạ tầng pháp quy, góp phần củng cố công tác đảm bảo an toàn, an ninh và không phổ biến hạt nhân. Có thể nói, hoạt động HTQT của Cục đang bước vào giai đoạn mới, chú trọng hơn đến chất lượng và hiệu quả hợp tác, đóng góp thiết thực cho các hoạt động quản lý nhà nước của Cục

5.1. Hợp tác đa phương

(1) Hợp tác với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA)

Trong thời gian 5 năm từ 2010 đến 2015, hoạt động hợp tác với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) được đẩy mạnh. Đặc biệt, Cục ATBXHN đã triển khai thực hiện 04 Dự án Hỗ trợ kỹ thuật (IAEA/TC) với IAEA bao gồm:

Dự án VIE/9/010: “Tăng cường năng lực kỹ thuật cho cơ quan pháp quy về an toàn bức xạ và hạt nhân”với mục đích nhằm tăng cường năng lực của cơ quan

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

128

pháp quy hạt nhân của Việt Nam thông qua đào tạo cán bộ chuyên môn của Cục ATBXHN về cả hai mảng quản lý và công nghệ.

Dự án hỗ trợ kỹ thuật VIE9/0/13 “Tăng cường năng lực kỹ thuật an toàn bức xạ và hạt nhân”trực tiếp phục công tác tính toán, thẩm định an toàn.

Dự án VIE/9/014 “Xây dựng cơ sở hạ tầng an toàn hạt nhân phục vụ nhà máy điện hạt nhân đầu tiên” nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng an toàn hạt nhân cho nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận, tập trung vào việc tăng cường năng lực chuyên môn kỹ thuật của Cơ quan pháp quy Việt Nam về an toàn hạt nhân cho nhà máy điện hạt nhân; và tập trung phát triển hệ thống quản lý và ứng phó sự cố hiệu quả trên cả nước.

Từ 2011, Cục ATBXHN đã chính thức tham gia và là đầu mối của Việt Nam điều phối dự án Pilot Programme do Nauy tài trợ kinh phí thông qua IAEA. Theo đó, cán bộ của Việt Nam (hiện tại là Cục, Viện NLNT Việt Nam và EVN) sẽ được đào tạo nâng cao năng lực về thẩm định an toàn thông qua các khóa đào tạo trong nước và ngoài nước về phân tích, thẩm định an toàn.

Triển khai Dự án chung số 3 của IAEA và EU về an ninh hạt nhân: tiếp nhận thiết bị kỹ thuật cho Trung tâm HTKT và UPSC với tổng giá trị gần 180.000 Euro.

Thực hiện trách nhiệm Điều phối viên quốc gia của mạng An toàn hạt nhân Châu Á (ANSN) trong đó Cục đã đề xuất kiện toàn được các thành viên của các nhóm chủ đề trong mạng ANSN (10 nhóm chủ đề); thực hiện đánh giá an toàn tích hợp ISE; cập nhật thông tin cho cơ sở dữ liệu quốc gia trên mạng ANSN cũng như thực hiện các hoạt động thuộc mạng lưới do Việt Nam chịu trách nhiệm.

Cục là đầu mối triển khai 08 Dự án RAS về các lĩnh vực như: an toàn bức xạ, ứng phó sự cố, đào tạo, thông tin…

(2). Hợp tác với Ủy ban Châu Âu (EC)

Đã triển khai thực hiện Dự án hợp tác với EC “Hỗ trợ kỹ thuật nhằm nâng cao khung pháp lý về an toàn hạt nhân và tăng cường năng lực cho cơ quan pháp quy về hạt nhân của Việt Nam và Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật của cơ quan pháp quy” (VN3.01/09) giai đoạn 2012-2015. Với những kết quả tích cực đã đạt được, EC đã chính thức phê duyệt tài chính cho thực hiện dự án giai đoạn tiếp theo.

(3). Hợp tác trong khuôn khổ Sáng kiến CBRN

5.2. Hợp tác song phương

Cục ATBXHN đã có mối quan hệ hợp tác rất chặt chẽ với các đối tác quan trọng của Việt Nam trong chương trình phát triển điện hạt nhân như: Nhật Bản (Tổ chức An toàn năng lượng hạt nhân Nhật Bản JNES, Cơ quan Pháp quy hạt nhân Nhật Bản NRA, Cơ quan Năng lượng nguyên tử Nhật Bản JAEA, …); Nga (Rostechnadzor, Rosatom) ; Mỹ (Cơ quan An ninh hạt nhân quốc gia NNSA

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

129

thuộc Bộ Năng lượng Hoa Kỳ, Cơ quan pháp quy hạt nhân Hoa Kỳ USNRC, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ - Chương trình kiểm soát xuất nhập khẩu); Úc (Tổ chức Khoa học và Công nghệ hạt nhân Úc , Cơ quan An toàn hạt nhân và bảo vệ phóng xạ Úc ARPANSA, Cơ quan Không phổ biến hạt nhân Úc ASNO); và rất nhiều đối tác quan trọng khác của Vương quốc Anh, Hàn Quốc, Pháp, Bulgary, Đức, Slovakia,….

XIII. Hoạt động Đào tạo

- Tổ chức đánh giá thực trạng đội ngũ, thống kê tình hình đào tạo cán bộ và nhu cầu đào tạo và quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của Cục An toàn bức xạ và hạt nhân đến năm 2015 và tầm nhìn 2020.

- Phối hợp với Cục NLNT tiến hành khảo sát về nhu cầu đào tạo trong lĩnh vực NLNT

- Phối hợp xây dựng đề án đào tạo trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tổ chức thực hiện Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhân lực quản lý nhà nước, nghiên cứu - triển khai và hỗ trợ kỹ thuật đến năm 2020 phục vụ phát triển điện hạt nhân.

- Thực hiện Kế hoạch đào tạo sử dụng ngân sách sự nghiệp khoa học hàng năm ở trong và ngoài nước, trong đó hàng năm Cục đều xây dựng kế hoạch đào tạo cụ thể trình Bộ phê duyệt.

- Với việc Bộ cho phép thành lập Trung tâm Thông tin và Đào tạo, hoạt động đào tạo của Cục sẽ được mở rộng, không chỉ đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ Cục và các sở, mà còn có thể triển khai công tác đào tạo sau đại học về an toàn và an ninh hạt nhân.

- Hạn chế chủ yếu hiện nay là việc tổ chức công tác đào tạo chưa được giao về cho Cục tự chịu trách nhiệm đối với nhu cầu của mình mà lại thông qua một đơn vị trung gian.

XIV. Hoạt động nghiên cứu khoa học

11.1. Đối với đề tài cấp Bộ: Cục ATBXHN được phê duyệt và triển khai thực hiện 14 đề tài với tổng kinh phí: 2.595 triệu đồng (Năm 2011); 02 đề tài với tổng kinh phí: 750 triệu đồng(Năm 2012); 12 đề tài với tổng kinh phí: 2.480 triệu đồng (Năm 2013); 07 đề tài với tổng kinh phí: 1.460 triệu đồng (Năm 2014); 05 đề tài với tổng kinh phí: 1.356 triệu đồng (Năm 2015).

11.2. Đối với đề tài cấp nhà nước:

Cục ATBXHN được phê duyệt thực hiện 02 Đề tài độc lập cấp nhà nước về “Nghiên cứu xây dựng quy trình đánh giá liều bệnh nhân và điều tra khảo sát điểm liều bệnh nhân trong X-quang chẩn đoán”; “Nghiên cứu, xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân cấp quốc gia” và 02 Đề tài thuộc Chương trình KC05/11-15 về “Nghiên cứu phân tích an toàn đối với nhà máy điện hạt nhân”; “Nghiên cứu xây dựng quy chuẩn kỹ thuật an toàn hạt nhân và các yêu cầu pháp quy phục vụ thanh tra an toàn nhà máy điện hạt nhân”.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

130

11.3. Nhiệm vụ Nghị định thư:

Hỗ trợ cơ quan pháp quy An toàn bức xạ Lào hoàn thiện hạ tầng pháp quy và nâng cao năng lực kỹ thuật an toàn bức xạ.

Nhìn chung hầu hết kết quả nghiên cứu của các nhiệm vụ khoa học và công nghệ được thực hiện đều phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho công tác quản lý nhà nước của Cục như xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, tham gia công ước điều ước quốc tế trong lĩnh vực hạt nhân, hỗ trợ thẩm định cho dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2. Thông qua đề tài Nghị định thư, Cục ATBXHN đã giúp nước bạn Lào xây dựng Dự thảo Pháp lệnh An toàn và kiểm soát bức xạ, 02 Nghị định về ATBXH và Dự thảo Đề án thành lập cơ quan quản lý an toàn bức xạ và phát triển ứng dụng bức xạ tại Lào. Hạn chế trong việc thực hiện các đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu là chất lượng các đề tài, nhiệm vụ chưa cao, kết quả nghiệm thu chỉ đạt yêu cầu, không có loại khá giỏi.

XV. Công tác tổ chức cán bộ và xây dựng tiềm lực.

Bộ trưởng Bộ KH&CN đã ký Quyết định số 217/QĐ-BKHCN ngày 18/2/2014 ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Cục An toàn bức xạ và hạt nhân thay thế Quyết định 2248/QĐ-BKHCN ký ngày 10/10/2008. Theo đó, mô hình tổ chức của Cục sẽ bao gồm 8 đơn vị quản lý nhà nước là Văn phòng, Phòng kế hoạch và Tài chính, Phòng An ninh và thanh sát hạt nhân, Thanh tra Cục, Phòng Cấp phép, Phòng Tiêu chuẩn An toàn, Phòng Hợp tác quốc tế, Phòng Pháp chế và Chính sách, và ba đơn vị sự nghiệp là Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật an toàn bức xạ hạt nhân và ứng phó sự cố, Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật an toàn bức xạ Thành phố Hồ chí minh và Trung tâm Thông tin và Đào tạo.

Cục đã triển khai các công tác:

Phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ và các cơ quan liên quan trong Bộ trong công tác xây dựng các đề án, tờ trình, dự thảo Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Thanh tra, Quyết định thành lập và kiện toàn tổ chức các đơn vị trục thuộc Cục.

Đã ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ các đơn vị quản lý nhà nước thuộc Cục cũng như Điều lệ tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp trực thuộc.

Kiện toàn, ổn định nhân sự các đơn vị và tiến hành thủ tục bổ nhiệm thủ trưởng của các đơn vị mới thành lập; trình Bộ KH&CN về tuyển dụng cán bộ viên chức; chuyển ngạch công chức-viên chức phù hợp với vị trí việc làm.

Triển khai và phối hợp với Vụ Tổ chức cán bộ thực hiện công tác bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo Cục đến năm 2015 và xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo Cục trong giai đoạn 2016-2021.

Đồng thời với việc kiện toàn lại về tổ chức và cán bộ, Cục đã trình Bộ: Đề án vị trí việc làm của Cục và các đơn vị sự nghiệp thuộc Cục; Dự án đầu tư ODA, dự án đầu tư trung hạn đến 2020 về tăng cường năng lực hỗ trợ kỹ thuật của Cục.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

131

IV. Những vấn đề còn tồn tại lớn

Ngoài các hạn chế của từng lĩnh vực quản lý nhà nước của Cục đã được trình bày ở trên, các vấn đề tồn tại lớn của Cục là như sau:

- Nhân lực của Cục còn thiếu về số lượng, cơ cấu và trình độ cán bộ chưa phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân;

- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị, phương tiện, công cụ hỗ trợ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý nhà nước còn rất thiếu.

- Chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của Cục chưa tương xứng với vai trò, trách nhiệm của một cơ quan pháp quy hạt nhân đã được quy định trong Luật NLNT.

- Cơ chế tài chính và đầu tư cho Cục còn bất cập so với yêu cầu phục vụ công tác quản lý dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.

19.2. Định hướng nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2016-2020

I. Công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm, tiêu chuẩn, quy chuẩn

- Chuẩn bị và trình Quốc hội ban hành Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi cùng với các văn bản dưới luật nhằm giải quyết những bất cập trong Luật NLNT hiện hành.

- Tiếp tục cập nhật và hoàn thiện Khung văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn về điện hạt nhân đáp ứng kịp thời nhu cầu quản lý an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân đối với dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực NLNT

II. Công tác cấp phép

- Hoàn thiện các quy trình, thủ tục cấp phép cho dự án điện hạt nhân, lò phản ứng nghiên cứu; hệ thống quản lý tích hợp của cơ quan pháp quy hạt nhân; cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động cấp phép, ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động cấp phép;

- Tăng cường quản lý, giám sát sau cấp phép, đặc biệt là các dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử như đo liều chiếu xạ cá nhân, kiểm định thiết bị bức xạ, thiết bị ghi đo bức xạ; đào tạo an toàn bức xạ, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ,….

III. Công tác thanh tra

- Tăng cường thanh tra bảo đảm an toàn bức xạ, an ninh nguồn phóng xạ bảo đảm các cơ sở sử dụng nguồn phóng xạ được thanh tra theo tần suất quy định trong Thông tư 19/2010/TT-KHCN; Hoạt động thanh tra ngày càng mang tính chuyên sâu chuyên ngành.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

132

- Tiến hành thanh tra đều đặn hằng năm đối với hoạt động của lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu.

- Thực hiện thanh tra bảo đảm an toàn hạt nhân đối với Dự án ĐHN Ninh Thuận theo quy định và xúc tiến việc thành lập Văn phòng thanh tra tại địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.

- Xây dựng và phát triển lực lượng Thanh tra Cục đủ về số lượng, đạt về chất lượng có kiến thức chuyên sâu, chuyên ngành, nắm vững các quy định pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế để áp dụng trong hoạt động thanh tra bảo đảm an toàn NMĐHN Ninh Thuận.

IV. Công tác quản lý nhà nước về an ninh và thanh sát hạt nhân

4.1. An ninh hạt nhân

- Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển và hoàn thiện cơ sờ hạ tầng an ninh hạt nhân thuộc trách nhiệm của Cơ quan pháp quy hạt nhân.

- Xây dựng năng lực thẩm định hệ thống bảo vệ thực thể của cơ sở phục vụ cấp phép nhà máy điện hạt nhân, lò nghiên cứu và ứng phó sự cố mất an ninh hạt nhân.

- Xây dựng năng lực quốc gia về ngăn chặn buôn bán trái phép vật liệu hạt nhân, vật liệu phóng xạ.

4.2. Thanh sát hạt nhân

- Xây dựng hệ thống thông tin thanh sát hạt nhân để quản lý và xử lý các báo cáo kế toán hạt nhân, các khai báo theo Nghị định thư bổ sung và các thông tin về thanh sát liên quan.

- Xây dựng năng lực thực hiện thanh tra trong nước về không phổ biến hạt nhân.

- Xây dựng hệ thống kế toán và kiểm soát vật liệu hạt nhân tại Cục ATBXHN bao gồm: Hệ thống đo lường vật liệu hạt nhân; Hệ thống đánh giá độ chính xác của các phép đo; Quy trình đánh giá sự khác nhau giữa các phép đo; Quy trình tiến hành kiểm kê thực tế; Hệ thống đánh giá các kiểm kê không đo lường được; Hệ thống hồ sơ, báo cáo theo dõi kiểm kê và dòng vật liệu hạt nhân; Quy trình bảo đảm chất lượng; Quy trình báo cáo cho IAEA.

- Xây dựng Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật về an ninh và thanh sát hạt nhân để hỗ trợ công tác quản lý nhà nước về an ninh và thanh sát hạt nhân.

V. Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động chuẩn đo lường bức xạ; kiểm định và hiệu chuẩn; chiếu xạ nghề nghiệp và phóng xạ môi trường.

- Xây dựng phòng chuẩn đo lường bức xạ cấp I của quốc gia trong khuôn khổ dự án ODA về tăng cường năng lực kỹ thuật cho Cơ quan pháp quy hạt nhân.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

133

- Quản lý hoạt động đo liều chiếu xạ nghề nghiệp theo quy định của pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Tổ chức quản lý hoạt động kiểm định và hiệu chuẩn trong lĩnh vực NLNT phù hợp với thông lệ quốc tế;

- Tổ chức khai xây dựng và quản lý Mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia, bổ sung các trạm, điểm quan trắc phù hợp theo nhu cầu của thực tiễn.

VI. Công tác quản lý nhà nước về ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân

- Phê duyệt hết kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân của các tỉnh thành trong cả nước.

- Phê duyệt và tổ chức diễn tập định kỳ Kế hoạch ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân quốc gia.

- Đầu tư xây dựng năng lực kỹ thuật cho Cục để hỗ trợ cho hoạt động ứng phó sự cố bức xạ.

- Xây dựng được đội ứng phó sự cố chuyên nghiệp của Cục.

VII. Công tác quản lý nhà nước về thông tin, tuyên truyền pháp quy hạt nhân

- Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thông tin pháp quy hạt nhân hàng năm.

- Đầu tư công cụ, phương tiện phục vụ công tác thông tin pháp quy hạt nhân.

- Định kỳ 2 năm một lần tổ chức Triển lãm và Diễn đàn quốc tế về an toàn điện hạt nhân. Duy trì xuất bản hàng năm Báo cáo quốc gia và 4 số tập san Thông tin pháp quy hạt nhân. Xây dựng cơ sở dữ liệu về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân của Việt Nam.

VIII. Công tác quản lý nhà nước các điều ước quốc tế về an toàn, an ninh, thanh sát hạt nhân và bồi thường hạt nhân

- Xây dựng cơ chế phối hợp và phân công trách nhiệm trong tổ chức triển khai thực hiện từng điều ước quốc tế đã ký kết và phê chuẩn.

- Nghiên cứu và đề xuất tham gia các điều ước quốc tế liên quan đến an toàn, an ninh, không phổ biến và bồi thường hạt nhân.

IX. Hoạt động thẩm định an toàn dự án điện hạt nhân Ninh Thuận

- Xây dựng năng lực thẩm định báo cáo phân tích an toàn dự án điện hạt nhân và lò nghiên cứu.

- Tổ chức thẩm định báo cáo phân tích an toàn dự án NMĐHN Ninh Thuận theo lộ trình triển khai dự án.

- Tổ chức thẩm định báo cáo phân tích an toàn dự án lò phản ứng nghiên cứu mới và thẩm định an toàn định kỳ của lò phản ứng hạt nhân Đà lạt.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

134

X. Công tác đào tạo

- Xây dựng nội dung chương trình, tài liệu đào tạo, đội ngũ cán bộ đào tạo, trang thiết bị phục vụ đào tạo và tổ chức thực hiện các khóa đào tạo trong nước cho cán bộ của Cục;

- Chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức hoạt động dịch vụ đào tạo an toàn bức xạ, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho các nhân viên bức xạ, người tiến hành hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử;

- Tiếp tục công tác đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước đối với chương trình phát triển điện hạt nhân cũng như lò phản ứng nghiên cứu mới.

- Thực hiện công tác đào tạo sau đại học về an toàn và an ninh hạt nhân.

XI. Công tác hợp tác quốc tế

1. Tăng cường Hợp tác đa phương với các tổ chức quốc tế: tập trung hợp tác trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực kỹ thuật của cơ quan pháp quy hạt nhân….

2. Hợp tác song phương: tập trung hợp tác trong lĩnh vực cụ thể với mỗi đối tác quốc tế:

- Nâng cao năng lực thẩm định an toàn hạt nhân: USNRC, NRA, GRS, VUJE, RiskEngineering, v.v.

- Nâng cao năng lực quản lý an ninh nguồn phóng xạ: USDOE, Radlot, ANSTO,…

- Tăng cường nhận thức và xây dựng văn hóa an toàn hạt nhân, văn hóa an ninh hạt nhân: IAEA, UK, USNRC…

3. Thiết lập quan hệ hợp tác song phương với các đối tác tiềm năng:

- Hợp tác với cơ quan pháp quy của các quốc gia triển khai điện hạt nhân mới: Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan, UAE…

- Hợp tác với cơ quan pháp quy của các quốc gia có kinh nghiệm và văn hóa an toàn, văn hóa an ninh tốt: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, Pháp, Hàn Quốc, Anh

- Hợp tác với tổ chức hỗ trợ kỹ thuật an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân của các nước có nền công nghiệp hạt nhân phát triển: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc, Pháp, Anh.

XII. Công tác tồ chức cán bộ và xây dựng tiềm lực

- Triển khai thực hiện Đề án tăng cường năng lực và thẩm quyền cho Cơ quan pháp quy hạt nhân.

- Phê duyệt Đề án vị trí việc làm, tuyển dụng và đào tạo đủ đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển của Cục.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

135

- Phê duyệt và tổ chức thực hiện dự án ODA đầu tư năng lực kỹ thuật cho Cơ quan pháp quy hạt nhân sử dụng nguồn viện trợ của Chính phủ Nhật Bản và vốn đối ứng của Chính phủ.

BÁO CÁO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC AN TOÀN BỨC XẠ VÀ HẠT NHÂN NĂM 2015

136

XX. CÁC PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Văn bản pháp quy

Phụ lục 2: Hoạt động cấp phép của Cơ quan pháp quy hạt nhân

Phụ lục 3: Thống kê hoạt động cấp phép của các sở KH&CN các tỉnh

Phụ lục 4: Thống kê danh sách các đơn vị do Cơ quan pháp quy hạt nhân quốc gia thanh tra năm 2015

Phục lục 5: Thống kê danh sách các đơn vị do sở KH&CN các tỉnh tiến hành thanh tra năm 2015

Phụ lục 6: Thống kê về tình hình quản lý liều chiếu xạ của các nhân viên bức xạ trong cả nước (tên nhân viên, đơn vị công tác, số liệu 4 đợt đo liều chiếu)

Phụ lục 7: Thống kê về tình hình hoạt động và bảo đảm an toàn của lò phản ứng hạt nhân Đà lạt

Phụ lục 8: Thống kê về tình hình hoạt động và bảo đảm an toàn của các cơ sở chiếu xạ công nghiệp

Phụ lục 9: Thống kê về tình hình hoạt động và bảo đảm an toàn của các máy gia tốc

Phụ lục 10: Tình hình hoạt động và bảo đảm an toàn của các cơ sở xạ trị và y học hạt nhân

Phụ lục 11: Thống kê về tình hình hoạt động và bảo đảm an toàn của các cơ sở chụp ảnh phóng xạ công nghiệp

Phụ lục 12: Thống kê về tình hình hoạt động và bảo đảm an toàn của các cơ sở quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng