Upload
others
View
8
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG
TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ
Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC
HÀ NỘI - 2020
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG
TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ
Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 62 22 03 09
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS ĐỖ LAN HIỀN
2. TS. TẠ QUỐC KHÁNH
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Đỗ Thị Thanh Hương
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 8
1.2. Những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến luận án 23
Chương 2: NHẬN DIỆN TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ Ở MỘT SỐ
NGÔI CHÙA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 31
2.1. Điều kiện hình thành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ 31
2.2. Đối tượng thờ cúng 55
2.3. Cơ sở thờ tự Tứ vị Thánh tổ 62
Chương 3: THỰC TRẠNG TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ Ở MỘT SỐ
NGÔI CHÙA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 69
3.1. Niềm tin của người dân vào Tứ vị Thánh tổ 69
3.2. Thực hành nghi lễ đối với Tứ vị Thánh tổ 79
3.3. Những biến đổi của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa
vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 97
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM
PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ TRONG
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY 115
4.1. Một vài đặc điểm của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ 115
4.2. Vai trò của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay 130
4.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh
tổ trong đời sống xã hội hiện nay 142
KẾT LUẬN 150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết thường
(AL) Âm lịch
BBPV Biên bản phỏng vấn
NCS Nghiên cứu sinh
GS Giáo sư
NXB Nhà xuất bản
PGS Phó giáo sư
TS Tiến sĩ
Tr Trang
UBND Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
3.1. Mức độ tin của người dân vào Tứ vị Thánh tổ 72
3.2. Mức độ tin của người dân vào sự phù hộ độ trì của Tứ vị Thánh tổ 73
3.3. Tự thừa nhận của người dân vào sự linh thiêng và đã chứng nghiệm 74
3.4. So sánh tỷ lệ giới chứng nghiệm sự linh thiêng của Tứ vị Thánh tổ 74
3.5. So sánh tỷ lệ độ tuổi chứng nghiệm sự linh thiêng của Tứ vị
Thánh tổ 75
3.6. Tần xuất đi lễ Thánh của người dân 79
3.7. Về nghề nghiệp của cá nhân thực hành nghi lễ 89
3.8. Về độ tuổi của cá nhân thực hành nghi lễ 90
3.9. Đánh giá về tình hình an ninh trật tự và vệ sinh môi trường 106
4.1. Vị trí của Tứ vị Thánh tổ trong đời sống tín ngưỡng của người dân 135
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
3.1. Tỷ lệ người dân biết và không biết về Tứ vị Thánh tổ 71
3.2. Mức độ tin của người dân vào Tứ vị Thánh tổ 73
3.3. Mục đích của cá nhân thực hành nghi lễ 94
3.4. Cảm xúc của cá nhân sau khi thực hành nghi lễ 96
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn nghiên cứu
Tứ vị Thánh tổ là bốn vị thiền sư danh tiếng của Phật giáo Việt Nam thời Lý,
gồm Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không, tu
hành đắc đạo, tinh thông ngũ phương, có thể hàng long, phục hổ, hô phong, hoán
vũ, cầu đảo, chữa bệnh,…, sau khi viên tịch các vị được nhân dân kính ngưỡng, thờ
phụng, tôn xưng thành bậc Thánh trong đời sống tín ngưỡng của người dân tại
nhiều địa phương vùng đồng bằng sông Hồng. Việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ đã
hình thành từ lâu diễn ra ở nhiều loại hình cơ sở thờ tự như Đình, Đền, Chùa, tương
ứng với mỗi loại hình đó các vị được tôn thờ là Thành Hoàng, Thần và Thánh.
Trong đó, việc thờ các vị ở chùa và tôn vinh thành bậc Thánh là phổ biến, tạo nên
mô hình chùa "tiền Phật, hậu Thánh", có nhiều giá trị về lịch sử, văn hoá, mang
đậm giá trị bản sắc văn hoá dân tộc.
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ được tích hợp và tiếp biến bởi các yếu tố Mật
giáo trong Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian, phong tục, lễ nghi truyền thống, đây
là nét tiêu biểu trong đời sống tâm linh của người Việt. Trải qua thời gian và biến
thiên của lịch sử, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ vẫn được duy trì, khẳng định vị trí
trong đời sống tinh thần của người dân và có một vị trí riêng trong kho tàng tín
ngưỡng của người Việt, tạo nên những sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc. Những
ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ luôn có sức hấp dẫn, thu hút đông đảo người dân đến
tham quan, chiêm bái, thực hành nghi lễ, cầu xin sự gia hộ của các vị Thánh và tin
tưởng rằng các Thánh sẽ ban sức khoẻ, bình an, tài, lộc và những điều may mắn,
nâng đỡ, hỗ trợ họ vượt qua những bất trắc, khó khăn trong cuộc sống.
Nếu như trước đây, việc thực hành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ chỉ bó hẹp trong
cộng đồng làng xã, đến nay nhờ sự phát triển nhiều mặt của kinh tế - xã hội và sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo, tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ thông qua lễ hội truyền thống đã vượt khỏi quy mô của làng, xã, mở rộng
phạm vi ra liên làng, liên xã, thậm chí mở rộng ra cả vùng đồng bằng sông Hồng.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, việc bảo tồn
và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng
để giữ gìn văn hoá Việt, tìm hiểu tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ có tác dụng làm rõ hơn
tính đặc sắc của một loại hình văn hoá. Tuy nhiên nghiên cứu, tìm hiểu về loại hình
này mới chỉ được quan tâm trong khoảng hai chục năm trở lại đây, các đề tài nghiên
cứu được tiếp cận dưới góc độ sử học, văn hoá học, khảo cổ học, dân tộc học, chủ
yếu đề cập đến cơ sở thờ tự, lễ hội tín ngưỡng của cộng đồng như là loại hình văn
hóa dân gian, chưa có công trình nghiên cứu tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đi sâu tìm
2
hiểu ở khía cạnh về tín ngưỡng, tôn giáo. Để bổ sung cho khoảng trống trong
nghiên cứu, luận án tiếp cận tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ dưới góc độ tôn giáo học,
nhằm nhận diện, đánh giá thực trạng trên ba yếu tố là niềm tin, thực hành và những
biến đổi của tín ngưỡng, từ đó phân tích đặc điểm, vai trò của tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay, để có cơ sở bảo tồn, phát huy giá trị của
tín ngưỡng độc đáo này trong kho tàng văn hóa Việt. Đây là việc làm cần thiết để
mở ra góc nhìn mới trong nghiên cứu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Với những lý
do trên, nghiên cứu sinh (NCS) lựa chọn đề tài "Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một
số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay" làm luận án tiến sĩ chuyên
ngành tôn giáo học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận diện và làm rõ thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi
chùa vùng đồng bằng sông Hồng, luận án chỉ ra và phân tích một số đặc điểm, vai
trò của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội, góp phần nâng cao nhận
thức, đồng thời cho thấy sức sống bền bỉ về mặt thời gian và những ảnh hưởng về
mặt không gian của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, từ đó đưa ra khuyến nghị nhằm phát
huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ qua các yếu tố hình thành,
đối tượng thờ cúng, cơ sở thờ tự.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ qua các
yếu tố niềm tin, thực hành và những biến đổi của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong
đời sống xã hội hiện nay.
Thứ ba, luận án nêu, phân tích đặc điểm, vai trò và đưa ra một số khuyến
nghị nhằm phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội
hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng
hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ xuất hiện từ thời Lý. Sau khi các
vị sư Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không
viên tịch, được triều đình và nhân dân đèn nhang, thờ phụng và tôn vinh thành các
vị Thánh, đã hình thành nên một dòng tín ngưỡng riêng biệt với không gian thiêng ở
vùng đồng bằng sông Hồng, với thời gian thiêng gần mười thế kỷ, từ thời Lý đến
3
tận ngày nay. Vì thế, luận án không nhằm mục đích chứng minh có một loại hình tín
ngưỡng riêng biệt là tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ mà luận án nhận diện tín ngưỡng
Tứ vị Thánh tổ qua điều kiện hình thành, hành trạng của các Thánh, một số ngôi
chùa thờ Thánh tiêu biểu và thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi
chùa vùng đồng bằng sông Hồng, trên cơ sở đó chỉ ra đặc điểm, vai trò, đưa ra một
số khuyến nghị nhằm phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống
xã hội hiện nay.
- Về không gian:
Qua khảo sát ban đầu cho thấy, có hơn 50 ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ rải rác
khắp vùng đồng bằng sông Hồng (có chùa thờ 1 vị có chùa thờ hai vị, có chùa thờ 3
vị và hiện chưa khảo sát được có ngôi chùa nào thờ cả 4 vị, xem phụ lục số 1). Tuy
nhiên, luận án tập trung nghiên cứu ở một số ngôi chùa đặc trưng và mang tính đại
diện như: Chùa Thầy, chùa Láng (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành
Thiện, chùa Cổ Lễ, chùa Nghĩa Xá (Nam Định). Ngoài ra, luận án mở rộng tìm hiểu
một số ngôi chùa khác thờ Tứ vị Thánh tổ để làm luận cứ so sánh như chùa Đại Bi,
chùa Tây Lạc, chùa Lương Hàn (Nam Định), chùa Di Nậu, chùa Tổng, chùa Đồng
Bụt (Hà Nội), chùa Ông (Hưng Yên),…
Căn cứ lựa chọn không gian nghiên cứu:
Thứ nhất, trong sáu ngôi chùa lựa chọn nghiên cứu chính có ba ngôi chùa
được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, các ngôi chùa còn lại đều được xếp hạng di
tích quốc gia hoặc di tích lịch sử văn hoá, có nhiều giá trị về mặt lịch sử, văn hoá,
kiến trúc nghệ thuật và tâm linh.
Thứ hai, các ngôi chùa trong đối tượng nghiên cứu đảm bảo tính đặc thù về
mặt tín ngưỡng: Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ tồn tại trên khắp vùng đồng bằng sông
Hồng, nhưng vùng trung tâm của tín ngưỡng tập trung ở bốn tỉnh Hà Nội, Nam
Định, Thái Bình, Ninh Bình. Kết quả khảo sát thực địa cho thấy việc thờ phụng Tứ
vị Thánh tổ mang tính riêng rẽ, mỗi vị Thánh có vị trí đặc biệt riêng đối với người
dân của từng địa phương, nếu tiếp cận theo không gian văn hoá, hình thành "vùng
trung tâm" và "vùng lan toả", mỗi vị Thánh có mối quan hệ riêng với không gian
văn hoá của từng vùng: Từ Đạo Hạnh được thờ ở nhiều ngôi chùa ở Hà Nội, Hưng
Yên, Nam Định nhưng vùng trung tâm thờ Từ Đạo Hạnh là Hà Nội và việc thờ vị
Thánh này được quy tụ ở hai ngôi chùa nổi tiếng là chùa Thầy và chùa Láng, vào
mùa xuân hàng năm nơi đây trở thành vùng lễ hội thờ Thánh Từ Đạo Hạnh. Dương
Không Lộ được thờ ở nhiều ngôi chùa ở các tỉnh Hà Nội, Thái Bình, Nam Định,
nhưng vùng trung tâm thờ Dương Không Lộ là Thái Bình và Nam Định (trước đây
là vùng Trấn Sơn Nam Hạ), việc thờ tự vị Thánh này được quy tụ về hai ngôi chùa
nổi tiếng chùa Keo Thái Bình và chùa Keo Hành Thiện Nam Định. Nguyễn Giác
4
Hải được phối thờ cùng hai vị Thánh Từ Đạo Hạnh và Không Lộ tại nhiều ngôi
chùa ở các tỉnh Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, nhưng vùng trung tâm thờ Thánh
thuộc về tỉnh Nam Định, ngôi chùa Nghĩa Xá là ngôi chùa đại diện cho việc thờ
Thánh Nguyễn Giác Hải, đây là nơi Thánh tu hành và thành đạo. Thánh Nguyễn
Minh Không được thờ ở nhiều ngôi chùa trên địa bàn khắp các tỉnh ở đồng bằng
sông Hồng như Bắc Giang, Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hải Dương nhưng vùng
trung tâm thờ Thánh thuộc về hai tỉnh Nam Định và Ninh Bình, ngôi chùa Cổ Lễ
(Nam Định) đại diện cho các ngôi chùa thờ Thánh Nguyễn Minh Không.
Thứ ba, các ngôi chùa nằm trong đối tượng nghiên cứu đảm bảo bao quát
không gian ở các vị trí khác nhau của vùng đồng bằng sông Hồng. Như đã trình bày
ở trên, hiện có hơn 50 ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ nằm rải rác khắp vùng đồng
bằng sông Hồng, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Ninh
Bình. Với địa bàn phân bố nêu trên, việc lựa chọn các ngôi chùa ở các vị trí khác
nhau tạo cơ hội cho luận án đưa ra những nhận xét mang tính khách quan. Mặc dù ở
các địa bàn khác nhau nhưng sinh hoạt tín ngưỡng đều liên quan tới Tứ vị Thánh tổ,
có điểm chung về thờ Thánh và ở mỗi cơ sở thờ tự có nét riêng trong biểu hiện.
Việc lựa chọn vị trí nghiên cứu cũng góp phần làm rõ mối quan hệ giữa tín ngưỡng
Tứ vị Thánh tổ với môi trường địa lý và xã hội. Chính vì lẽ đó, luận án sẽ tiến hành
nghiên cứu sâu ở những ngôi chùa như đã trình bày ở trên.
- Về thời gian: Luận án chú trọng tìm hiểu những sinh hoạt tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ từ năm 2003 đến nay (Mốc năm 2003, Nghị quyết số 25/NQ-TW của Ban
Chấp hành trung ương Đảng khoá IX về công tác tôn giáo, đánh dấu thêm một bước
đổi mới trong tư duy nhận thức về tín ngưỡng tôn giáo).
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Luận án dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê`nin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
quan điểm của Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo và vai
trò của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống xã hội.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tín ngưỡng, tôn giáo là hiện tượng xã hội phức tạp, thể hiện ở tính đa dạng,
đa diện và đa chức năng, liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội, vì thế đối với
nghiên cứu tôn giáo không thể dùng một loại phương pháp nghiên cứu riêng biệt
nào, mà cần phải được nghiên cứu bằng hệ thống những phương pháp. Vì thế, luận
án sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, cụ thể:
- Phương pháp phân tích tổng hợp và phân tích hệ thống: Đây là phương
pháp cơ bản và quan trọng được sử dụng phổ biến trong hầu hết các nghiên cứu
khoa học, đặc biệt trong trường hợp khi đối tượng nghiên cứu có mối quan hệ đa chiều
5
với môi trường xung quanh và có những biến đổi theo không gian và thời gian. Luận
án sử dụng phương pháp này nhằm đưa ra bức tranh tổng quát, hệ thống về tín ngưỡng
Tứ vị Thánh tổ. Ngoài ra, tính hệ thống còn được thể hiện ở việc kế thừa các kết quả
nghiên cứu của các công trình trước đây có liên quan được đề cập ở chương Tổng quan.
- Phương pháp thống kê, so sánh, điều tra xã hội học (quan sát, tham dự,
phỏng vấn, điều tra bảng hỏi): Phương pháp này được sử dụng nhằm tiếp cận thêm
một bước với không gian tín ngưỡng, tôn giáo với những ghi chép, khảo tả, thu thập
thông tin từ các địa bàn. Trong quá trình quan sát, tham dự, NCS tiến hành gặp gỡ,
trao đổi, phỏng vấn người dân đến thực hành nghi lễ tại các cơ sở thờ tự, các vị sư
trụ trì, ông Thống, bà Tự những người được cắt cử coi sóc các ngôi chùa mà luận án
đề cập. Nội dung phỏng vấn sẽ là nguồn tư liệu định tính hữu ích, giúp nhận diện rõ
nét hơn về niềm tin và thực hành tín ngưỡng của người dân vùng đồng bằng sông
Hồng. Đồng thời, luận án tổ chức điều tra xã hội học tập trung vào 04 ngôi chùa
mang tính đại diện là chùa Thầy (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Cổ Lễ (Nam
Định) và chùa Nghĩa Xá (Nam Định) với mẫu phiếu dành cho các cá nhân, những
người đến lễ Thánh tại các ngôi chùa trên (Xem phụ lục số 4) để đánh giá về niềm
tin và những thực hành tín ngưỡng của họ. Phải nói thêm rằng, không gian nghiên
cứu là các ngôi chùa ở đó có hai đối tượng thờ là Phật và Thánh, người dân khi đến
lễ ở các ngôi chùa này đều thể hiện niềm tin song song, họ không chỉ tin vào Phật
mà còn tin vào Thánh. Có một điều rất thú vị, khi nói đến chùa chúng ta đều cho
rằng chủ thể chính là Phật và việc thờ Phật là chính yếu và quan trọng nhất, tuy
nhiên ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ lại có nét đặc sắc riêng, đó là phần thờ
Thánh luôn được chú trọng hơn thờ Phật, điều này được thể hiện ở kiến trúc, cách
thức bài trí, sắp xếp, bố cục tổng thể của ngôi chùa và các sinh hoạt tâm linh. Tiếp
nữa, các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ sau khi các vị viên tịch không có sư trụ trì
nên việc đèn hương thờ phụng các Thánh là các ông Thống, bà Tự người làm nghề
thầy cúng, họ được dân làng cắt cử trông coi hương khói trong chùa, điều này cũng
cho thấy yếu tố thờ Thánh được trọng hơn thờ Phật. Trong giới hạn của đề tài NCS
tập trung làm rõ về niềm tin và thực hành của cá nhân người đi lễ đối với vị Thánh
được thờ phụng trong chùa, vì thế mẫu phiếu thiết kế các câu hỏi chỉ tập trung vào
các vị Thánh được thờ ở các ngôi chùa mà luận án tiến hành khảo sát. Mẫu khảo sát
lựa chọn thuận tiện, với tổng số phiếu khảo sát phát ra là 500 thu về là 457 phiếu và
được tiến hành tại Điện Thánh nên tương đối khách quan.
Từ kết quả thu nhận được, luận án sẽ tổng hợp, phân tích các vấn đề cần
nghiên cứu như mô tả về cơ sở thờ tự; làm rõ thực trạng niềm tin của người dân
vùng đồng bằng sông Hồng vào Tứ vị Thánh tổ; mô tả, phân tích những thực hành
tín ngưỡng của cộng đồng, của cá nhân và những biến đổi hiện nay của tín ngưỡng
6
Tứ vị Thánh tổ. Những nhận định, đánh giá, kết luận trong luận án đều có cơ sở
khoa học.
- Phương pháp dân tộc học: Khi tìm hiểu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ,
NCS còn sử dụng phương pháp dân tộc học, thông qua những chuyến đi thực tế đến
các cơ sở thờ tự và tham dự các nghi lễ, lễ hội thờ Tứ vị Thánh tổ, quan sát các hành vi
thực hành nghi lễ của cộng đồng, của các cá nhân diễn ra vào thời điểm lễ hội và các
thời điểm khác trong năm. Phương pháp dân tộc học giúp NCS tìm hiểu sâu hơn và lý
giải về niềm tin và biểu hiện niềm tin thông qua thực hành tín ngưỡng tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ của cộng đồng và của cá nhân những người đến lễ Thánh.
- Phương pháp nghiên cứu văn bản: Phương pháp này nhằm sưu tầm, tập
hợp và hệ thống các tài liệu đã công bố được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến luận án. Các nghiên cứu đi trước
chính là nền tảng khoa học vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn, giúp
cung cấp nền tảng lý luận, phương pháp nghiên cứu, kiến thức, quan điểm để NCS
thực hiện luận án này.
5. Đóng góp mới của luận án
Một là, luận án nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở vùng đồng bằng sông
Hồng thông qua các yếu tố hình thành, đối tượng thờ cúng và cơ sở thờ tự.
Hai là, luận án vận dụng lý thuyết thực thể tôn giáo để nghiên cứu tín
ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trên hai lõi cấu trúc là niềm tin và thực hành tín ngưỡng,
góp phần kiểm chứng mức độ phù hợp của lý thuyết này trong việc nghiên cứu một
loại hình tín ngưỡng độc đáo ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Ba là, cung cấp thêm các cơ sở dữ liệu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở vùng
đồng bằng sông Hồng từ năm 2003 đến nay, góp phần nâng cao nhận thức, từ đó có
một số khuyến nghị nhằm bảo tồn, phát huy giá trị của tín ngưỡng độc đáo này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về điều kiện hình thành và
làm rõ thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh qua hai thành tố niềm tin và thực hành.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là một minh chứng cho sự phù hợp của lý
thuyết thực thể tôn giáo khi được vận dụng để nghiên cứu một loại hình tín ngưỡng
dân gian không đủ các tiêu chí như tôn giáo thể chế.
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ hơn giá trị văn hoá của
dân tộc thông qua việc tìm hiểu về một loại hình tín ngưỡng đó là tín ngưỡng thờ
Thánh, ở đây là những nhân vật lịch sử có thật được "thần thánh hóa", một nét đặc
trưng trong đời sống tín ngưỡng của người Việt.
7
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án làm rõ đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ để các
nhà quản lý về tín ngưỡng có thể tham khảo, từ đó xây dựng chính sách văn hoá,
chính sách tôn giáo hợp lý, nâng cao và phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh
tổ trong điều kiện đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay.
- Luận án cũng gợi mở hướng nghiên cứu mới về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
cho các nghiên cứu tiếp theo thuộc các chuyên ngành tôn giáo học, văn hoá học.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, tài liệu
nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành tôn giáo học và về tín ngưỡng, tôn giáo nói chung.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án gồm 4 chương, 11 tiết.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra trong luận án, việc tổng quan các công trình đã
nghiên cứu liên quan đến tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ nhằm hiểu rõ những nội dung
liên quan đến đề tài mà NCS kế thừa trong luận án và chỉ ra những nội dung chưa
được nghiên cứu, luận án cần làm rõ.
1.1.1. Các công trình nghiên cứu nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về Mật giáo Phật giáo thời Lý
Nghiên cứu về Mật giáo Phật giáo thời Lý được thể hiện trong các công trình
nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam, dưới góc độ triết học, sử học, phật học,
khá phong phú. Trong phần tổng luận này NCS lựa chọn một số nghiên cứu tiêu
biểu, mang tính đại diện:
Tác phẩm "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" của Nguyễn Tài Thư [139], đây là tác
phẩm được viết dưới góc độ triết học, mặc dù được viết theo các dữ liệu lịch sử nhưng
có tư duy khác biệt và trình bày hệ thống, khoa học về lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Chương III của tác phẩm đã khai thác khá toàn diện các dữ liệu lịch sử để làm rõ bức
tranh của Phật giáo thời Lý với những đóng góp to lớn cho chính trị và xã hội đương
thời. Thời kỳ này thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi phát triển từ thế hệ 11 đến thế hệ 19,
trong phương pháp tu tập, hành trì của nhiều nhà sư thể hiện các phép tu Mật giáo, đại
diện tiêu biểu là sư Từ Đạo Hạnh, Trì Bát, Minh Không, Thiền Nham, Giới Không, các
sư thường thi triển phép thuật thần thông để thuần phục ác thú, cầu đảo, chữa bệnh…
Phái Vô Ngôn Thông phát triển từ thế hệ thứ 5 đến thế hệ 15 và cũng chịu ảnh hưởng
của Mật giáo tuy không sâu đậm như phái Tì Ni Đa Lưu Chi, tiêu biểu là các nhà sư
Không Lộ, Giác Hải, Nguyện Học, Tịnh Giới, các sư chuyên tâm nghiên cứu pháp môn
đà la ni, có nhiều phép thuật thần thông như bay trên không, đi dưới nước, cầu mưa cầu
nắng, trì chú. Đến đời vua Lý Anh Tông, Lý Cao Tông tính chất Mật tông tăng lên do
các vị vua này đều sùng tín yếu tố Mật giáo trong Phật giáo.
Tác phẩm "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" của tác giả Lê Mạnh Thát [126], tác
giả đã sử dụng phương pháp đối sánh lịch sử để trình bày diễn biến của lịch sử Phật
giáo thời Lý thông qua các nhân vật tôn giáo để khắc họa đặc điểm và trường phái
cơ bản. Mặc dù tác giả chú trọng đến yếu tố thiền học của cả hai phái Tì Ni Đa Lưu
Chi và Vô Ngôn Thông thông qua các nhân vật lịch sử như Vạn Hạnh, Đa Bảo,
Định Hương, khẳng định sự gắn bó chặt chẽ giữa Phật giáo và triều đình nhà Lý.
Mặc dù không đề cập đến yếu tố Mật giáo ở giai đoạn này một cách rõ nét nhưng
9
tác giả cũng đã không bỏ qua phương thức tu tập hành trì tam muội và đà la ni đó là
những phương thức tu tập của Mật giáo đều xuất hiện ở các hai phái thiền này "Đối
với giới xuất gia vẫn diễn ra lễ thọ giới cụ túc, tu các pháp thiền quán và đầu đà, trì
các tam muội và đà la ni" [tr.678]. Ngoài ra, yếu tố Mật giáo trong Phật giáo thời Lý
được thể hiện trong tác phẩm thông qua việc mô tả, giới thiệu tượng pháp được tôn
thờ ở các chùa: "Trước hết là năm đức Như Lai của Mật giáo gồm có Đa Bảo, Bảo
Thắng, Diệu Sắc Thân, Quảng Bác Thân và Cam Lồ Vương" [tr.691].
Tác phẩm "Việt Nam Phật giáo sử luận" của tác giả Nguyễn Lang [90], đã đề
cập đến Mật giáo trong sinh hoạt tôn giáo của hai phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi và
Vô Ngôn Thông tại chương V và chương VI, yếu tố Mật giáo được coi là đặc điểm của
cả hai phái và khẳng định các vị vua thời Lý đã nhờ tới Mật giáo để được yểm trợ và
che chở. Tác giả cũng nêu cụ thể những vị sư sống ở thời Lý chịu ảnh hưởng của Mật
giáo như: Đạo Hạnh, Trì Bát, Không Lộ, Giác Hải, Nguyện Học. Tác giả khẳng định:
"Mật giáo thịnh hành tại Việt Nam từ những thế kỷ thứ bảy và thứ tám; tuy thiền phái
Vô Ngôn Thông cố sức tự bảo vệ không để Mật giáo thâm nhập (Thông Biện chống
Đại Điên và Bát Nhã) nhưng vẫn không tránh khỏi ảnh hưởng của giáo lý này. Sự kiện
cho ta thấy tầm quan trọng của Mật giáo ở Việt Nam từ ngày Tì Ni Đa Lưu Chi đến
Việt Nam qua Đinh, Tiền Lê cho đến cuối Lý" [tr.183-184].
Tác phẩm "Lịch sử đạo Phật Việt Nam" của tác giả Nguyễn Duy Hinh [57],
tác giả tiếp cận dưới góc độ lịch sử đã chứng minh từ thế kỷ XI đến XIV là thời kỳ
cực thịnh của Phật giáo. Thông qua các sự kiện lịch sử theo biên niên sử của Đại
Việt sử ký toàn thư tác giả đã nêu ra các sự kiện liên quan đến Phật giáo dưới thời
nhà Lý, bắt đầu bằng sự kiện Lý Công Uẩn lên ngôi. Tiếp đến, tác giả đi vào nghiên
cứu từng sơn môn và từng nhà sư, khẳng định trong hoạt động tôn giáo của một số
vị sư mặc dù đều là những thế hệ truyền thừa của hai Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi
và Vô Ngôn Thông nhưng lại không thuần túy thiền sư: "Tư tưởng của Đạo Hạnh
ảnh hưởng Mật giáo dạng Lạt Ma giáo của Tây Tạng với đầu thai, phát hiện đứa trẻ
Phật sống. Đạo Hạnh không phải là thiền sư" [tr.159]; "nhà sư Thiền Nham thuộc
truyền thống sơn môn Dâu với đặc điểm trì tụng đà la ni, cầu mưa, không phải là
thiền sư" [tr.163]; "Không Lộ không phải thiền sư, ông chuyên thần chú và có pháp
thuật thuộc truyền thống sơn môn Dâu hơn là sơn môn Kiến sơ" [tr.246]; "Giác Hải
không phải là thiền sư mà là pháp sư" [tr.282]. Tác phẩm là một kênh tham khảo
hữu ích của luận án.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về hành trạng của Tứ vị Thánh tổ
Nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ thông quan việc nghiên cứu hành trạng
của các Thánh cũng được thể hiện qua nhiều tác phẩm và chủ yếu được tiếp cận
dưới góc độ sử học, tiêu biểu phải kể đến:
10
Bộ chính sử "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" của Nhà xuất bản Văn hoá thông tin
[104; 105]. Trong phần biên soạn về giai đoạn lịch sử thời Lý, có những tư liệu lịch
sử về Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không [104, tr.342, 376, 384], vì là văn bản
chính sử nên đã lược bỏ đi nhiều tình tiết ly kỳ về hành trạng của Tứ vị Thánh tổ,
nhưng với việc những vị thiền sư của Phật giáo và hoạt động tôn giáo của họ trở thành
một sự kiện văn hoá, được đưa vào trong chính sử cho thấy sự ảnh hưởng của Tứ vị
Thánh tổ đối với triều đình nhà Lý. Tư liệu ít ỏi về các vị Thánh được nêu trong tài liệu
này đặt nền móng cho việc nghiên cứu tìm hiểu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ.
Tiếp đến là tác phẩm "Việt Điện U Linh tập lục toàn biên những câu chuyện
thần linh cổ nhất nước ta" của Sống Mới [114], đây là bộ huyền sử của Việt Nam
viết về những câu chuyện thần linh cổ xưa của nước Việt, tài liệu ghi chép về những
huyền sử của các vị Thần được phụng tự trong đình, chùa với nhiều tình tiết ly kỳ,
nhuốm mầu huyền bí, nhưng đã biểu hiện được một phần dân tộc tính với màu sắc
rất Việt, tại trang 199 viết về sự tích sư Từ Đạo Hạnh "Từ Đạo Hạnh đại Thánh sự
tích thực lục". Tác phẩm là một kênh để tìm hiểu về hành trạng của một trong Tứ vị
Thánh tổ thời Lý là Từ Đạo Hạnh, nhân vật lịch sử được huyền thoại hoá, dân gian
hoá, nhưng vẫn phảng phất đâu đó là một con người bình dị, gần gũi với đời.
Không thể không nhắc đến tác phẩm "Thiền Uyển Tập Anh" [107], được ghi
vào đời Trần, ghi chép lại tiểu sử và các tông phái thiền học từ cuối thời Bắc thuộc
cho đến các thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Tác phẩm ghi chép khá chi tiết về tiểu sử, hành
trạng của Tứ vị Thánh tổ. Trong đó, Từ Đạo Hạnh [tr.197] và Nguyễn Minh Không
[tr.213] thuộc về thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Nguyễn Giác Hải [tr.138] và Dương
Không Lộ [tr.105] thuộc về thiền phái Vô Ngôn Thông. Tác phẩm giúp cho việc
đánh giá những đóng góp của Tứ vị Thánh tổ đối với Phật giáo, triều đình và nhân
dân trong một giai đoạn lịch sử của dân tộc.
Các sử gia triều Nguyễn cũng rất quan tâm đến tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ,
thể hiện qua tác phẩm "Đại Nam Nhất Thống Chí" của Nhà xuất bản Thuận Hoá
[43; 44], đây là tác phẩm tổng hợp nghiên cứu về địa lý - lịch sử,…. Sự tích và các
ngôi đền thờ Tứ vị Thánh tổ đều được ghi chép ở trong các mục Đền Miếu, Chùa
quán, Tăng ở các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, thể hiện rõ nét tại tập 3 của
tác phẩm này. Cụ thể: phần viết về tỉnh Hà Nội trong mục Tăng có viết "Từ Lộ tự là
Đạo Hạnh, người trại Yên Lãng huyện Thanh Trì, tu ở chùa Phật Tích huyện Yên
Sơn, là cao tăng đời Lý" [44, tr.232], phần viết về tỉnh Ninh Bình, trong mục Đền
Miếu có nói đến hai vị thiền sư đời Lý là Nguyễn Giác Hải và Nguyễn Minh Không
cả hai cũng đều là những vị sư tu hành vào thời Lý, tinh thông phép thuật, "một năm
gặp đại hạn, nhà sư lấy giấy dán vào cái giỏ bằng tre, ra sông xách nước tưới vào
ruộng thành vũng bàn chân, nước ở vũng ấy chảy ra bốn phía, nước chảy đến đâu
11
đều thành khe, ngòi, nhân dân được nhờ" [44, tr.274]. Phần về tỉnh Nam Định, mục
Chùa quán viết về chùa Thần Quang "trước là Nghiêm Quang ở xã Dũng Nhuệ,
huyện Giao Thuỷ là nơi trụ trì của Dương Không Lộ, nay vẫn hiển linh phàm cầu
đảo về việc thuỷ hạn tai thương đều ứng nghiệm" [44, tr.357], mục Tăng có ghi
chép về thiền sư Không Lộ và Giác Hải giống như Lĩnh Nam Chích Quái [tr.370].
Tác phẩm đã ghi chép sơ lược về tiểu sử của bốn vị thiền sư thời Lý và những nơi
thờ tự họ cho thấy các vị được thờ tự ở hai loại hình di tích là Đền và Chùa.
Tác phẩm "Nam Hải Dị Nhân" của tác giả Phan Kế Bính [20], tác phẩm trở
thành bộ sưu tập nổi tiếng về các truyền tích và dã sử ở nước ta. Trong chương viết về
các vị tiên tích đã trình bày về thân thế sự nghiệp của hai vị Từ Đạo Hạnh [tr.153-158]
và Nguyễn Minh Không [tr.158-161]. Qua lối kể chuyện mộc mạc, hình ảnh của hai vị
hiện lên đều là những bậc kỳ tài " (…) từ bấy giờ pháp lực càng lấn tới, nội là rắn độc
trong núi, hùm dữ trên rừng cũng có phép sai khiến được" [tr.155]. Câu chuyện về Đạo
Hạnh và Minh Không cũng gần với các tác phẩm đã nêu trên hầu như ít có dị biệt.
Tác phẩm "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận" của tác giả Nguyễn Lang [90]. Tác
phẩm đã miêu tả về pháp thuật của thiền sư Từ Đạo Hạnh giống như những miêu tả
trong Thiền Uyển Tập Anh, cho thấy sự ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố Mật giáo
trong hoạt động tôn giáo của vị sư này: "… từ đó pháp lực càng tăng, duyên thiền
càng chính, có thể sai sử điều phục sơn đà dã thú, cầu mưa, cầu tạnh, chú thuỷ trị
bệnh không gì là không ứng nghiệm" [tr.139].
Tác phẩm "Chùa Keo" của tác giả Bùi Duy Lan, Phạm Đức Duật [86]. Đây
là tác phẩm chuyên khảo về ngôi chùa Keo (Thái Bình). Tại phần I, hai tác giả đặc
biệt chú ý đến tìm hiểu về lịch sử ngôi chùa và sự tích thiền sư Dương Không Lộ,
dựa trên nhiều tài liệu trong đó dựa vào cuốn sách "Quốc sư Bảo lục" của tiến sĩ
Đặng Xuân Bảng để so sánh và đối chiếu với các tài liệu khác có liên quan đến
thiền sư Dương Không Lộ, chỉ ra nguyên nhân gây nhầm lẫn và giải thích nhiều vấn
đề liên quan đến sự tích về hai vị thiền sư Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không.
Từ đó tác giả đi đến kết luận: (i) Không Lộ là đạo hiệu của một nhà sư có thật ở thời
Lý; (ii) Không Lộ và Minh Không là hai người khác nhau [tr.23]. Tác giả cũng đã chỉ
ra nguyên nhân của sự nhầm lẫn giữa hai vị sư này là do sự tích của hai vị sư có nhiều
điểm tương đồng: (i) Cả hai người đều chữa bệnh cho vua nhà Lý, Không Lộ chữa
bệnh sợ tiếng tắc kè kêu của vua Lý Nhân Tông, Minh Không chữa bệnh hoá hổ cho
vua Lý Thần Tông; (ii) cả hai đều được phong làm Quốc sư; (iii) Minh Không cũng
tu học ở chùa Diên Phúc, sau đổi tên là Viên Quang nơi mà Không Lộ, Giác Hải
trước đó đã từng tu [tr.23-24]. Tác phẩm thể hiện tinh thần nghiên cứu công phu,
nghiêm túc, đã làm sáng tỏ một số vấn đề còn nhầm lẫn giữa hai vị thiền sư nổi tiếng
là Không Lộ và Minh Không.
12
Tác phẩm "Từ Đạo Hạnh Trần Nhân Tôn những trái chiều lịch sử" của
Nguyễn Mạnh Cường, Đinh Viết Lực, Nguyễn Đức Dũng [30]. Tác phẩm gồm 5
chương. (i) Khái lược về đời sống tâm linh của người Việt thời Lý; (ii) Thiền sư Từ
Đạo Hạnh từ nhà sư tới nhà Vua; (iii) Vài nét về đời sống tâm linh của người Việt
thời Trần; (iv) Trần Nhân Tông từ nhà Vua tới nhà sư; (v) Những vấn đề lịch sử
đang đặt ra. Tác phẩm tiếp cận vấn đề dưới góc độ lịch sử.
Sự trái chiều của lịch sử chính là sự hình thành tu luyện và cung cách làm
vua của mỗi người, Từ Đạo Hạnh là từ một nhà sư đến nhà vua còn Trần Nhân
Tông là từ nhà vua đến nhà sư. Việc nhà sư đến nhà vua thông qua hình tượng Từ
Đạo Hạnh chính là cuộc chiến giành giật ngôi vua của hai thế lực tôn giáo là Phật giáo
và Đạo giáo. Trong cuộc chiến này Phật giáo chiếm ưu thế, vương quyền và thần
quyền lúc này trở thành một và không có sự tách bạch. Còn Trần Nhân Tông lại có
hành trình ngược lại đó là đi từ nhà vua đến nhà sư và lập ra phái thiền mới nhằm mục
đích tạo ra một liên minh để cố kết cộng đồng, nêu cao tinh thần đoàn kết của người
dân Đại Việt nhằm chống giặc ngoại xâm, đồng thời tách bạch thần quyền ra khỏi
vương quyền nhằm trả lại cho vua quyền thế tục là để cai trị và xây dựng đất nước. Tác
phẩm đã đưa ra những sự kiện lịch sử, cùng với đó là những đối sánh lịch sử nhằm
làm rõ hơn đời sống tín ngưỡng của người Việt dưới thời Lý, Trần.
Dưới ngòi bút của các sử gia, nhận diện về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ thông
qua việc nghiên cứu về hành trạng của Tứ vị Thánh tổ được thể hiện khá chi tiết. Họ
đều là những bậc kỳ tài, tinh thông về học thuật, đạo pháp, có công với đạo và đời,
được nhiều đời sau ghi nhớ công trạng, trong hoạt động tôn giáo của họ mang đậm
yếu tố Mật giáo. Cũng qua hành trạng và hoạt động tôn giáo của các sư cho thấy sự
tồn tại của một nền văn hoá Phật giáo đặc biệt là yếu tố Mật giáo Phật giáo trong
lịch sử dân tộc và những đóng góp của Phật giáo trên các mặt của đời sống xã hội.
Phật giáo thời Lý đã đóng góp cho dân tộc nhiều bậc kỳ túc cao tăng, tham gia
mạnh mẽ vào đời sống thế tục, duy trì những hoạt động tâm linh. Mặt khác cũng
cho thấy những tác động của Phật giáo đối với đời sống tín ngưỡng của người Việt,
ảnh hưởng của yếu tố Mật trong Phật giáo đối với Tín ngưỡng dân gian.
1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ
Đây là lĩnh vực cũng được nhiều nhà khoa học tập trung khai thác và tiếp cận
dưới góc độ khảo cổ học tôn giáo, kiến trúc, mỹ thuật, văn hoá học, có thể kể đến một
số công trình tiêu biểu:
Tác phẩm "Chùa Việt Nam"của nhóm tác giả Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự,
Phạm Ngọc Long [121]. Tác phẩm được chia thành 2 phần: (i) Chùa Việt Nam,
trong đó giới thiệu khái quát về những ngôi chùa Việt, từ việc chọn đất phải là nơi
đắc địa, các vật liệu sử dụng, lối kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, Tam hay kiểu chữ
13
Công để xây dựng chùa, cách bài trí tượng thờ trong các ngôi chùa. Một nội dung
lớn nữa được trình bày trong phần này là Chùa Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, sự
quan tâm của triều đình phong kiến đối với Phật giáo thông qua việc cho xây dựng
chùa, sự khác nhau trong lối kiến trúc, (ii) tác phẩm giới thiệu khái lược và kèm
theo hình ảnh minh họa về 118 ngôi chùa của 61 tỉnh, thành trong cả nước, trong đó
có một số chùa thờ các vị Thánh Tổ như chùa Lý Quốc Sư [tr.102]; chùa Thày, chùa
Láng [tr.122]; chùa Keo [tr.230]; chùa Cổ Lễ [tr.270]; chùa Bái Đính [tr.302].
Tác phẩm "Chùa Việt" của tác giả Trần Lâm Biền [18]. Ngôi chùa là nơi kết
tụ tinh thần của người Việt và ngôi chùa cũng cõng trên lưng bao vấn đề của lịch sử
dân tộc, đây không chỉ là nơi người dân gửi gắm mối liên hệ với thần linh qua các
nghi lễ mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân cư. Tác phẩm đã hướng
người đọc theo từng bước: Diễn biến của ngôi chùa Việt; Văn hóa - Hướng - Bố cục
chung trong các ngôi chùa thông qua các vấn đề như kiến trúc, thế đất, cấu trúc bộ
khung và giới thiệu một số ngôi chùa qua các thời.
Tác giả viết về chùa Thầy nơi thiền sư Từ Đạo Hạnh tu hành và hoằng pháp
"việc thờ Từ Đạo Hạnh là nhu cầu căn bản của người chùa Thầy, chùa Láng (Hà
Nội). Đây là một phản ánh tâm thức dân dã để khẳng định về yếu tố dung hội giữa
Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, đồng thời biểu hiện một hướng đi của tư tưởng
Việt" [tr.125]. Công trình có nhiều thông tin khoa học đem đến cho người đọc
những hiểu biết về lịch sử, kiến trúc, cách thức bài trí thờ tự, dấu ấn Mật tông biểu
hiện ở các pho tượng, khám thờ và đời sống tín ngưỡng của người dân xung quanh
ngôi chùa Thầy. Tác giả cũng đã khẳng định về sự dung hợp giữa yếu tố Mật trong
Phật giáo với Tín ngưỡng dân gian thể hiện qua ngôi chùa này.
Tác phẩm "Chùa Bối Khê nhìn từ khảo cổ học Phật giáo" của tác giả Nguyễn
Quốc Tuấn [151]. Tác phẩm gồm 4 chương, trong chương 4, đã trình bày về các loại
chùa tiền Phật, hậu Thánh ở miền Bắc Việt Nam và đưa ra nhận định, cấu trúc bình
đồ tiền Phật, hậu Thánh hình thành mà biết rõ được là vào cuối thế kỷ 17, định hình
vào thế kỷ 18 và được duy trì cho đến thời Nguyễn. Tác giả đã so sánh về cấu trúc
của chùa Bối Khê (Đại Bi) với hai ngôi chùa tiền Phật, hậu Thánh đặc sắc ở miền
Bắc đều mang tên Keo ở Nam Định và Thái Bình để chỉ ra những điểm chung và
những điểm khác biệt giữa các ngôi chùa. Không dừng lại ở đó, tác giả còn so sánh
chùa Bối Khê với bảy ngôi chùa thờ Thánh khác đều ở miền Bắc trên bình diện kỹ
thuật, ý nghĩa và đặc điểm của các thành phần kiến trúc, nghệ thuật tạo tượng,... Tác
phẩm dưới góc độ nghiên cứu về khảo cổ chủ yếu tìm hiểu về kiến trúc, di vật và niên
đại thông qua việc nghiên cứu một di tích tôn giáo cụ thể đó là chùa Bối Khê với việc
thờ Thánh Nguyễn Bình An, một nhân vật tôn giáo dưới thời nhà Trần, thông qua đó
minh chứng tính hỗn hợp tôn giáo giữa Phật giáo, Đạo giáo, bản địa hoá tôn giáo du
nhập ở người Việt trong lịch sử.
14
Tác phẩm "Chùa Thầy (Thiên Phúc Tự)" của tác giả Nguyễn Văn Tiến [136].
Trên cơ sở Luận án tiến sĩ sử học chuyên ngành khảo cổ học, tác giả đã sửa đổi, bổ
sung để ra mắt bạn đọc. Chùa Thầy được nghiên cứu dưới góc độ khảo cổ học nhằm
làm rõ những đặc trưng về kiến trúc, nghệ thuật trang trí, nghệ thuật điêu khắc đồng
thời qua đó cũng làm sáng tỏ thái độ của các triều đại phong kiến đối với Phật giáo và
thấy được vị trí của chùa Thầy trong lịch sử của Phật giáo Việt Nam. Mặt khác, chùa
Thầy còn được nghiên cứu trong mối tương quan với các ngôi chùa "tiền Phật hậu
Thánh" để đi đến nhận định chùa Thầy là khởi nguồn của những ngôi chùa có kiểu
"tiền Phật hậu Thánh" ở vùng đồng bằng sông Hồng. Tác phẩm đã góp phần làm rõ nét
hơn về chùa Thầy, ngôi chùa ngoài thờ Phật còn thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh một vị
thiền sư nổi tiếng dưới thời Lý ở cả ba kiếp vi Tiên, vi Phật, vi Quốc vương, giúp độc
giả nhận thức sâu sắc về giá trị văn hóa của dân tộc được biểu hiện qua ngôi chùa.
Chùa Thầy không chỉ làm phong phú thêm cho các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ mà
còn góp phần làm phong phú thêm giá trị lịch sử và văn hoá Phật giáo Việt Nam.
Tác phẩm "108 Danh lam cổ tự Việt Nam" của tác giả Võ Văn Tường [155].
Đây là một cuốn sách ảnh, gồm 838 bức ảnh giới thiệu các ngôi chùa ở 33 tỉnh, thành
phố, từ các ngôi chùa cổ ở miền Bắc, miền Trung cho đến những ngôi chùa mang nét
kiến trúc hiện đại ở miền Nam và những hình ảnh về chi tiết kiến trúc trang trí bên
trong ngôi chùa, kèm theo đó là những giới thiệu vắn tắt về lịch sử của từng ngôi chùa,
trong đó có giới thiệu về chùa Lý Quốc Sư, chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), chùa Thần
Quang (chùa Keo).
Tác phẩm "Chùa Keo" của tác giả Bùi Duy Lan, Phạm Đức Duật [86]. Tại
phần II, đã tìm hiểu về kiến trúc của ngôi chùa Keo qua hai không gian thờ tự là Điện
Phật và Điện Thánh cùng với một số hạng mục kiến trúc khác như Gác Chuông, một số
tượng thờ và những cổ vật quý ở chùa Keo có những giá trị tiêu biểu.
Cũng nghiên cứu về chùa Keo còn có "Chùa Keo Lịch sử và Nghệ thuật kiến
trúc" của tác giả Đặng Hữu Tuyền [156]. Công trình tiếp cận chùa Keo ở góc độ
khảo cổ học, phân tích về lịch sử xây dựng chùa, kiến trúc của chùa Keo và chỉ ra
những đặc điểm về kiến trúc của ngôi chùa nổi tiếng này, đồng thời tác giả cũng
đưa ra những nhận định: chùa Keo là một công trình có quy mô lớn và bố cục chặt
chẽ; chùa Keo là một phức hợp kiến trúc độc đáo trong kiến trúc Phật giáo ở Việt
Nam; đây là công trình kiến trúc phản ánh các giá trị lịch sử văn hoá mạnh mẽ.
Luận án tiến sĩ "Những ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh ở vùng Châu thổ Bắc
Bộ" của tác giả Phạm Thị Thu Hương [71]. Thông qua hình thức khảo tả về kiến trúc
và di vật, luận án đã chỉ ra một số đặc điểm về kiến trúc của những ngôi chùa "tiền
Phật hậu Thánh" trong đó có một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ như chùa Thầy (Hà
Nội), chùa Ông (Hưng Yên), chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành Thiện (Nam
15
Định), chùa Điềm Giang (Ninh Bình). Tác giả cho rằng, các ngôi chùa này đều là dạng
kiến trúc Phật giáo đặc biệt và chỉ xuất hiện phổ biến ở vùng châu thổ Bắc Bộ, bởi đây
là cái nôi của người Việt, nơi hình thành và nuôi dưỡng tâm hồn văn hoá Việt, nơi bảo
tồn những phong tục tập quán tín ngưỡng mà các địa bàn khác không thể có được
[tr.91], điểm khác biệt của chùa "tiền Phật hậu Thánh" thể hiện ở hệ thống di vật đặc
sắc như ngai thờ, khám thờ, kiệu, bát bửu, lỗ bộ… và nhất là hệ thống sắc phong-loại di
vật hầu như không xuất hiện trong những dạng chùa khác" [tr.109]. Luận án đã đưa ra
những nhìn nhận về chùa "tiền Phật hậu thánh" từ một số phương diện như trong lịch
sử tư tưởng của người Việt và bản sắc văn hóa Việt.
Tác phẩm "Sáng giá chùa xưa, Mỹ thuật Phật giáo" của tác giả Chu Quang Trứ
[141]. Ngôi chùa là văn hoá vật thể có sớm nhất và gắn bó sâu sắc với nhân dân, là
không gian thiêng của làng quê, là điểm hội tụ và toả sáng của văn hoá dân tộc. Trong
phần II của tác phẩm viết về một số ngôi chùa và các di vật đặc sắc trong đó có bài viết
về Chùa Thầy - niềm hạnh phúc trời ban [tr.162-175]; Nét đẹp chùa Keo [tr.201-228].
Với bài viết Chùa Thầy - niềm hạnh phúc trời ban, cho thấy chùa Thầy được
dựng từ thời Đinh, và các triều đại tiếp theo đã tu bổ để mở rộng quy mô, chùa gắn
liền với làng quê thanh bình, không gian ngôi chùa hoà hợp với nội dung thờ tự
Phật và Thánh Từ. Chùa vốn không có sư, sau thiền sư Từ Đạo Hạnh chỉ có các ông
Thống trông nom chùa. Chùa Thầy là một công trình kiến trúc hàng đầu trong di sản
nghệ thuật cổ truyền của dân tộc.
Với bài viết Nét đẹp chùa Keo, ngôi chùa Keo cổ đã tách thành hai chùa ở
hai bên bờ sông Hồng thuộc hai tỉnh Nam Định và Thái Bình hiện nay, hai ngôi
chùa này vẫn giữ được vị thế đại danh lam, biểu hiện đặc trưng của văn hoá dân tộc,
nơi đây thờ thiền sư Dương Không Lộ là nhân vật lịch sử thời Lý nhưng cuộc đời
đầy tính huyền thoại là nhà sư nhưng cũng là dân chài, là thầy thuốc, là đạo sỹ.
Giống như chùa Thầy hai ngôi chùa này đều không có tháp mộ sư, việc chăm sóc
ngôi chùa do dân làng cắt cử thay phiên nhau, còn việc hành lễ do các ông thầy
cúng trong làng thực hiện.
Cả hai bài viết về hai ngôi chùa đều đi từ lịch sử cho đến hiện tại, không chỉ
dừng lại ở kiến trúc, mỹ thuật, các di vật trong chùa mà còn là đối tượng thờ cúng
đó là hai nhân vật Phật giáo thiền sư Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ và đời sống
tín ngưỡng của người dân trong vùng biểu hiện thông qua lễ hội truyền thống. Qua
đó thấy lớp văn hoá Phật giáo đã giao hòa với lớp văn hoá cổ truyền của dân tộc.
Đây là những nét văn hoá đặc sắc trong các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ và chính
những ngôi chùa là nơi hội tụ và lan tỏa những nét văn hoá đặc sắc đó.
Kỷ yếu hội thảo khoa học "Chùa Thầy và chư Thánh tổ sư" của Ban Văn hoá
Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Viện Nghiên cứu Tôn giáo [14]. Tác
16
phẩm là tập hợp gồm 50 bài viết của nhiều tác giả với nhiều cách tiếp cận khác
nhau, với cách nhìn đa chiều đã tạo ra một bức tranh đa dạng về chùa Thầy. Hội
thảo tập trung vào bốn chủ điểm: Bối cảnh Phật giáo triều Lý với xứ Đoài; Chùa
Thầy trong lịch sử và hiện tại; Sự nghiệp của Thánh tổ Từ Đạo Hạnh; Chư Tổ và cố
Hòa thượng Thích Viên Thành gắn bó với chùa Thầy.
Kỷ yếu Hội thảo là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, khẳng định Phật giáo thời
Lý đã mang đến cho dân tộc thế đứng văn hoá, tinh thần độc lập, tự chủ. Phật giáo càng
thêm gần gũi với nhân dân khi các bậc tu hành được Thánh hoá trở thành một phần của
tín ngưỡng dân gian và bất tử trong tâm hồn người Việt. Mặt khác, tác phẩm cũng
khẳng định vị trí, vai trò của chùa Thầy gắn liền với thiền sư Từ Đạo Hạnh, góp phần
tạo nên sự toả sáng của Phật giáo thời Lý và Phật giáo Việt Nam trong dòng chảy lịch
sử. Chùa Thầy cũng là nơi sản sinh ra lễ hội độc đáo tạo nên một lễ hội của vùng, của
miền được lưu truyền từ ngàn xưa thể hiện giá trị văn hoá của dân tộc.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về niềm tin, thực hành và những biến đổi
của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
Đây là một phần trong nội dung nghiên cứu còn nhiều khoảng trống, riêng phần
nghiên cứu về niềm tin và những biến đổi trong thực hành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
hầu như chưa có đề tài nào tiếp cận mà phần lớn các đề tài được khai thác dưới góc độ
văn hoá học và chủ yếu nghiên cứu về những sinh hoạt tín ngưỡng của cộng đồng
thông qua các lễ hội truyền thống, cụ thể:
Tác phẩm "Nếp cũ - Hội hè đình đám" (quyển Thượng) của tác giả Toan Ánh
[4] viết: "hội hè đình đám của dân chứng tỏ ý niệm thiêng liêng tôn giáo của người
dân qua nghi lễ, nêu cao lòng biết ơn của người dân đối với các bực anh hùng đất
nước cũng như đối với các vị thần linh, nhất là các vị Thành Hoàng đã che chở phù
hộ cho dân mỗi xã và nhất là đã từng là những dịp để người dân ôn lại lễ nghi, nhớ
lại phong tục" [tr.7]. Tác giả giới thiệu về Sài Sơn và lễ hội chùa Thầy với hai nội
dung cần chú ý (i) sự tích ông Từ Đạo Hạnh và vua Lý Thần Tôn, (ii) Hang Thánh
hóa và di tích của ông Từ Đạo Hạnh.
Tác phẩm "Lễ hội Việt Nam" của tác giả Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý [168],
giới thiệu về hơn 300 lễ hội tiêu biểu của nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Tác
phẩm có đề cập đến hội chùa Láng và nhân vật Từ Đạo Hạnh, với các sự tích, câu
chuyện ly kỳ nhuốm mầu huyền thoại đã góp phần làm cho lễ hội chùa Láng trở nên
vô cùng hấp dẫn. Gắn với sự tích thiền sư Từ Đạo Hạnh còn có lễ hội chùa Thầy với
sự kiện Ngài hóa Phật, hội chùa Thầy thể hiện niềm ao ước về cuộc sống tốt đẹp và
cũng là thể hiện đạo lý nhớ nguồn của dân tộc. Tác phẩm còn giới thiệu về lễ hội chùa
Keo Thái Bình, chùa Keo Nam Định gắn với vị thánh Dương Không Lộ, những nét đặc
trưng trong cuộc đời của vị thiền sư này được tái hiện thông qua nghi lễ tôn giáo, một
số tập tục cổ truyền và những hình thức biểu diễn nghệ thuật dân gian.
17
Tác phẩm "Lễ hội Việt Nam" của tác giả Vũ Ngọc Khánh [79], giới thiệu về
những lễ hội tiêu biểu của cả ba miền Bắc, Trung và Nam, trong đó có lễ hội chùa
Thầy (Hà Nội) và chùa Keo (Thái Bình). Lễ hội chùa Thầy được tổ chức vào tháng
3 âm lịch (AL) hàng năm nhằm tưởng niệm sư Từ Đạo Hạnh, "lễ hội diễn ra là sự
hòa hợp giữa tín ngưỡng dân gian, Phật giáo và Đạo giáo" [tr.31]. Lễ hội chùa Keo
(Thái Bình) được diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 13 - 15/9 (AL) hàng năm để suy tôn
thiền sư Không Lộ, "lễ hội phản ánh được lối sống của vùng dân cư ven sông mang
màu sắc văn hóa nông nghiệp của đồng bằng Bắc Bộ" [tr.105]. Cuốn sách đã cho
thấy diện mạo chung của lễ hội Việt Nam, các lễ hội này đều mang đậm tính lịch
sử, văn hóa, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn và là nhu cầu không thể thiếu của
cộng đồng dân cư.
Tác phẩm "Đạo Thánh ở Việt Nam" của tác giả Vũ Ngọc Khánh [78], nghiên
cứu về tín ngưỡng thờ Thánh. Dưới góc nhìn của nhà nghiên cứu văn hoá dân gian,
tác giả đã phác họa bức tranh về Đạo Thánh. Thánh Láng (Từ Đạo Hạnh), Thánh
Không Lộ được nhắc đến trong tác phẩm là những vị Thánh thuộc các hệ thống
khác nhằm nói đến những vị Thánh xuất hiện ở các tôn giáo, xét về tư cách thì được
tôn là những vị Thánh sư, được nhân dân công nhận là Thánh Việt Nam. Viết về
đức Thánh Láng: "Gọi là đức Thánh Láng vì ông được thờ ở chùa Láng Hà Nội,
thánh Láng có sự tích rất độc đáo: vừa là con người trần tục, vừa là đạo sĩ, vừa là
nhà sư" [tr.520]. Tác giả cũng đã nêu một số nét về lễ hội ở ngôi chùa Keo (Thái
Bình), nơi thờ Thánh Không Lộ: "hàng năm thường có hai lần mở hội chùa: Hội vui
xuân vào ngày mùng 4 tết Nguyên Đán, hội tháng chín vào các ngày 13,14,15. Hội
tháng chín ngoài tính chất hội thi tài còn mang tính chất hội lịch sử, nhiều lễ tiết
mang tính chất tôn giáo nhưng đậm đà sắc thái sinh hoạt văn hoá dân gian, vì thế
hội tháng chín có sức hấp dẫn, cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân" [tr.533].
Tác phẩm "Lễ hội cổ truyền" của tác giả Lê Trung Vũ [167], đã phân tích về
mối quan hệ giữa lễ hội với môi trường tự nhiên, xã hội, lịch sử và các chặng đường
tồn tại của lễ hội; lễ hội với đặc trưng chứa đựng những lớp văn hóa bồi tụ. Lễ hội
là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, hàm
chứa tâm tưởng vừa kín đáo, vừa sâu xa, bao trùm đó là tôn thờ các vị thần thánh,
và thần thánh chính là hình ảnh hội tụ những phẩm chất tốt đẹp mà cả làng hướng
tới. Họ là những người có công lao dựng làng, lập nước, có công ơn truyền nghề, có
công lao đánh giặc, chống thiên tai, dịch bệnh…. "Hội làng là nơi biểu hiện tập
trung tư tưởng và tâm lý của dân làng, bao gồm lòng sùng kính những bậc có công
với làng, nước, ý thức cộng đồng, nguyện vọng, ước mơ về một cuộc sống thái
bình, thịnh vượng" [tr.9]. Tác phẩm cũng đã miêu tả về lễ hội chùa Keo (Thái
Bình), hàng năm Chùa Keo có hai lần mở hội, Hội xuân vào mùng 4 tết và Hội thu
18
vào các ngày 13,14,15/9 (AL) và hội thu mới là ngày hội chính. Hội thu mang đậm
tính lịch sử, gắn liền với cuộc đời của Không Lộ thiền sư, lễ nhằm tái hiện lại gốc
tích, công lao của ngài. Tác phẩm khá đặc sắc đã vẽ lại bức tranh chung về lễ hội và
hội làng của người Việt ở Bắc Bộ.
Tác phẩm "Lễ hội cổ truyền ở Nam Định" của Hội Văn nghệ dân gian [65],
gồm 3 chương: (i) quá trình hình thành và phát triển lễ hội ở Nam Định (ii) Một số
hội làng điển hình ở Nam Định giới thiệu về 40 hội điển hình, (iii) Lịch lễ hội cổ
truyền ở Nam Định. Trong 40 lễ hội điển hình tác giả có giới thiệu đến lễ hội chùa
Keo Hành Thiện (Nam Định) với rước phụng nghinh và bơi trải đứng gắn với sư
Dương Không Lộ và lễ hội chùa Cổ Lễ (Nam Định) gắn với sư Nguyễn Minh
Không với nhiều câu chuyện kể về lúc sinh thời của các Thánh.
Cũng trong luận án tiến sĩ "Những ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh ở vùng Châu
thổ Bắc Bộ" của tác giả Phạm Thị Thu Hương [71]. Chương 3, luận án đã trình bày về
lễ hội và phong tục có liên quan ở một số ngôi chùa, trong đó có lễ hội chùa Thầy (Hà
Nội), chùa Ông (Hưng Yên), chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành Thiện (Nam
Định), chùa Điềm Giang (Ninh Bình) và chỉ ra những đặc điểm của lễ hội. Tác giả cho
rằng: lễ hội ở các ngôi chùa tiền Phật, hậu Thánh đều là những lễ hội lớn, quy tụ dân
chúng ở trong vùng và thu hút đông đảo người dân ở địa phương khác về dự hội, có
ảnh hưởng và khả năng lan toả các giá trị văn hoá đến cộng đồng. Mầu sắc được sử
dụng trong lễ hội chủ yếu là màu đỏ, vàng và trắng thể hiện trong đồ thờ và trang phục,
những màu sắc này đầy chất biểu tượng, màu đỏ tượng trưng cho Trời, màu vàng
tượng trưng cho Đất, màu trắng tượng trưng cho Nước, đó là ba yếu tố quan trọng tạo
nên sự ấm no, hạnh phúc của người dân và người nông dân thờ Thánh với tất cả sự
kính trọng [tr.148-149].
Luận án tiến sĩ "Thánh Không Lộ trong đời sống văn hoá của cư dân duyên
hải Bắc Bộ" của tác giả Lê Thị Thu Hà [48]. Luận án đã nghiên cứu sự hình thành,
sáng tạo các di sản văn hoá vật thể hay còn gọi cách khác đó là cơ sở thờ tự liên
quan đến Thánh Không Lộ trên ba hình thức thờ tự là Chùa, Đình và Đền. Tác giả
nhận định các loại hình di tích thờ Thánh Không Lộ mang đậm dấu ấn kiến trúc
truyền thống của người Việt từ vị trí địa lý, bố cục mặt bằng tổng thể đến đặc điểm
kiến trúc và thần điện, mỗi loại hình lại thờ Thánh Không Lộ với tư cách riêng, biển
hiện sự hỗn dung trong tín ngưỡng thờ thần của người Việt [tr.78]. Cùng với việc
nghiên cứu các cơ sở thờ tự, luận án cũng nghiên cứu về lễ hội tại các di tích thờ
Thánh Không Lộ. Công trình nghiên cứu này trên cơ sở kế thừa của các nghiên cứu
trước và đã có những bổ sung nghiên cứu mở rộng về cơ sở thờ tự và lễ hội liên
quan đến Thánh Không Lộ ở hai loại hình di tích là Đình và Đền. Cho thấy, Dương
Không Lộ một vị thiền sư thời Lý, được tôn vinh thành Thánh, Thành Hoàng và
19
Thần, được thờ tự ở cả ba loại hình di tích Chùa, Đình, Đền, trở thành đại biểu chung
của cộng đồng, có sứ mệnh bảo hộ và trách nhiệm với đời sống thịnh suy của cộng
đồng ấy, việc suy tôn ấy cho thấy công lao to lớn của ngài đối với người dân và đây là
nét độc đáo của tục thờ Thánh Dương Không Lộ ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Bài viết "Một số đặc điểm lễ hội trong các ngôi chùa thờ Tứ Thánh Tổ ở
đồng bằng bắc bộ" của tác giả Tạ Quốc Khánh [77]. Trên cơ sở đề cập khái quát về
thân thế và sự nghiệp của Tứ vị Thánh tổ, gồm: Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ,
Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không, nội dung bài viết tập trung phân tích một
số đặc điểm lễ hội trong các ngôi chùa thờ Tứ Thánh tổ ở đồng bằng Bắc Bộ, đặc
biệt là sự hỗn dung giữa yếu tố Phật giáo với yếu tố văn hóa tâm linh truyền thống
của người Việt khu vực này. Về lễ hội trong các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ tác
giả cho rằng: "...Các nghi lễ, trò diễn trong lễ hội có liên quan đến tiểu sử, hành
trạng của Tứ Thánh tổ, xét theo lịch lễ hội, các chùa thờ Tứ Thánh tổ đều tổ chức
đại lễ vào dịp Thánh sinh hoặc Thánh hóa, chẳng hạn các chùa thờ Từ Đạo Hạnh
đều tổ chức lễ hội từ mùng 5 đến mùng 7/3, trong đó lễ chính vào mùng 7" [tr.4].
Các lễ hội này đều thể hiện tín ngưỡng tâm linh của cư dân trong vùng, đồng thời là
một trong những hình thức cố kết cộng đồng.
1.1.3. Nhận xét về tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra luận án
cần tập trung nghiên cứu
1.1.3.1. Nhận xét về tình hình nghiên cứu
Qua tổng thuật tình hình nghiên cứu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số
ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng, NCS rút ra một số nhận xét sau:
- Những vấn đề nghiên cứu đã được đề cập tới
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trực tiếp hoặc gián tiếp dưới nhiều góc độ
nghiên cứu khác nhau liên quan đến đề tài luận án, các cách tiếp cận đó đều đạt
được những thành tựu nhất định trong nghiên cứu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ.
Tuy nhiên tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ qua các nghiên cứu trước chưa toàn diện, vì
thế chưa phác hoạ được diện mạo đầy đủ:
+ Về yếu tố Mật giáo trong Phật giáo thời Lý: Các tác giả mới tập trung
nghiên cứu về Phật giáo thời Lý, trong đó đã đề cập đến Mật giáo nhưng chưa coi
đó là một trong những yếu tố chính để hình thành nên tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ.
Các tác phẩm chỉ ra bốn vị Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải,
Nguyễn Minh Không tu tập theo Mật giáo nhưng chưa chỉ ra được giá trị của yếu tố
Mật, nhờ quá trình tu tập theo Mật giáo, bốn vị thiền sư đã đạt được những thành
tựu, đạt các phép thần thông, các phép phương thuật, cầu đảo, chính những phép
thuật này thu nhiếp đại chúng và được dân tôn vinh phong thành Thánh. Từ Tứ vị
Thánh tổ, một số vấn đề được đặt ra: Tại sao dưới thời Lý có nhiều vị sư tu tập theo
20
yếu tố Mật giáo và cũng đạt được phép thần thông như Thiền Nham, Trì Bát,
Nguyện Học,… nhưng họ không được dân gian phong Thánh? Và tại sao lại chỉ
xuất hiện Tứ vị Thánh tổ dưới thời Lý mặc dù trước thời Lý và sau thời Lý yếu tố
Mật giáo nổi trội và cũng có nhiều nhà sư tu học đều đạt thành tựu nhưng không
được tôn vinh thành bậc Thánh? Chưa có nghiên cứu nào trả lời cho câu hỏi này,
vấn đề này luận án tiếp cận và kiến giải.
+ Về hành trạng Tứ vị Thánh tổ: Trong các nghiên cứu, hành trạng của Tứ vị
Thánh tổ được nêu cơ bản thống nhất, nhiều nét tương đồng, hoạt động tôn giáo của
các Thánh mang đậm dấu ấn Mật giáo, thường dùng bùa chú, ấn quyết trong quá
trình hành đạo. Mặc dù họ đều là vị sư tu theo lối thiền tông và thuộc về hai phái
thiền Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông nhưng yếu tố thiền mờ nhạt, qua đó cho
thấy bối cảnh Phật giáo đương thời và cũng giúp hiểu thêm được tính chất Phật giáo
và tư tưởng xã hội thời Lý. Dưới thời Lý, tinh thần Phật giáo Đại thừa liên kết với
tinh thần ma thuật, thần thông của tín ngưỡng dân gian, sự đan xen, giao hoà này
cũng chính là một đặc trưng của Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam và ở mỗi thời
kỳ lại có sự biến đổi cho phù hợp với đời sống tín ngưỡng của người Việt.
Riêng Thánh Dương Không Lộ hành trạng không được ghi chép nhiều trong
các thư tịch, nên các nghiên cứu phần lớn phải dựa vào truyền thuyết và huyền thoại
dẫn đến một số chi tiết không rõ ràng, vì thế đã có không ít nghiên cứu cho rằng
Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không là một. Gần đây, có một số công trình
nghiên cứu đã chứng minh Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không là hai người
khác như bài viết Về nhân thân hai vị Quốc sư thời Lý Dương Không Lộ và Nguyễn
Minh Không của tác giả Chu Huy in trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 8, năm
2006; tác phẩm Chùa Keo của hai tác giả Bùi Duy Lan, Phạm Đức Duật; bài viết
Vấn đề tiểu sử hai thiền sư thời Lý: Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không của
Phạm Đức Duật in trên Tạp chí Hán Nôm số 6 (91), năm 2008. Các nghiên cứu đều
đưa ra nhận định: Dương Không Lộ là vị sư thời Lý thuộc thế hệ trước với Từ Đạo
Hạnh và Nguyễn Giác Hải còn Nguyễn Minh Không thuộc thế hệ sau và là học trò
của Từ Đạo Hạnh. Tuy nhiên, vấn đề nhân thân của hai vị sư và là một hay hai
người không thuộc đối tượng nghiên cứu của luận án. Trên cơ sở của các nghiên
cứu đi trước đã khai mở NCS kế thừa và đồng tình với quan điểm cho rằng Dương
Không Lộ và Nguyễn Minh Không là hai vị sư khác nhau, được tôn thờ trong nhiều
ngôi chùa ở vùng đồng bằng sông Hồng, dân gian tôn xưng là Thánh tổ, là đối
tượng được trình bày trong luận án.
+ Về cơ sở thờ tự (các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ): Được thể hiện trong
nhiều nghiên cứu, có các công trình nghiên cứu về từng ngôi chùa riêng lẻ như
nghiên cứu về chùa Thầy (Hà Nội) của Nguyễn Văn Tiến, nghiên cứu về chùa Keo
(Thái Bình) của Phạm Duy Lan, Bùi Đức Duật và của Đặng Hữu Tuyền.
21
Công trình nghiên cứu về nhiều ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ như tác phẩm
Chùa Việt Nam của nhóm tác giả Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long;
tác phẩm Chùa Việt của tác giả Trần Lâm Biền; luận án tiến sĩ "Những ngôi chùa
tiền Phật, hậu Thánh" của Phạm Thị Thu Hương. Các tác giả đã đề cập đến các ngôi
chùa như chùa Thầy (Hà Nội), chùa Ông (Hưng Yên), chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo
Hành Thiện (Nam Định), chùa Cổ Lễ (Nam Định),... Các ngôi chùa này được nghiên
cứu dưới góc độ kiến trúc, di vật, đã đưa ra đặc điểm của cơ sở thờ tự nhưng đều là
những đặc điểm của kiến trúc mà không phải là đặc điểm chung của các ngôi chùa thờ
Tứ vị Thánh tổ, trong đó chưa nói lên sự hỗn dung tôn giáo thể hiện trong cách thức
bài trí thờ tự và tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là loại hình tín ngưỡng phức hợp.
Nhìn chung, các tác giả đều thể hiện quan điểm thống nhất coi các ngôi chùa
thờ Tứ vị Thánh tổ là nơi lưu giữ giá trị về văn hoá, kiến trúc và giá trị về tinh thần,
đồng thời các ngôi chùa này chính là một biểu hiện rõ nét cho việc dung hợp của
Phật giáo với Tín ngưỡng dân gian. Các nghiên cứu cũng đã đưa ra những đánh giá,
nhận định về giá trị và những nét đặc sắc của các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ.
+ Về niềm tin, thực hành và những biến đổi của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là
mảng đề tài còn khá mờ nhạt. Khảo sát các công trình nghiên cứu đi trước cho thấy
vấn đề niềm tin và những biến đổi của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ hầu như chưa
được đề cập đến, các nghiên cứu trước chủ yếu đề cập đến thực hành tín ngưỡng
của cộng đồng thông qua các lễ hội truyền thống tại các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh
tổ dưới góc độ văn hoá học, biểu hiện qua các nghi lễ Mộc dục, nghi lễ Rước, nghi
lễ Tế,… và các trò diễn dân gian. Đây là những nghi lễ truyền thống được trao
truyền qua nhiều thế hệ nhằm tỏ lòng thành kính và nhắc nhở con cháu ghi nhớ
công đức của các bậc tiền nhân, thể hiện tinh thần cố kết cộng đồng. Mặc dù mỗi lễ
hội tôn vinh và biểu dương công trạng của mỗi vị Thánh khác nhau, hình thức thể
hiện cũng có những khác biệt nhất định, nhưng đều tương đồng về bản chất và ý
nghĩa tôn giáo. Thông qua lễ hội truyền thống đã cho thấy cốt lõi và bản chất của tín
ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, ẩn chứa sâu bên trong chính là những thông điệp về đời
sống văn hoá, tâm linh của người dân vùng đồng bằng sông Hồng. Mỗi lễ hội tín
ngưỡng liên quan đến Tứ vị Thánh tổ đều mang những nét đặc sắc riêng có, nổi bật ở
vùng đồng bằng sông Hồng.
Nhìn chung, các công trình đi trước đều có tính khoa học cao, nghiên cứu
công phu. Mỗi tác giả đều có những hướng nghiên cứu riêng nên vấn đề nghiên cứu
phong phú, đa dạng và sâu sắc. Các công trình đều có giá trị cao về mặt lý luận và
thực tiễn, không chỉ cung cấp nguồn tư liệu quý mà còn là những đánh giá, nhận
định khoa học để luận án tiếp thu, kế thừa, đồng thời những nghiên cứu trước cũng
gợi ý để NCS tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này.
22
- Những vấn đề nghiên cứu trước chưa tiếp cận
Các nghiên cứu đi trước chủ yếu tiếp cận tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ dưới
góc độ sử học, khảo cổ học, kiến trúc học, mỹ thuật học, văn hoá học, phật học và
mới chỉ dừng lại nghiên cứu những trường hợp đơn lẻ về từng vị Thánh hoặc về
từng ngôi chùa, hoặc một vài ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ. Tìm hiểu về tín ngưỡng
Tứ vị Thánh tổ thể hiện ở các công trình nghiên cứu trên còn là những mảnh ghép
chưa hoàn chỉnh, chưa phác hoạ được bức tranh tổng thể về tín ngưỡng Tứ vị Thánh
tổ ở vùng đồng bằng sông Hồng. Chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào về
tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, tiếp cận dưới góc độ tôn giáo học để nhận diện và chỉ ra
thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ dưới nhãn quan tôn giáo học.
Một số nghiên cứu dưới góc độ văn hoá học đã tiếp cận đến hoạt động tín
ngưỡng của cộng đồng biểu hiện qua lễ hội truyền thống, thông qua những nghi lễ
cổ truyền nhưng chưa coi đó là những thực hành tín ngưỡng, tôn giáo của cộng
đồng. Các nghiên cứu chưa đề cập đến niềm tin tôn giáo của người dân vùng đồng
bằng sông Hồng vào Tứ vị Thánh tổ và các thực hành mang tính tôn giáo của các cá
nhân, họ xem Tứ vị Thánh tổ là đối tượng thiêng, có thể ban phúc, giáng hoạ, có
khả năng ban tài, ban lộc, ban những điều may mắn và tác động tới cuộc sống của
họ nơi trần thế. Cũng chưa có nghiên cứu nào đề cập đến những biến đổi của tín
ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong bối cảnh hiện nay để thấy rằng tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ có những biến đổi để thích nghi với xã hội đương đại, qua đó phản ánh
quy luật vận động của những thực thể tồn tại khách quan trong xã hội và những biến
chuyển trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo.
1.1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án tập trung nghiên cứu
Trên cơ sở tổng luận những vấn đề đã được nghiên cứu liên quan đến luận án,
những giá trị của các công trình nghiên cứu trước mà luận án kế thừa và những vấn đề
chưa được tiếp cận nghiên cứu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa vùng
đồng bằng sông Hồng, luận án sẽ tập trung nghiên cứu một số nội dung cơ bản sau:
- Nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ qua các điều kiện hình thành, đối
tượng thờ cúng, cơ sở thờ tự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ qua các yếu tố
niềm tin, thực hành, những biến đổi của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ;
- Từ thực trạng niềm tin, thực hành và những biến đổi của tín ngưỡng, luận án
chỉ ra đặc điểm, vai trò của tín ngưỡng tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay,
từ đó góp phần nâng cao thêm một bước nhận thức về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở
vùng đồng bằng sông Hồng và bước đầu đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy
giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội ở vùng đồng bằng sông
Hồng hiện nay.
23
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.2.1. Một số khái niệm công cụ
Thống nhất khái niệm là một nội dung hết sức quan trọng, nhằm mục đích sử
dụng khái niệm sao cho chính xác. Trong luận án NCS trình bày một số khái niệm
coi đó là những quy chuẩn, đây không phải là những khái niệm mới mà trên cơ sở
của các nghiên cứu trước, luận án kế thừa và đưa ra khái niệm phù hợp với nội dung
và đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Tín ngưỡng: là hình thái ý thức phản ánh niềm tin, sự ngưỡng mộ và những
hoạt động để bày tỏ niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, các nhân
vật huyền thoại hoặc lịch sử có thật mà con người cho là linh thiêng, có sức mạnh
thần bí, tác động đến đời sống tâm linh của con người được con người thờ phụng,
cầu khấn và mong muốn được sự che chở, giúp đỡ từ các đấng thiêng đó.
Thánh: Trong cuốn từ điển Phật học Hán - Việt nêu: "Thánh âm tiếng Phạn là A -
Ly - da, nghĩa là chính. Chứng đắc chính đạo gọi là Thánh, là bậc có trí tuệ viên mãn, có
các phép thần thông, đã dứt được mọi khổ não, ra khỏi vòng luân hồi" [108, tr.1187].
Cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam nêu: "Thánh là danh hiệu để chỉ những
người tài giỏi, sáng suốt, đức độ, có công trạng. Sau khi qua đời những người đó
được thờ cúng coi như các vị thần linh…" [Error! Reference source not found.,
tr.162].
GS. Vũ Ngọc Khánh trong tác phẩm chuyên khảo của mình về Đạo Thánh đã
đưa ra quan niệm về Thánh: "Thánh vốn là để chỉ vào bậc tài năng xuất sắc, đạo đức
cao cả" [78, tr.42].
GS. Trần Lâm Biền trong tác phẩm Chùa Việt cho rằng: "Thánh là Thần
nhưng yếu tố trí tuệ được quan tâm nhiều hơn là sự linh thiêng" [18].
Dưới góc nhìn của dân gian thường hay ghép khái niệm Thánh với khái niệm
Thần hình thành cặp ghép "Thánh Thần", nếu như các vị được tôn là "Thần" cũng
có người tốt, người xấu, tà thần, dâm thần, thì trong tâm thức dân gian những vị
được tôn xưng thành bậc "Thánh" là vị thần linh hoàn thiện, hoàn mỹ, có tính nhiệm
mầu, biến hoá, ban phúc, giáng họa, là chỗ dựa tinh thần cho quần chúng nhân dân.
Qua các quan điểm trên về Thánh cho thấy nổi lên các yếu tố: Đức và Tài,
trong cái Tài đặc biệt là phải có phép thuật thần thông. Vậy, trong giới hạn của luận
án, Thánh trong Tứ Thánh tổ được hiểu: là những nhân vật lịch sử có thật, thông
minh, trí tuệ, có phép thuật thần thông, có nhiều công lao đóng góp cho đất nước và
nhân dân, khi mất đi được nhân dân tưởng nhớ, tôn vinh và thờ phụng, trở thành
đấng thiêng có nhiều quyền năng, có thể ban phúc, giáng họa, tác động đến cuộc
sống của con người nơi trần thế.
Tổ: yếu tố bao hàm tính lịch sử, gốc hoặc nguồn cội.
24
Trong cuốn Từ điển Phật học Hán Việt nêu khái niệm về Tổ Sư: "Người đầu tiên
lập pháp, làm thầy của mọi người. Riêng về Phật giáo gọi chư vị lãnh đạo Phật giáo nối
tiếp nhau mà gìn giữ Phật pháp sau đức Phật Thích - ca là tổ sư" [108, tr.1359]. Như
vậy, Tổ trong Phật giáo được hiểu là những người có công đặt nền tảng, khai sinh,
truyền thừa hoặc truyền bá lý thuyết hay cách thức tu hành của một tông phái, một
sơn môn hoặc một hệ phái và được các thế hệ tiếp theo suy tôn là Tổ. Tứ vị Thánh
tổ là những vị tổ sư của hai thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông, Từ
Đạo Hạnh là vị tổ sư đời thứ 12; Nguyễn Minh Không là tổ sư đời thứ 13 của dòng
thiền Tì Ni Đa Lưu Chi, còn Dương Không Lộ là tổ sư đời thứ 9 và Nguyễn Giác
Hải là tổ sư đời thứ 10 của dòng thiền Vô Ngôn Thông.
Tổ, trong nghề nghiệp, là những người có công sáng lập và truyền dạy một
nghề nào đó cho đời sau, được những người làm cùng một nghề suy tôn thành Tổ
nghề và thờ cúng để bảo trợ cho nghề đó. Tứ vị Thánh tổ cũng được dân gian coi là
những vị tổ nghề của tín ngưỡng dân gian, Từ Đạo Hạnh là ông tổ của nghề múa
rối, Nguyễn Minh Không là ông tổ của nghề đúc đồng, Dương Không Lộ và
Nguyễn Giác Hải là ông tổ của nghề chài lưới đánh bắt cá trên sông nước.
Thánh tổ: là một từ ghép bởi hai danh từ "Thánh" và "Tổ". Vậy Thánh tổ được
hiểu là: Những nhân vật lịch sử thông minh, trí tuệ, có phép thuật thần thông đồng
thời các vị cũng là Tổ sư của một sơn môn, hệ phái trong Phật giáo và là những vị Tổ
nghề có nhiều công lao đối với đất nước và nhân dân, khi mất đi được nhân dân
tưởng nhớ, tôn vinh và thờ phụng, trở thành đấng thiêng có nhiều quyền năng, có thể
ban phúc, giáng hoạ, tác động đến cuộc sống của con người nơi trần thế.
Tứ vị Thánh tổ: là bốn vị thiền sư của Phật giáo Từ Đạo Hạnh, Dương
Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không là những người thông minh, trí
tuệ với những phép thuật tinh thông, có nhiều công lao đóng góp cho triều đình và
nhân dân được nhân dân kính ngưỡng tôn thành bậc Thánh, các vị vừa là những vị Tổ
sư của hai thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông đồng thời vừa là những
vị Tổ nghề múa rối, nghề đúc đồng và nghề chài lưới đánh cá trên sông nước.
Tại sao lại lựa chọn Tứ vị: Trong tư duy của người phương Đông nói chung
và người Việt nói riêng, bộ tứ là biểu hiện của sự đầy đủ, vững chắc, vĩnh cửu, hạnh
phúc và mang tính triết lí sâu sắc. Có thể thấy cơ cấu bền vững giá trị vật chất và
tinh thần phần lớn được bắt đầu bằng "bộ tứ" như: Tứ đại: địa, thuỷ, hoả, phong; Tứ
linh: long, lân, quy, phụng; Tứ thời: xuân, hạ, thu, đông, Tứ phương: đông, tây,
nam, bắc; Tứ đức: Công, dung, ngôn, hạnh; Tứ quý: tùng, cúc, trúc, mai; Tứ tượng
trong phong thuỷ. Trong biểu tượng tinh thần của người Việt còn có Tứ bất tử, Tứ
phủ, Tứ trấn; trong các tôn giáo như Phật giáo có Tứ Diệu đế, Tứ Ân, Tứ Thánh
quả, Tứ thiền, trong Công giáo có Tứ chung để chỉ về 4 sự việc: chết, phán xét,
25
thiên đàng, hỏa ngục… Việc chọn lấy 4 trong toàn thể của một tập hợp là chọn sự
tiêu biểu, độc đáo và mang tính tượng trưng hay biểu tượng, là sự lựa chọn hợp lý
của dân gian. Tứ vị Thánh tổ cũng là một tập hợp như vậy, sự lựa chọn bốn vị Từ
Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không trở thành Tứ
vị Thánh tổ thể hiện đặc trưng tiêu biểu giá trị văn hoá tinh thần của người Việt đồng
thời thể hiện sự tài tình của dân gian, điều này cũng lý giải tại sao đến thời Trần mặc dù
xuất hiện nhân vật Nguyễn Bình An được dân gian tôn xưng thành Thánh Bối nhưng
không xếp trong một tập hợp chung với Tứ vị Thánh tổ để thờ cúng.
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ: là hệ thống niềm tin và cách thức biểu hiện niềm
tin thông qua những thực hành của cá nhân và cộng đồng với việc tôn thờ những vị
thiền sư của Phật giáo là Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải,
Nguyễn Minh Không trở thành những đấng thiêng, nhằm cầu mong sự che chở, phù
hộ, độ trì, động viên, hỗ trợ về mặt tinh thần, giúp người dân vượt qua những khó
khăn trong cuộc sống. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là tín ngưỡng tôn giáo (Tổ sư) và
còn là một tín ngưỡng dân gian (tổ nghề) trong đời sống tâm linh của người Việt.
Đồng bằng sông Hồng: Là vùng địa lý - văn hoá, nằm quanh khu vực hạ lưu
sông Hồng thuộc miền Bắc Việt Nam, bao gồm lên 10 tỉnh gồm: Bắc Ninh, Hà
Nam, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và
Vĩnh Phúc.
1.2.2. Khung lý thuyết nghiên cứu
1.2.2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án tập trung trả lời câu hỏi: Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi
chùa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay như thế nào?
Cụ thể luận án giải quyết các vấn đề sau:
- Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ có diện mạo như thế nào?
- Thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ hiện nay ra sao?
- Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ có đặc điểm, vai trònhư thế nào?
1.2.2.2. Giả thiết nghiên cứu
- Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ được hình thành bởi sự dung hợp của hai yếu tố
Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian của người Việt, xuất hiện dưới thời Lý, trải qua
biến thiên của lịch sử, hình thành nên dòng tín ngưỡng riêng rẽ và mang tính địa
phương và chỉ tồn tại ở vùng đồng bằng sông Hồng trong đó vùng trung tâm của
tính ngưỡng là các tỉnh Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình.
- Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ hiện nay phát triển mạnh mẽ không chỉ bó hẹp
theo kiểu chuông làng nào làng đấy đánh, Thánh làng nào làng đấy thờ chỉ thuộc
về một cộng đồng làng, xã, mà đã phát triển ra liên làng, liên xã thậm chỉ phát triển
ra cả vùng, thu hút đông đảo người dân đến các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ để
bày tỏ niềm tin và thực hành tín ngưỡng. Với sự biến đổi của đời sống xã hội, phải
26
chăng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ cũng có những thay đổi để thích ứng với hiện thực
xã hội và khẳng định là một thực thể tồn tại độc lập.
- Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đã tạo lập được một vùng địa lý riêng ở vùng
đồng bằng sông Hồng, một vùng đất tồn tại đan xen nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn
giáo, từ sự ra đời của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ phải chăng đã hình thành một loại
hình chùa độc đáo "tiền Phật, hậu Thánh"? Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ góp phần
giữ mối liên kết cộng đồng làng xã, trở thành điểm tựa tinh thần của người dân vùng
đồng bằng sông Hồng.
1.2.2.3. Lý thuyết nghiên cứu
Thứ nhất, lý thuyết tiếp biến văn hóa:
Tiếp biến văn hóa (Acculturation) là khái niệm được các nhà nhân học
phương tây đưa ra vào những thập niên đầu thế kỷ XX và trở nên phổ biến, khi tiến
hành nghiên cứu về sự biến đổi văn hóa của các nhóm di dân người Châu Âu đến
Mỹ với các nhóm dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời trên đất Mỹ. Người sinh ra lý
thuyết này là Franz Boas (1858- 1948), ông là một học giả người Mỹ gốc Do Thái,
tiếp đến là những học trò của ông như: E. Sapir, R. Benedict, M. Herskovits…, và
nổi bật là nhà nghiên cứu AL. Kroeber, ông cho rằng tiếp biến văn hóa bao gồm
những biến đổi sản sinh ra trong một nền văn hóa do ảnh hưởng của một nền văn
hóa khác, kết quả dẫn đến là sự tương đồng của hai nền văn hóa đó gia tăng.
Trong The Culumbia Encyclopedi, đã đưa ra một định nghĩa khá chi tiết về
tiếp biến văn hóa: Tiếp biến văn hóa là những biến đổi do kết quả của sự tiếp xúc
giữa các nền văn hóa khác nhau qua thời gian, tiếp xúc có thể đem lại những hiệu
quả rõ rệt, như việc một nền văn hóa này vay mượn một số nét từ nền văn hóa khác,
hoặc là sự dung hợp tương đối của các nền văn hóa riêng rẽ [Dẫn theo 83, tr.46].
Ở Việt Nam nghiên cứu về tiếp biến văn hóa đã được các nhà khoa học quan
tâm như Giáo sư (GS) Hà Văn Tấn, GS Trần Quốc Vượng, Phó Giáo sư. Tiến sĩ
(PGS.TS) Trần Ngọc Thêm,… Trong cuốn "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam"
[129], PGS. TS. Trần Ngọc Thêm cho rằng:
Các nền văn hóa gần gũi nhau thì có thể từ tiếp xúc đến giao lưu và
trong việc giao lưu ấy có thể xảy ra hiện tượng những yếu tố của nền
văn hóa này thâm nhập vào nền văn hóa kia (tiếp thu thụ động) hoặc nền
văn hóa này vay mượn những yếu tố của nền văn hóa kia (tiếp thu chủ
động); rồi trên cơ sở những yếu tố nội sinh và ngoại sinh ấy mà điều
chỉnh, biến cải cho phù hợp gây ra sự tiếp biến văn hóa [129, tr.35].
Tôn giáo là một thành tố của văn hoá, hay nói cách khác không thể đề cập đến
văn hoá của một dân tộc nếu không đề cập đến tôn giáo của dân tộc ấy. Trong bối cảnh
tiếp biến văn hoá diễn ra thì chắc chắn cũng diễn ra quá trình tiếp biến về tôn giáo.
27
Trước khi Phật giáo du nhập, người Việt tin vào thuyết vạn vật hữu linh nên đã
tồn tại nhiều loại hình tín ngưỡng như thờ cây, thờ đá, tín ngưỡng phồn thực, tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng vòng đời người, tín ngưỡng thờ Thần,… Trong tín
ngưỡng thờ Thần, thờ Nhiên Thần phù trợ cho sản xuất nông nghiệp như Mây, Mưa,
Sấm, Chớp, để cầu mong sự sinh sôi nẩy nở, cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng sung
túc, cây cối tốt tươi. Thờ Nhân Thần, những người có công với cộng đồng, làng, nước,
những người đã có công dựng nước, giữ nước, giữ làng, lập ấp,…
Mặt khác, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng, trong tư tưởng văn hóa
Việt luôn thể hiện tinh thần khoan dung, không chấp nhận tính độc tôn ngay cả
trong niềm tin tôn giáo, với nền tảng tín ngưỡng đa thần đó rất khó để dung dưỡng
yếu tố độc thần. Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian đã tiếp thu lẫn nhau, pha trộn
nhiều yếu tố văn hoá nhằm duy trì những thực hành tôn giáo phù hợp và thoả mãn
nhu cầu văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt.
Ở Việt Nam, quan hệ giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian, thì Phật giáo
là yếu tố ngoại sinh còn Tín ngưỡng dân gian là yếu tố nội sinh. Trong quá trình
Phật giáo truyền bá và phát triển, nhiều nghiên cứu đã chứng minh giữa các yếu
tố này thường xuyên xẩy ra quá trình tiếp biến, tiêu biểu là câu chuyện giữa vị sư
Khâu Đà La với cô dân nữ Man Nương. Sự tiếp biến giữa hai yếu tố nội sinh và
ngoại sinh đã góp phần làm phong phú thêm nét văn hóa cho cả hai bên, sự tiếp biến
trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện cho ra đời một loại hình văn hoá mới có tính hỗn
hợp, hình thành nên tín ngưỡng thờ Tứ Pháp ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Trong các bộ sách Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái những câu
chuyện về các vị sư: Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không,
Nguyễn Giác Hải là những minh chứng tiếp theo cho quá trình tiếp biến văn hóa,
dung hợp cả hai yếu tố Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian tạo nên "hợp chất mới" là
tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Thứ hai, lý thuyết thực thể tôn giáo:
Cách tiếp cận về tôn giáo trước đây, luôn xem tôn giáo như một dạng ý thức
có tính mơ hồ, hoang đường, phản ánh hư ảo và chỉ tồn tại như một hiện tượng nhất
thời, sẽ mất đi bằng quá trình cải tạo xã hội đó là khi xã hội đạt đến tính hiện đại.
Thực tế đã chứng minh điều ngược lại, thế giới hiện nay đã bước vào thời kỳ hậu
hiện đại, khoa học phát triển, các ngành công nghệ thông tin phát triển như vũ bão,
nhưng chưa thấy dấu hiệu cho sự mất đi của các tôn giáo mà còn phát sinh, phát
triển nhiều loại hình tôn giáo mới.
Nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo học trên thế giới đã đưa ra những minh
chứng, trong xã hội hiện đại tôn giáo không mất đi mà còn tồn tại khách quan và thế
kỷ XXI là thế kỷ phát triển của các tôn giáo. Trong Nghị quyết của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nghị quyết số 25/NQ-TW về công tác tôn giáo cũng khẳng định "Tín
28
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại
cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta" [5].
Mặt khác, các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận tôn giáo không chỉ là một thực
thể tôn giáo mà còn là một thực thể xã hội, có vị trí ngang bằng với thực thể xã hội
khác, trở thành một nguồn lực xã hội và có nhiều giá trị thực tiễn. Với cách tiếp cận
tôn giáo là một thực thể xã hội còn thể hiện vai trò của tôn giáo trong việc thúc đẩy
sự tiến bộ của xã hội.
Ở Việt Nam, theo TS. Nguyễn Quốc Tuấn trong nghiên cứu của mình về thực thể
tôn giáo đã chỉ ra năm đặc tính của thực thể tôn giáo để phân biệt nó với các thực thể xã
hội khác và nhìn nhận theo cả hai chiều không gian và thời gian. Ở Việt Nam coi tôn
giáo là một thực thể xã hội tối giản, chủ yếu nghiên cứu về các tôn giáo thể chế. Các nhà
nghiên cứu cho rằng phải có các tiêu chí như: Giáo chủ, Giáo lý, Giáo luật, Giáo hội,
Giáo đồ mới có đủ điều kiện hình thành một tôn giáo. Tuy nhiên, luận án áp dụng lý
thuyết thực thể tôn giáo vào nghiên cứu một loại hình tín ngưỡng dân gian, không đầy đủ
các tiêu chí như tôn giáo thể chế và sử dụng luận điểm trong nghiên cứu của TS. Nguyễn
Quốc Tuấn cho rằng: "Thực thể tôn giáo là chỉnh thể các niềm tin và thực hành tôn giáo
của cá nhân và nhóm người theo các giá trị chung" [153, tr.9].
Với luận điểm này khi nghiên cứu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ cũng có thể
nhìn nhận tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là một thực thể tôn giáo và được cấu trúc bởi
các thành tố niềm tin, trong đó quá trình thiêng hoá thể hiện sự hình thành, củng cố
và phát triển niềm tin và những thực hành của cá nhân và cộng đồng dựa trên cơ sở
niềm tin. Nghiên cứu về thực hành của cộng đồng và cá nhân được thể hiện qua
việc thờ cúng, nghi lễ, lời nguyện cầu, cảm xúc cá nhân vào các thời điểm mạnh của
đời sống tâm linh tại các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ.
Thứ ba, lý thuyết chức năng
Người đặt nền móng cho lý thuyết chức năng chính là một nhà xã hội học
người Pháp mang tên Emile Durkheim. Lý thuyết chức năng được ông đặt ra trong
tác phẩm "Tự sát (1897)" và sau này ông thể hiện rõ hơn trong tác phẩm "Những hình
thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo (1912)". Theo Durkheim: cần xem xét tôn giáo
trong bối cảnh xã hội khác nhau và đóng góp của chúng trong việc duy trì trật tự xã hội.
Cần tìm hiểu chức năng của từng hiện tượng văn hoá, phong tục, thể chế tôn giáo,…
trong mối quan hệ với nhau và với toàn xã hội. Tôn giáo với chức năng chính là tập
hợp tín đồ trong một sự đồng thuận về giá trị, bởi các niềm tin chung và các nghi lễ,
các đối tượng thiêng.
Vận dụng lý thuyết chức năng trong nghiên cứu, sự tồn tại của tín ngưỡng Tứ
vị Thánh tổ ở vùng đồng bằng sông Hồng đã có một quá trình lịch sử dài lâu, chứng
tỏ tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ có những vai trò và chức năng nhất định trong đời
29
sống tín ngưỡng của người dân, góp phần duy trì truyền thống đạo đức uống nước
nhớ nguồn, tôn vinh những người có công với cộng đồng, tạo ra sự đoàn kết xã hội,
là điểm tựa tinh thần cho cộng đồng và cho cá nhân, những vai trò đó dựa trên nền
tảng của niềm tin và thực hành tín ngưỡng.
1.2.2.4. Khung phân tích
Tiểu kết chương 1
Luận án đã tổng quan các công trình nghiên cứu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh
tổ, làm rõ những vấn đề các nghiên cứu trước đề cập và những vấn đề còn bỏ ngỏ
cần được bổ sung. NCS nhận thấy, nghiên cứu của các tác giả đi trước vừa cung cấp
nền tảng lý luận, vừa cung cấp về kiến thức, quan điểm và những vấn đề còn bỏ ngỏ
trong các công trình đó trở thành những gợi ý giúp NCS lựa chọn cho đề tài một
hướng đi phù hợp. Từ đó, đóng góp thêm những thông tin về tín ngưỡng Tứ vị Thánh
tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng trên cả hai mặt nhận thức khoa học
và thực tiễn.
Để làm rõ vấn đề nghiên cứu, trong chương này NCS lựa chọn một số khái
niệm mang tính quy ước, nhằm thống nhất cách hiểu trong đề tài luận án. Những
khái niệm công cụ nêu trong luận án gồm các khái niệm về Tín ngưỡng, Thánh, Tổ,
Thánh tổ, Tứ vị Thánh tổ, Đồng bằng sông Hồng.
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu tôn giáo học, phương pháp
nghiên cứu liên ngành như: văn hóa học, xã hội học, nhân học, phương pháp điền dã
thực tế để nghiên cứu môi trường tồn tại của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ làm cơ sở
phân tích và nhận diện.
Nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
Thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
Các yếu
tốhình thành
Đối tượng
thờ cúng
Cơ sở thờ tự
Niềm tin của người dân đối với TVTT
Thực hành nghi lễ đối với TVTT
Biến đổi của tín ngưỡng TVTT hiện nay
Đặc điểm, vai trò của tín ngưỡng TVTT
Một số khuyến nghị nhằm phát huy giá trị của tín ngưỡng TVTT trong đời sống xã hội hiện nay
30
Luận án sử dụng lý thuyết tiếp biến văn hoá, lý thuyết thực thể tôn giáo, lý
thuyết chức năng để soi chiếu, giải thích và làm rõ trong quá trình nghiên cứu
những nội dung chính của luận án. Lý thuyết tiếp biến văn hoá để kiến giải, phân
tích những thành tố hình thành nên tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, làm rõ đối tượng thờ
cúng, cơ sở thờ tự, trong các yếu tố này đều thể hiện rõ nét tiếp biến văn hoá giữa
Phật giáo và tín ngưỡng dân gian người Việt ở vùng đồng bằng sông Hồng. Lý
thuyết thực thể tôn giáo, luận án sử dụng hai lõi cấu trúc là niềm tin và thực hành để
nhận diện thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong bối cảnh hiện nay, khẳng định
tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ chính là một thực thể tôn giáo tồn tại khách quan ở vùng
đồng bằng sông Hồng, cho thấy tính hợp lý của Lý thuyết thực thể tôn giáo trong
việc áp dụng nghiên cứu một loại hình tín ngưỡng dân gian. Lý thuyết cấu trúc chức
năng để chỉ ra đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đối với đời sống
xã hội hiện nay. Luận án về bản chất là một nghiên cứu liên ngành văn hoá học -
tôn giáo học.
31
Chương 2
NHẬN DIỆN TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
2.1. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là một hình thái biểu thị niềm tin của người dân
vào bốn vị Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không
từ thời Lý cho đến ngày nay. Sâu xa của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ chính là truyền
thống đạo lý "uống nước nhớ nguồn", nhớ tới công lao của các vị tiền nhân và được
hình thành qua quá trình "thánh hoá" đối với bốn vị thiền sư của Phật giáo dưới thời
Lý. Cơ sở quan trọng cho việc hình thành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ chính là truyền
thống văn hoá tín ngưỡng của người Việt, trong dòng tâm thức ấy bốn vị thiền sư của
Phật giáo vốn là những người có đầy đủ các phẩm chất về Tài và Đức trong đó điểm
đáng chú ý chính là sự tài năng hơn người được biểu hiện qua pháp thuật thần thông
mà các vị đã sử dụng để giúp người, giúp đời. Vì lẽ đó, các vị được dân gian tôn vinh
thành bậc Thánh với khả năng siêu phàm để cứu nhân, độ thế.
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ được hình thành và chịu tác động bởi nhiều yếu
tố, trong đó có các yếu tố căn bản như: (i) điều kiện kinh tế - xã hội thời Lý; (ii) yếu tố
Mật trong Phật giáo thời Lý và pháp thuật của Tứ vị Thánh tổ; (iii) nhu cầu và hệ thống
tín ngưỡng của người Việt; (iv) yếu tố địa xã hội vùng đồng bằng sông Hồng. Để nhận
diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, luận án phân tích các yếu tố trên làm cơ sở để có
những nét phác thảo ban đầu về loại hình tín ngưỡng này.
2.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội thời Lý
Năm 938 với sự kiện Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên Bạch Đằng
Giang đã mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, chấm dứt một ngàn năm Bắc
thuộc, bước vào thời kỳ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền độc lập. Trải
qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê (938 - 1009), đã tạo được những cơ sở kinh tế,
chính trị, xã hội bước đầu tạo đà cho việc xây dựng một nền phong kiến độc lập.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi, mở ra triều đại nhà Lý, trên cơ sở kế thừa những
thành tựu đã đạt được của các triều đại trước, nhà Lý tiếp tục củng cố và xây dựng
đất nước trên các mặt cơ bản:
Củng cố nền độc lập tự chủ: Triều đại nhà Lý (1009 - 1225) với khoảng thời
gian lịch sử trên 200 năm, đã kế thừa những tiền đề về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội của triều đại Đinh, Tiền Lê, đồng thời tăng cường củng cố chế độ trung ương tập
quyền, phát triển văn hoá, xây dựng khối đại đoàn kết, tiếp tục phát triển đất nước với
hai nhiệm vụ cơ bản là độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia. Nhà Lý lựa chọn mô
hình thiết chế theo hướng tập quyền thân dân, với mô hình này các giá trị tư tưởng của
Phật giáo được vận dụng vào chính sách, đường lối cai trị đất nước.
32
Mở đầu là việc lựa chọn trung tâm kinh tế, chính trị cho cả nước thông qua
quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long của Lý Thái Tổ nhằm "mưu toan
nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu". Việc dời đô phản ánh ý chí và nguyện
vọng đồng thời cũng mở ra một thời đại mới cho dân tộc. Sau khi định đô ở Thăng
Long, nhà Lý bắt đầu tiến hành cải cách trên mọi lĩnh vực trong đó có cải cách hành
chính nhằm quản lý toàn diện đất nước. Đứng đầu là Vua, trong triều đình đứng đầu
hai ban văn võ là Tể tướng và các Á tướng do các đại thần phụ trách. Ở các cấp
hành chính được chia lại, đổi 10 đạo thời Đinh, Tiền Lê thành 24 phủ, lộ (ở vùng
đồng bằng) và châu, đạo (ở vùng miền núi), đứng đầu là các Tri phủ, Phán phủ. Mỗi
phủ, lộ gồm nhiều huyện, đứng đầu đơn vị hành chính cấp huyện là các Huyện lệnh.
Huyện bao gồm nhiều hương, các hương ấp ở nông thôn gồm các thôn xóm có thể
do một dòng họ cư trú và quản lý.
Chính quyền thời Lý xây dựng theo kiểu tập quyền thân dân, dung hoà văn hoá
là yếu tố nổi bật, tồn tại "tam giáo đồng nguyên, Phật - Lão - Nho", chấp nhận sự tồn
tại của Lão, Nho từ phương Bắc truyền sang qua các quan quân sang đô hộ nước Nam
trong gần một nghìn năm Bắc thuộc. Đến thời Lý, Nho, Lão đã thấm sâu vào phong
tục, văn hóa của một bộ phận người Việt. Tuy vậy, các vua Lý sùng Phật giáo, đề cao
tư tưởng, từ bi, bác ái của đạo Phật, vì thế trong bộ máy của triều đình có tổ chức Tăng
quan, một tổ chức có tính chất tôn giáo, liên quan chặt chẽ với hệ thống nhà nước vốn
đã có từ thời Đinh, Tiền Lê được kế thừa. Một số tăng sĩ học vấn uyên bác, tinh thông
tam giáo như Vạn Hạnh, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ, Minh Không,… được
nhà vua tôn trọng, coi như bậc Thầy và phong làm Quốc sư.
Về quân đội, có quân triều đình đóng ở kinh thành và quân địa phương, ngoài ra
còn có dân binh, hương binh ở đồng bằng và thổ binh ở miền núi, các biện pháp quản
lý hộ tịch, kiểm kê nhân khẩu được đảm bảo để dự tuyển binh lính. Nhà nước quản lý
chặt các đinh tráng trong nước làm cơ sở nhân lực để tuyển bổ quân ngũ và sai dịch.
Về pháp luật, thời Lý được xác định là nhà nước quân chủ có hệ thống pháp luật
khá chặt chẽ. Năm 1042, Lý Thái Tông cho soạn luật định, chấn chỉnh hoạt động xã
hội thích hợp với thời thế, ban hành Hình thư, tuy hiệu lực còn hạn chế nhưng đã thể
hiện bước tiến trong tổ chức quản lý, điều hành đất nước.
Như vậy, thời Lý với chính sách xây dựng và ổn định nhà nước từ đồng bằng
tới miền núi đã xây dựng một nền hành chính hoàn thiện hơn nhà Đinh và Tiền Lê,
củng cố chính quyền trung ương, xác lập trật tự chính trị, hành chính và luật pháp, đã
giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo lưu và phát huy bản sắc văn hoá tạo đà cho Phật giáo
và các tín ngưỡng phát triển đa dạng.
Phát triển nền kinh tế: Kinh tế dưới thời Lý phát triển trên các mặt nông
nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Trong nông nghiệp các hình thái sở hữu
33
ruộng đất thuộc nhà nước được xác lập bao gồm: ruộng quốc khố và đồn điền,
ruộng tịch điền, ruộng sơn lăng, ruộng công làng xã, ruộng thác đao và ấp thang
mộc. Ruộng đất nhà chùa chiếm bộ phận khá lớn, đây là một loại sở hữu tương đối
đặc biệt, không nằm trong sở hữu ruộng đất nhà nước.
Đặc trưng thời Lý là hình thức ban cấp thực ấp và thật phong, là hình thức
đánh giá công lao và đóng góp của người được ban cấp đối với nhà Lý. Chế độ ban
cấp được sử dụng rộng rãi, sư Giác Hải khi viên tịch được vua Lý Nhân Tông miễn
thuế cho 30 hộ để đèn hương thờ phụng [107, tr.140], sư Không Lộ sau khi viên
tịch cũng được miễn tô thuế cho 20 hộ để đèn hương thờ phụng [107, tr.107], sư
Minh Không khi chữa khỏi bệnh cho vua được ban hiệu Quốc sư, miễn phú dịch
cho vài trăm hộ [104, tr.376].
Nền kinh tế nông nghiệp từng bước phát triển, các vị vua Lý đã chú trọng
thực hiện khuyến khích sản xuất, sử sách còn ghi: Lý Thái Tông là vị vua ban hành
nhiều chính sách tích cực và tiến bộ với nông nghiệp, vua thân chinh đi thăm và cày
ruộng để động viên nông dân, vua Lý Thánh Tông xuống chiếu khuyến nông, ban
hành chính sách "ngụ binh ư nông" góp phần tăng sức lao động. Vua Lý Thần Tông
xuống chiếu "phàm dân ai tịch thu ruộng đất vào quan cùng là bị tội làm điền nhi thì
đều trả về cả. Các tăng đạo và nhân dân (có tội phải đày) làm lộ ông cũng tha cả.
Cho sáu quân thay nhau về làm ruộng" [104, tr.360].
Kinh tế thủ công nghiệp thời Lý có hai bộ phận: nhà nước và tư nhân. Nhà
nước làm những công việc như đúc tiền, chế tạo binh khí, chiến thuyền và các đồ
dùng như tơ lụa và phục phẩm của triều đình. Thủ công nghiệp tư nhân tạo ra các
sản phẩm nhằm đáp ứng yêu cầu của chính các gia đình, tiến hành trong hộ gia đình
theo hình thức tự cung tự cấp hoặc dùng trao đổi trên thị trường đáp ứng nhu cầu
sản xuất tiểu nông. Có nhiều nghề thủ công đã phổ biến như nghề dệt tơ lụa, nghề
gốm, nghề đúc đồng,… hình thành trong cộng đồng hình thức tín ngưỡng thờ những
vị tổ nghề. Từ Đạo Hạnh được nhân dân tôn thành tổ nghề múa rối, Nguyễn Minh
Không là ông tổ của nghề đúc đồng.
Kinh tế thương nghiệp, đã xác định vai trò quan trọng của tiền tệ, đồng tiền đã
thông dụng trên cả hai lĩnh vực nội thương và ngoại thương. Với mục đích đảm bảo an
ninh quốc gia nên chỉ cho phép thương nhân nước ngoài buôn bán ở một số điểm nhất
định và chịu sự kiểm soát của triều đình, các mặt hàng xuất khẩu phổ biến là lâm thổ sản
và các sản phẩm như giấy, vải, tơ lụa. Những thành tựu về kinh tế thể hiện ở các lĩnh vực
nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đã góp phần tạo thế đứng vững chắc cho
Đại Việt, chống Tống thắng lợi và làm tiền đề cho văn hoá, xã hội phát triển.
Về văn hóa, xã hội: Sự phân hoá xã hội theo hướng phong kiến hoá kiểu
Trung Hoa đã diễn ra từ thời Bắc thuộc, được thể hiện rõ nét dưới thời Lý, xã hội đã
34
dần hình thành hai giai tầng chính là: Tầng lớp cầm quyền và tầng lớp thứ dân.
Tầng lớp cầm quyền gồm vương hầu, quý tộc, quan lại cao cấp và một bộ phần địa
chủ quan chức hoá. Tầng lớp thứ dân bao gồm đông đảo những người bình dân như
nông dân, thợ thủ công, thương nhân, nô tì,… trong đó nông dân chiếm tuyệt đại đa số
và là lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội.
Do yêu cầu phát triển đất nước, các tôn giáo như Nho giáo, Đạo giáo đều có vai
trò nhất định. Năm 1070 vua Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu ở Thăng Long
để thờ Khổng Tử đồng thời là nơi dạy học cho các con vua, triều đình bắt đầu dựa vào
Nho giáo để phát triển chế độ khoa cử, đào tạo đội ngũ quan lại thông qua việc tổ chức
các khoa thi để tuyển chọn. Tuy nhiên, bên cạnh việc coi trọng Nho giáo, Đạo giáo thì
nhà Lý hết sức coi trọng và ủng hộ Phật giáo, bởi nhà Lý được xác lập có sự hậu thuẫn
tích cực của Phật giáo đồng thời dựa vào Phật giáo để xây dựng chế độ thống trị.
Dưới thời Lý lợi ích của Phật giáo hoàn toàn phù hợp với lợi ích của quốc gia
dân tộc, Phật giáo giai đoạn này phát triển đến đỉnh cao bởi Phật giáo đã đi vào đời
sống xã hội, gắn với phong tục, tập quán, tín ngưỡng của người Việt nên thu hút được
đông đảo dân chúng tin theo, có thể nói dân chúng thời Lý quá nửa làm sư sãi, chỗ nào
trong nước cũng dựng chùa, tô tượng, đúc chuông. Không chỉ xây dựng chùa tháp mà
triều đình còn cho người sang tận Trung Quốc để thỉnh kinh Phật, sử sách vẫn còn nghi
chép lại. Việc dựng chùa, tô tượng, đúc chuông được các tầng lớp vua chúa, quan lại
hưng công tín thí xây dựng và được quần chúng nhân dân hưởng ứng, hàng trăm ngôi
chùa được nhân dân dựng nên, năm 1010 "triều đình hạ lệnh cho các các hương ấp nơi
nào có chùa quán đổ nát đều phải sửa chữa lại" [104, tr.261], việc chép kinh, thỉnh
kinh, các pháp hội, giới đàn liên tiếp diễn ra trong suốt triều đại nhà Lý. Các hoạt động
trên với mục đích xiển dương Phật giáo đồng thời cũng nhằm đề cao khí thế của quốc
gia Đại Việt vượt lên trên hết là cầu mong cho vận nước được dài lâu, vua trường thọ,
dân chúng được hưởng cảnh thái bình, thịnh trị.
Giai đoạn này, các phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông tiếp tục
phát triển và có thêm một thiền phái mới là Thảo Đường. Các phái thiền đều xuất hiện
các nhà sư ưu tú được triều đình và nhân dân ca ngợi như Từ Đạo Hạnh, Dương Không
Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không,… Từ sự ủng hộ nhiệt thành của tầng lớp
vua chúa, quý tộc, quan lại trong triều đình cho đến đông đảo quần chúng nhân dân,
Phật giáo thời Lý đã có vị trí lớn trong xã hội, tác động và hội nhập vào mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Sự hội nhập ấy không chỉ diễn ra trong một giai đoạn mà xuyên
suốt chiều dài lịch sử trên 200 năm của nhà Lý.
Dẫu vậy, ngoài tôn sùng Phật giáo thì thời Lý còn rất coi trọng tín ngưỡng thờ
đa thần, sự coi trọng này không chỉ có trong vương hầu, quý tộc mà còn thể hiện trong
dân gian, dưới lớp phủ của các nghi thức nghi lễ tôn giáo đặc biệt là Phật giáo nhưng
35
nền tảng của tín ngưỡng bản địa hầu như không biến dạng mà luôn có quan hệ ảnh
hưởng và gắn liền với phong tục, nghi lễ của từng địa phương. Các tục thờ tổ tiên, thờ
thành hoàng, thờ các vị anh hùng có công với nước được mở rộng và có sự khuyến
khích của triều đình.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: Thuận Thiên năm thứ 7 (1016) làm lễ tế vong
các danh sơn (tế Lý Phục Man); năm 1028 phong tước cho thần núi Đồng Cổ, dựng
miếu để tuế thời cúng tế và làm lễ thề; dựng lại miếu Thái tổ Thần Vũ Hoàng đế;
năm 1144 dựng đền thần núi Tản Viên và các đền Bố Cái, Ông Nghiêm, Ông Mẫu,
tế lễ thần núi Tản Viên; năm 1160 làm đền Hai Bà và đền Xuy Vương; năm 1076
lập đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở cả sông Như Nguyệt; thiên tư Gia Thuỵ
năm thứ 4 (1189) tháng 3 vua Lý Cao Tông đi ngự khắp núi sông, phàm xe vua đi
đến đâu mà có thần linh đều cho phong hiệu và lập miếu để thờ. Cho thấy, thái độ
coi trọng tín ngưỡng thờ đa thần của người Việt ở các vị vua nhà Lý, đây chính là
điều kiện thuận lợi cho tín ngưỡng của người Việt phát triển và là điểm khởi đầu
cho việc thờ cúng các vị thần một cách có hệ thống dưới sự quản lý của nhà nước.
Thời Lý có nhiều nhân vật có công với đất nước được thần thánh hoá trong
dân gian như Lý Thường Kiệt, Lý Hoàng, Lê Phụng Hiểu, Mỵ Ê,…, còn được ghi
chép từ các tác phẩm như Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái. Khó có thể tìm
ra quy luật chung cho việc những người có công được nhân dân tôn vinh thành bậc
Thánh, nhưng rõ ràng với sự tôn vinh này cũng là cơ sở cho sự gia nhập thêm Từ
Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không vào hệ thống
các Thánh dưới thời Lý.
Với điều kiện về kinh tế, văn hoá xã hội đã tạo đà cho Phật giáo và Tín ngưỡng
dân gian của người Việt phát triển, mọi tầng lớp nhân dân tôn sùng Phật giáo nhưng
đồng thời trong sâu thẳm tâm linh, những hồi ức về lịch sử văn hoá dân gian vẫn được
quần chúng nhân dân lưu giữ, bảo tồn, thông qua những thực hành các nghi thức, nghi
lễ. Trong bối cảnh lịch sử, văn hoá đó, việc ra đời của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ cũng
là một tất yếu, bởi lẽ với một đất nước non trẻ luôn muốn khẳng định nền độc lập dân
tộc không phụ thuộc vào Trung Hoa, không bị đồng hoá về mặt văn hoá thông qua thể
hiện những giá trị bản sắc văn hoá riêng của mình thì việc tạo nên các thần linh của
riêng mình là điều tất yếu. Người Việt tạo cho mình những đại diện tinh thần nhằm
hướng đến mục đích thể hiện chủ quyền của một quốc gia dân tộc độc lập tự cường và
sự tự ý thức đất nước Đại Việt là một chính thể độc lập, sánh ngang với nước lớn
phương Bắc.
2.1.2. Yếu tố Mật trong Phật giáo thời Lý và pháp thuật của Tứ vị Thánh tổ
2.1.2.1. Yếu tố Mật trong Phật giáo thời Lý
Sau khi đức Phật qua đời khoảng một nghìn năm, Phật giáo Đại thừa phát
triển mạnh mẽ, Mật giáo xuất hiện với đặc trưng là sự phát triển cao độ những chú
36
thuật, nghi quỹ,… và trở thành một pháp môn quan trọng xen vào quá trình tu hành
của nhiều tông phái. Mật giáo bắt nguồn từ tư tưởng Bát Nhã, đồng thời cũng bắt
nguồn từ những tôn giáo cổ của Ấn Độ, chấp nhận sự có mặt của các vị thần linh
được thờ phụng trong dân gian nên Mật giáo dễ dàng phổ biến trong quần chúng,
khuynh hướng của Mật giáo phù hợp với sinh hoạt tín ngưỡng và phong tục của
người Việt lúc bấy giờ nên dễ dàng được chấp nhận. Mật giáo du nhập và trở nên
thịnh hành ở nước ta vào khoảng thế kỷ thứ VII, VIII, trở thành yếu tố quan trọng
trong sinh hoạt tôn giáo.
Thời Lý, Phật giáo đã phát triển đến giai đoạn cực thịnh, được coi là tôn giáo
chủ lưu. Phật giáo thời kỳ này là Phật giáo Đại Thừa (Bắc Tông) với sự kết hợp của
ba yếu tố Thiền, Tịnh, Mật. Mặc dù Thiền là nhân tố chính của Phật giáo Việt Nam
nhưng với điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của một đất nước mới
bước vào kỷ nguyên độc lập, chính quyền non trẻ, cần một điểm tựa về ý thức hệ để
bảo vệ lợi ích và củng cố địa vị xã hội, đồng thời nhằm tăng cường ảnh hưởng và uy
lực của giai cấp thống trị đối với quần chúng nhân dân thì yếu tố Thiền lại chưa thể
hiện được vai trò một cách rõ nét và mới chỉ đáp ứng được cho tầng lớp trên.
Thiền tông với giáo nghĩa uyên áo, phức tạp, khó tiếp cận nên giảm sự tín
ngưỡng của quần chúng, người Việt đặc biệt là tầng lớp bình dân vốn không chịu
những chế ước thái quá, không quan tâm nhiều đến hệ thống giáo lý, kinh điển chặt
chẽ, những triết lý cao siêu đi tìm về bản thể chân như, tự biện siêu hình, mà người
Việt quan tâm nhiều hơn đến kết quả thực hành đặc biệt là những thực hành có tính
pháp thuật bùa chú, sấm vĩ, tiên tri, người Việt chấp nhận những yếu tố mang tính
chất dân gian phù hợp với tâm hồn và đời sống tâm linh của họ. Với họ đấng tối cao
luôn mang tư cách là những vị thần, có thể chi phối, ban phúc, giáng họa cho đời
sống của con người "sự suy tưởng nội tâm (thiền định) nhường bước cho sự van vái,
co kéo Thần, Phật xuống gần trần thế hơn để cứu khổ, cứu nạn cho đời" [169,
tr.140]. Vì vậy, dưới thời Lý, Phật giáo chứa đứng yếu tố Mật giáo với các phép
phương thuật dễ dàng được nhân dân chấp nhận và tin theo bởi Phật giáo mang yếu
tố Mật giáo luôn gần và sẵn sàng thoả hiệp với Đạo giáo và tín ngưỡng thần linh
của người dân [142, tr.110], việc sử dụng thế lực của thần linh, sử dụng ấn chú, ấn
quyết và các hình ảnh Mạn đà la có thể hỗ trợ đắc lực cho các vị tu sĩ Phật giáo
trong việc tu tập, chính những khuynh hướng này của Mật giáo đã bao trùm mọi tín
ngưỡng bình dân trong lòng nó [90, tr.129] và mới có khả năng phát triển rộng rãi,
thu hút đông đảo quần chúng nhân dân, được họ đón nhận.
Mật giáo trở thành yếu tố chính của Phật giáo thời Lý bởi sự huyền bí hiệu
quả trong Mật luôn có sức hấp dẫn vượt trội lạ thường đối với người dân Việt, phù
hợp với nhiều tầng lớp trong xã hội, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi về mặt tâm linh của
37
nhân dân trong đời sống hàng ngày. Người dân Việt với đời sống tín ngưỡng mang
đậm mầu sắc vật linh luận luôn tin vào quỷ thần, tin vào những lực lượng siêu nhiên
huyền bí có thể che chở hoặc trừng phạt họ, vì thế "họ chỉ tin theo Phật khi nào mà
tôn giáo này thay thế được những thiên thần riêng của họ, bảo vệ che chở họ và chỉ
có yếu tố Mật giáo trong Phật giáo mới đáp ứng được bởi có đủ những bài kinh, bài
chú để cầu mưa, cầu tạnh, chữa bệnh, trừ tà,…" [118, tr.93]. Thật vậy, nét nổi bật
của Mật giáo đó chính là các biện pháp hô phong, hoán vũ, kinh công, pháp thuật và
chữa bệnh, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của quảng đại quần chúng nhân dân Việt
trong buổi đầu xây dựng quốc gia, dân tộc.
Thực tế xã hội Việt dưới thời Lý, không chỉ có các tầng lớp dân chúng yêu
thích các phép thuật thần thông mà các vị vua triều Lý như Lý Thái Tổ, Lý Thái
Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông,.. cũng yêu thích các yếu tố
phong thuỷ, sấm vĩ, cầu đảo, bùa chú, bắt quyết, sùng bái thờ cúng và thực hành
pháp thuật để hoá giải tai ương, điểm gở nên thường nhờ đến các vị sư tu hành theo
Mật giáo đến để thực hành các nghi thức tế lễ, lập đàn cầu đảo để yểm trợ, che chở
và cầu mong sự sinh hoá, tuổi thọ và phúc trạch dài lâu.
GS.Hà Văn Tấn khi nghiên cứu về văn bia tại tháp Sùng Thiện Diên Linh, được
soạn năm 1121 tại Chùa Đọi, Hà Nam, cho rằng các tháp ở hội đèn Quảng Chiếu,
Thăng Long thời Lý là có liên quan đến lễ thí thực cho ma đói, hay nói chung cho các
cô hồn, cho thấy ảnh hưởng rõ ràng của Mật giáo [120, tr.36]. Hội đèn Quảng Chiếu là
một trong những biểu hiện Mật giáo thời Lý, hội này do Vua chủ trì.
Cùng với Hội đèn Quảng Chiếu còn có Hội Nhân vương, đây là một hội kinh
Mật giáo được diễn ra khi quốc gia lâm nạn. Hội tụng kinh Nhân vương Bát nhã ba la
mật để ca ngợi và cầu mong được phù hộ quốc thái dân an, có bảy loại nạn phải cầu
đảo bằng cách đọc kinh này: Nhật Nguyệt, Tinh Tú, Thần, Hỏa, Thủy, Đại Phong, Tai
Hạn, Binh Tặc. Với hội kinh Nhân Vương cho thấy yếu tố Mật đã trở thành trào lưu
với những sinh hoạt tôn giáo sôi nổi, yếu tố Mật đã đáp ứng cho một nhu cầu có thực
đó là sự gia hộ và cứu độ cho chúng sinh, có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Hội tụng kinh
Nhân vương cũng được chép lại trong chính sử [3, tr.15].
Sự hiện diện của yếu tố Mật còn được thể hiện qua dấu ấn vật chất như việc
lập đàn cúng tế, xây dựng chùa Diên Hựu (Một Cột) và tháp Đại Thắng Tư Thiên
đều được chính sử ghi chép lại [104, tr.312,313]. Với kiến trúc của chùa Một Cột,
nhiều nhà nghiên cứu như Ngô Văn Doanh, Trần Trọng Dương cho rằng đó chính là
biểu hiện kiến trúc Liên Hoa Đài của Mật tông, thông qua việc phân tích các thành
phần của tháp Mật tông soi chiếu vào chùa Một Cột để nhận diện cho thấy giống
các tháp Mật tông ở bình đồ hướng tâm và những ý niệm biểu tượng [32, tr.430].
Còn với tháp Đại Thắng Tư Thiên, nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Tuấn cũng cho
38
rằng đây là ngọn tháp của Mật tông, tháp có 12 tầng biểu hiện cho "thập nhị thiên"
đó là 12 cõi trời, gồm: Phạm Thiên, Địa Thiên, Nguyệt Thiên, Nhật Thiên, Đế Thích
Thiên, Hoả Thiên, Diêm Ma Thiên, La Sát Thiên, Thuỷ Thiên, Phong Thiên, Tì Sa
Môn (Đa Văn Thiên), Đại Tự Tại Thiên [150]. Yếu tố Mật thể hiện qua dấu ấn vật chất
cũng không nhằm ngoài sự cầu mong để bảo trợ cho đế đô và vương quốc.
Có thể nói thời Lý, Mật giáo Phật giáo được mọi tầng lớp trong xã hội chấp
nhận, vì thế những phép phù thuỷ, bùa chú, sấm vĩ, phương thuật, cầu đảo, chữa bệnh
bằng pháp thuật đã dễ dàng dung hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa của người Việt,
những vị sư tu hành Mật giáo đắc đạo thần thông đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về mặt tâm
linh và các nhu cầu cuộc sống của nhân dân trong đời sống hàng ngày, nhận được sự
ngưỡng mộ của họ.
2.1.2.2. Yếu tố pháp thuật của Tứ vị Thánh tổ
Thời Lý xuất hiện nhiều vị thiền sư của hai phái Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô
Ngôn Thông, trong hoạt động tôn giáo các vị luôn sử dụng các phép phương thuật cầu
đảo để tham gia xây dựng vương quyền, giúp vua trị vì đất nước, làm cho mưa thuận
gió hoà để mùa màng của người dân được tốt tươi, tạo cho việc sản xuất nông nghiệp
được thuận lợi hay sử dụng các phép phương thuật để chữa bệnh cứu người, sử dụng
các phép trừ tà, phép giải các bài sấm ký làm an lòng quảng đại quần chúng là một tất
yếu khách quan, trở thành khuynh hướng chủ đạo trong đời sống tư tưởng, tôn giáo, nổi
lên trên bề mặt sinh hoạt xã hội. Những phép phương thuật, thần thông của nhiều vị sư
do sự tu hành Mật giáo mà đạt được trở nên thần kỳ dưới con mắt của người dân, là
những người có thần lực, trở thành những người tu hành Phật giáo quyền năng, đáp
ứng nhu cầu tín ngưỡng thần linh bản địa của một xã hội nông nghiệp.
Trong Phật giáo, ngay từ thời đức Phật còn tại thế, chính đức Phật cũng như
các đệ tử của ngài đều có khả năng thành tựu các pháp thần thông do tu tập, trong
đó phải kể đến Mục Kiền Liên được coi là vị thần thông đệ nhất. Có thể nói rằng,
thần thông chính là một loại năng lực siêu việt. Tuy nhiên, khi còn tại thế đức Phật
không khuyến khích tu theo lối Mật giáo để áp dụng cho người căn cơ thấp vì pháp
này không phù hợp với luật nhân quả, hướng con người tới cầu tha lực không phát
triển nội lực cho tha nhân. Trong Phật giáo phải thông qua tu tập và khi đạt được trí
tuệ nhất định thì người có khả năng căn cơ cao có thể đạt được các mức thần thông
khác nhau và cao nhất là 6 loại: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông,
Túc mệnh thông, Như ý thông (thần túc thông), Lậu tận thông. Tuy nhiên để đạt tất
cả 6 loại thần thông trên chỉ có bậc Thánh, Bồ tát và Phật đã khai ngộ.
Việc tu theo Mật giáo được biểu hiện rõ nét trong cách thức tu trì của Tứ vị
Thánh tổ, đó là tu theo pháp môn tổng trì tam ma địa hay còn gọi là đà la ni, đây là
một pháp môn của Mật giáo. Thiền Uyển Tập Anh còn ghi lại như sau: "Từ Đạo
39
Hạnh ẩn tu trong núi Phật Tích ngày ngày chuyên chú trì Đại bi tâm đà la ni đủ
mười vạn tám nghìn lần. Một hôm sư thấy thần nhân đến bảo "Đệ tử là Tứ Trấn
Thiên Vương cảm công đức của sư trì tụng kinh Đại Bi nên đến hầu để sư sai phái".
Sư biết là đạo đã viên thành" [107, tr.198]. Dương Không Lộ, Giác Hải cũng ngày
đêm chuyên trú tu trì pháp môn đà la ni để đắc đạo thần thông [107, tr.105, 138].
Với việc tu trì pháp môn đà la ni, Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn
Giác Hải, Nguyễn Minh Không đều thành tựu các phép thần thông, có thể chữa
bệnh bằng phép thuật, thần chú, cầu mưa, cầu tạnh,…. Thiền Uyển Tập Anh ghi
chép việc đắc đạo thần thông của Tứ vị Thánh tổ như việc Từ Đạo Hạnh làm bùa
chú để phá Giác Hoàng đầu thai "… Sư nhờ chị gái giả làm người đi xem hội, lén
đem chuỗi hạt do sư đã kết ấn, treo lên rèm cửa. Hội đến ngày thứ ba thì Giác
Hoàng bỗng kêu đau bảo mọi người: "ta đã đi khắp hoàng thành, nhưng ở đâu cũng
có lưới sắt vây kín muốn thác sinh cũng không biết lọt vào bằng cách nào". Vua ngờ
sư làm bùa chú để phá, bèn sai quan xét hỏi thì sư thú nhận…" [107, tr.201], hay
như việc giao hợp thiêng giữa Từ Đạo Hạnh và Đỗ Thị vợ của Sùng Hiền Hầu "sư
bèn đi ngay đến phủ đệ của Sùng Hiền Hầu vào thẳng nơi phu nhân đang tắm mà
nhìn,… từ đó phu nhân cảm thấy mình có thai.." [107, tr.202] và đỉnh cao của phép
thuật mà Từ Đạo Hạnh đạt được do tu Mật giáo là việc thác sinh, đầu thai thành vua
Lý Thần Tông… Tất cả những hiện tượng trên đều liên quan đến Mật giáo, liên
quan đến Đại bi tâm đà la ni. Ngoài ra, Từ Đạo Hạnh còn có thể "khiến rắn rết
muông thú đến chầu phục, đốt ngón tay cầu mưa, phun nước phép chữa bệnh".
Dương Không Lộ "tâm thần, tai mắt ngày càng sáng láng thông tỏ, bay trên không,
đi dưới nước, hàng long phục hổ, muôn nghìn phép lạ không lường hết được". Giác
Hải "chú mục nhìn chỉ nháy mắt con tắc kè rơi xuống; làm tám phép thần biến, tung
người nhảy lên không cao đến mấy trượng, trong chốc lát lại nhảy xuống chỗ cũ"
[107, tr.200]. Nguyễn Minh Không chữa khỏi bệnh hoá hổ cho vua Lý Thần Tông
"tục truyền rằng khi nhà sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác đem thuốc và thần chú giao
cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Minh Không và dặn rằng 20 năm sau thấy
quốc vương bị bệnh nặng thì đến chữa ngay" [104, tr.376], Nguyễn Minh Không tu
theo Mật giáo gắn liền với chú Đại bi và phép thần thông. Rõ ràng, việc tụng chú
Đại bi, sử dụng thần thông hay các pháp thuật của Tứ vị Thánh tổ chính là hiện
tượng của Mật giáo, sử dụng Mật giáo với phương pháp cầu tha lực, nương nhờ tha
lực, thể hiện năng lực thiêng liêng.
Với những khả năng đặc biệt, khác thường của các vị sư đã được số đông
dân chúng đón nhận, không chỉ bởi đáp ứng tâm lý thích và tin vào những điều linh
dị, huyền bí, mà còn bởi các sư đã hướng việc sử dụng các phép thần thông phục vụ
cho đời sống của người dân, đem lại những lợi ích thiết thực cho họ như chữa bệnh,
40
cầu mưa, cầu tạnh để mùa màng được tốt tươi,… Bốn vị sư của Phật giáo có đầy đủ
phẩm chất về Đức và Tài, trở thành hình tượng cao cả ngay từ khi các sư còn tại thế
vì thế khi các sư viên tịch, chính yếu tố thần thông pháp thuật của các sư được nhân
dân ngưỡng mộ đưa các ngài trở thành bậc Thánh trong tín ngưỡng dân gian.
Việc tu hành Mật giáo, đạt được các phép thuật thần thông gần với tín
ngưỡng dân gian nên dễ dàng dung hợp, hoà nhập, vay mượn lẫn nhau, đặc biệt
trong mặt thực hành để đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân Việt. Trong không
khí đó đã nẩy sinh một sự kết hợp giữa Mật giáo và Tín ngưỡng dân gian của người
Việt hình thành nên hỗn hợp Phật - Thánh được cả vua quan và tầng lớp bình dân
tôn thờ, hình thành nên một hỗn hợp tôn giáo lý thú trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam [147, tr.17-18].
Việc chủ động tạo ra hỗn hợp Phật - Thánh nhằm hướng đến tạo ra các nét
văn hoá riêng để nâng của các tín điều trong Tín ngưỡng dân gian lên một tầm diện
cao hơn, đồng thời sử dụng các nghi lễ của tôn giáo trong việc đáp ứng các nhu cầu
nông nghiệp và dân sinh thiết yếu đó là cầu đảo khi có hạn hán (cầu mưa), lụt lội
(cầu tạnh), tổ chức các hội mừng thọ, cầu tự cho nhà vua, hoặc nhờ đến các vị sư
chữa bệnh,…
Trong lịch sử các vị sư của Phật giáo được triều đình và nhân dân ghi nhớ
công trạng, tôn vinh thành bậc Thánh chỉ có Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ,
Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không. Vậy, một câu hỏi được đặt ra tại sao dưới
thời Lý có nhiều nhà sư tu hành theo Mật giáo đắc đạo thần thông nhưng chỉ có 4 vị
được dân gian tôn vinh thành bậc Thánh? Và tại sao lại chỉ xuất hiện Tứ vị Thánh tổ
dưới thời nhà Lý mặc dù trước thời Lý và sau thời Lý yếu tố Mật giáo nổi trội và có
nhiều nhà sư tu học đều đạt thành tựu nhưng không còn được tôn vinh thành bậc
Thánh? Trong các nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam hay các nghiên cứu về đời
sống văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng các nhà nghiên cứu đều đề cập tới việc các vị
thiền sư Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không
được phong là Thánh trong dân gian như một điều mặc định mà không nêu nguyên
do cho sự lựa này và "tiêu chí" nào để chọn bốn vị thiền sư của Phật giáo trở thành
những vị Thánh mang đậm màu sắc dân gian. Để trả lời cho câu hỏi này thực không
dễ, bởi trong các nghiên cứu trước chưa ai đề cập tới, NCS bước đầu lý giải trên các
bình diện sau:
Thứ nhất, tính thời đại
Sự xuất hiện của bốn vị thiền sư của Phật giáo Từ Đạo Hạnh, Dương Không
Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không trở thành các vị Thánh trong tín
ngưỡng dân gian được tạo dựng dưới thời Lý - thời kỳ đầu của quốc gia Đại Việt đã
thể hiện tư tưởng của thời đại mong muốn Phật giáo thực sự hoà nhập sâu rộng hơn
41
vào đời sống tâm linh của người Việt. Từ đó tạo cơ hội cho quá trình dung hợp các
yếu tố nội sinh và ngoại lai, nhằm bản địa hoá tôn giáo ngoại lai, tạo nên hiện tượng
độc đáo trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo và tạo nên sắc thái tín ngưỡng mới
mang mầu sắc riêng của người Việt. Đây cũng là sự phản chiếu về một thời kỳ lịch
sử và sâu xa hơn nữa đó chính là biểu hiện tâm thức của người Việt luôn tồn tại một
thế giới siêu nhiên làm mẫu mực cho cuộc đời này hướng tới. Tư duy tạo thần luôn
trong tâm thức, thể hiện tâm hồn của người Việt thấm đẫm tình cảm với tín ngưỡng,
tôn giáo, luôn cởi mở, dung hoà, sẵn sàng tiếp nhận cái mới, chịu sự chi phối của
cái mới. Người Việt hướng tới thần, thánh cũng nhằm tìm đến sự phù hộ, che chở,
họ cầu khấn để chống kẻ thù địch, chống kẻ xâm lăng và mong muốn được các vị
thần linh che chở để có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Việc tôn Thánh cho những người có công với triều đình và nhân dân không
chỉ thể hiện tinh thần dân tộc, mà còn là sự vọng tưởng thiêng liêng của người dân
Việt đối với những người có công với triều đình và nhân dân. Vua Lý Công Uẩn
mặc dù lớn lên trong môi trường thấm đẫm tinh thần của Phật giáo nhưng vẫn tin
vào trời, tin vào quỷ thần gieo phúc, giáng họa cùng những điểm lành, dữ, là đại
diện tiêu biểu cho đời sống tín ngưỡng đa thần của người dân Việt, nhân một lần đi
xem ngắm núi sông, làm lễ tế vọng các danh sơn, tạc tượng thần Lý Phục Man tuế
thời cúng tế. Vua Lý Thái Tôn phong tước vương cho thần núi Đồng Cổ, dựng miếu
để tuế thời cúng tế và làm lễ thề, phong tước vương và lập đền thờ Hoằng Thánh
Đại Vương vốn làm Thái uý dưới triều vua Lê Đại Hành,…Trên nền tảng nhu cầu
tâm linh đa thần đó, người Việt tìm cách khẳng định sự độc lập của dân tộc không
chỉ bằng kinh tế, chính trị mà còn bằng cả hoạt động văn hoá, tạo ra các vị thần,
thánh của riêng dân tộc mình. Vì vậy, việc nhân dân tôn các vị Từ Đạo Hạnh,
Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không thành các bậc Thánh
phù hợp với tâm thức của thời đại, phù hợp với hoàn cảnh xã hội. Vừa thể hiện tinh
thần xiển dương Phật giáo, vừa cho thấy vai trò của Tín ngưỡng dân gian trong đời
sống xã hội.
Tính thời đại cũng nhằm lý giải cho việc tôn xưng các vị thiền sư Phật giáo
thành bậc Thánh tại sao chỉ diễn ra vào thời Lý, không thấy xuất hiện trước đó vào thời
Đinh, Tiền Lê, mặc dù với hai triều đại trước yếu tố Mật giáo cũng được ưa chuộng
trong xã hội thể hiện qua việc Nam Việt Vương Đinh Liễn đã cho dựng 100 cột bia
đá khắc bài thần chú Phật đỉnh tôn thắng đà la ni, Vua Lê Đại Hành cũng đã cho
dựng trong sân chùa Nhất Trụ ở kinh đô Hoa Lư một cột đá cao 3m có tám mặt
khắc bài thần chú trong kinhThủ Lăng Nghiêm. Có thể lý giải rằng, thời Đinh, Tiền
Lê đất nước vừa mới thoát khỏi ách cai trị của chính quyền quân chủ phương Bắc sau
ngót một nghìn năm lệ thuộc vì thế nhu cầu của hai triều đại này chủ yếu gắn với việc
42
giữ vững nền độc lập non trẻ và xây dựng chính quyền nên mặc dù tín ngưỡng, tôn
giáo đã được nhắc đến song chưa quan tâm một cách sâu sắc như thời Lý. Sang đến
thời Trần, ở giai đoạn đầu Phật giáo mang yếu tố Mật giáo đã không còn ảnh hưởng
nhiều như thời Lý, bởi chính xã hội thời Lý sùng Mật giáo mà xã hội lụi tàn, vì thế thời
Trần đã chuyển từ trọng Mật giáo sang trọng Thiền, được minh chứng qua sự việc ba
thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường dần nhập lại thành một,
thống nhất và đưa tới sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm. Tuy nhiên, đến đời vua Trần
Anh Tông ảnh hưởng của Mật giáo quay trở lại, thể hiện qua sự việc năm 1318 vua
xuống chiếu đi tìm vị tăng sĩ Ấn Độ là Ban Để Ô Sa Thất Lợi về dịch một cuốn kinh
Mật giáo có tên là Bạch Tán Cái Thần chú Kinh, trước đó, cũng đã có nhiều nhà sư
theo khuynh hướng Mật giáo đến nước ta như sư Du Chi Nà Lam, Bồ Đề Thất Lý.
Thiền sư Pháp Loa cũng đã chú giải một số kinh văn có khuynh hướng Mật giáo, nghi
lễ Quán Đỉnh, một nghi lễ long trọng của Mật giáo được thực hành phổ biến dưới thời
Pháp Loa, vua Trần Anh Tông được Pháp Loa làm lễ Quán Đỉnh vào năm 1320 trước
khi băng hà. Tuy nhiên, sự quay trở lại của Mật giáo thời kỳ này không được đề cao
như thời Lý, và chúng ta còn bắt gặp trường hợp tương tự qua Đức Thánh Bối Nguyễn
Bình An, nhưng hành trạng của Thánh Bối thể hiện tính chất tu hành thấm đẫm mầu
sắc của Đạo giáo nhiều hơn là chịu ảnh hưởng của yếu tố Mật giáo [151]. Cuối thời
Trần với sự khủng hoảng chính trị, Phật giáo đã không còn chiếm ưu thế mà thay vào
đó là Nho giáo, đến thời Hậu Lê, Nho giáo trở thành ý thức hệ, Phật giáo có xu hướng
dân gian hoá từ bỏ đời sống cung đình đi vào đời sống dân gian vì thế đã không còn vị
sư nào của Phật giáo được phong thành bậc Thánh trong các triều đại tiếp theo. Thứ hai, tâm lý xã hội.
Như đã trình bày ở trên, thời Lý sự sùng bái các hành động mang tính ma
thuật không chỉ trong dân gian mà cả trong tầng lớp vua quan của triều đình, một
quang cảnh thần bí bao trùm xã hội, nhiều vị vua Lý không chỉ yêu thích Mật giáo, tín
ngưỡng đa thần mà còn ưa thích dị đoan, chuộng điềm lành, vật lạ, mẫn cảm với những
điểm triệu thần bí. Thời Lý, thần linh được tập hợp, điểm triệu nhiều với sự xuất hiện
của không ít những con vật thiêng như rồng, rùa, voi trắng,… vết chân người khổng lồ,
dấu vết của thần nơi cung miếu, chùa Phật, những hiện tượng thiên nhiên đột ngột, sự
vật lạ thường đều được cảm nhận và suy diễn, chính xu hướng này đã ảnh hưởng đến
đời sống tâm linh xã hội, các vị tăng sĩ của Phật giáo đã phải có những điều chỉnh thích
ứng để hoà nhập với đời sống tâm linh chung nên việc các vị tăng sĩ xiển dương các
phép thuật thần thông trở nên tiêu biểu và thịnh hành trong xã hội đương thời.
Khuynh hướng trí năng của các vị tăng sĩ Phật giáo thần thông, sử dụng
quyền năng thần thông để giúp đời cứu người được lan toả, vì thế với những sự tích
có vẻ hoang đường như sự ra đời của vua Lý Công Uẩn thông qua giao hợp thiêng
43
giữa bà mẹ là Phạm Thị và người Thần nhân một lần đi lễ tại chùa Tiêu Sơn, hay
yếu tố thần thông còn được thể hiện ở việc Từ Đạo Hạnh thác sinh, đầu thai một
cách linh dị được người dân ưa chuộng. Với xã hội hiện đại ngày nay các yếu tố nêu
trên được coi là hoang đường, không có thật, mê tín dị đoan, nhưng với thời điểm
lịch sử thời Lý, khuynh hướng tâm linh đa thần của người dân luôn tin vào những
pháp thuật quyền năng thì những điều ngày nay coi mê tín ấy lại hoàn toàn phù hợp
với nhận thức và đời sống tín ngưỡng của người dân. Có thể khẳng định, đây là thời
kỳ các phương thuật, phù chú, cầu đảo, sấm vĩ thịnh hành.
Xã hội thời Lý, tâm lý mến mộ, ưa chuộng phép thuật, cầu đảo, những điều
linh dị, đã tạo cơ hội gặp gỡ và hoà trộn giữa yếu tố Mật của Phật giáo với Tín
ngưỡng dân gian, là điều kiện thuận lợi cho nhiều vị sư được thể hiện những pháp
thần thông, tuy nhiên trong việc thi triển cũng có sự cao thấp khác nhau, thực hiện
pháp thuật vào các mục đích khác nhau. Nguyễn Duy Hinh cho rằng: "trước Không
Lộ, Minh Không, Giác Hải, Từ Đạo Hạnh cũng đã có hiện tượng thần thông trong
sơn môn do thiền định đạt đến nhưng chỉ với nhóm nhà sư này hiện tượng thần
thông mới đạt đến đỉnh cao" [55, tr.429]. Các vị Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ,
Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không là những vị sư giỏi nhất, thể hiện pháp
thuật thần thông phù hợp với tâm lý đại chúng, đi vào đời sống của nhân dân lấy
được tình cảm của một lớp người đông đảo trong xã hội đương thời, trở thành mảnh
đất tốt, thuận lợi cho các vị thiền sư được coi là những bậc tài năng, đức độ, chiếm vị
trí đặc biệt và in đậm trong tâm thức dân gian. Theo logics cảm xúc dân gian, những vị
thiền sư Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không với
pháp thuật thần thông như chữa bệnh, cầu đảo, chính là "tiêu chuẩn" để nhân dân tôn
xưng các sư thành bậc Thánh, "nhân dân ta rất tôn thờ và ngưỡng mộ sâu sắc những
người tuy ở trần thế nhưng nhờ thông qua thiền định về tu luyện khổ hạnh mà đã đạt tới
trạng thái hoàn thiện về tinh thần và vật chất" [74, tr.173].
Thứ ba, đạo lý "uống nước nhớ nguồn" truyền thống tôn vinh những người
có công với cộng đồng xã hội
Sự kính ngưỡng bốn vị Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải,
Nguyễn Minh Không từ những vị thiền sư của Phật giáo trở thành bậc Thánh trong
tín ngưỡng dân gian đã cho phép tin rằng đó chính là những đại biểu xứng đáng của
Phật giáo đáp ứng được yêu cầu tâm linh của người dân ngay từ khi họ còn tại thế.
Dân gian có câu: "Trí cao trời, người trọng/ Đức lớn quỷ thần kinh", bốn vị thiền sư
Đạo Hạnh, Không Lộ, Giác Hải, Minh Không không chỉ là những vị có pháp thuật
cao nhất, mà trong hoạt động tôn giáo mục đích thể hiện pháp thuật để hướng về
nhân dân, giúp cho nhân dân được mùa màng bội thu, có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, đó chính là những phương tiện cứu vớt hữu hiệu đối với người dân vùng đồng
44
bằng sông Hồng, nên sự tin tưởng, kính trọng các sư đã ngấm sâu vào mọi tầng lớp
nhân dân, ngay từ khi còn tại thế bốn vị thiền sư vốn đã trở thành bậc Thánh trong
lòng họ.
Tiếp đến, bốn vị sư đã phát huy tinh thần khế lý khế cơ, dấn thân vào các
hoạt động thế tục, hướng đến quảng đại quần chúng nhân dân, đem sự tài năng, đức
độ, trí tuệ, để giúp đời, cứu người đó chính là tiêu chí để được tăng, tục kính trọng
và ngưỡng mộ. Chính sức mạnh thần thông, tài năng và uy đức của mình luôn
hướng về thế tục, đã được các sư vận dụng một cách khéo léo vào hiện trạng xã hội.
Sự gần gũi, quan tâm đến người dân thông qua việc dậy họ làm ăn, khai canh mở
ruộng, truyền lại các nghề thủ công như trồng lúa, múa rối, đúc đồng, đánh cá, chia
sẻ với họ những khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, nhằm đem lại cho họ những
điều an vui, tốt lành, đã đưa đến cho người dân tâm lý biết ơn, ngưỡng mộ. Từ Đạo
Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không trở thành biểu tượng
tốt đẹp ngay khi còn tại thế và khi các vị viên tịch được nhân dân tôn thờ thành bậc
Thánh, trở thành chỗ dựa tinh thần cho cộng đồng.
Mặt khác, việc những vị tăng sĩ Phật giáo được nhân dân nâng thành bậc
Thánh cũng không có gì khó hiểu, bởi người Việt trong đời sống tín ngưỡng luôn
biết biến hoá. đây cũng có thể coi là một phần của dân tộc tính, người Việt không
chấp nhận nguyên vẹn những gì ngoại lai mà không có sự biến hoá cho phù hợp với
điều kiện sống của họ.Trong lịch sử dân tộc người Việt đã biến Phật giáo là một tôn
giáo ngoại sinh trở thành Phật giáo Việt Nam qua sự tiếp biến văn hoá và những câu
chuyện về vị sư Khâu Đà La và Phật Tứ Pháp trong giai đoạn đầu Phật giáo du nhập
là ví dụ sống động để minh hoạ. Với tâm thức ngưỡng mộ, tôn thờ những người có
công với cộng đồng và quan niệm về những vị thần, thánh đã tạo nên một dòng tín
ngưỡng Tứ vị Thánh tổ mang đậm màu sắc dân gian, được truyền tụng từ đời này
sang đời khác và đến nay vẫn còn nguyên sức hấp dẫn với xã hội đương đại.
2.1.3. Nhu cầu và hệ thống Tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng sông
Hồng tác động đến tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
2.1.3.1. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt
Trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân vùng đồng bằng sông
Hồng chịu ảnh hưởng của quan niệm mang đậm màu sắc vật linh, tồn tại tín ngưỡng
bản địa hồn linh giáo, đó là niềm tin vào sự bất tử của linh hồn, vạn vật đều có linh
hồn, trở thành cơ sở cho sự đa dạng trong thế giới thần linh đồng thời cũng là nền
tảng cho sự nảy sinh và nuôi dưỡng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Nước ta là một
nước nông nghiệp, cuộc sống hàng ngày của người dân phải trông chờ khá nhiều
vào các điều kiện tự nhiên, vào mưa thuận gió hoà nên người Việt nhìn đâu cũng
thấy thần linh, thần linh ẩn trong các hiện tượng tự nhiên, thần linh ẩn trong mỗi
45
gốc đa, ngọn cỏ để giúp sức cho họ. Trên nền tảng đó, việc thờ phụng những người
có công, trong đó có bốn vị thiền sư Phật giáo là những người có sức mạnh phi
thường thông qua các pháp thuật thần thông cầu đảo cầu mưa cầu tạnh cho người dân
và được người dân phong thành Thánh âu cũng là điều dễ hiểu. GS.Nguyễn Văn
Huyên cho rằng: "lòng tin vào thần tiên được làm sống động không gian… mỗi một
thời kỳ quan trọng của lịch sử, mỗi thời đại thịnh vượng đều được minh hoạ bởi sự
xuất hiện của thần tiên" [74, tr.179].
Như đã nêu trên, những lý do cho việc tôn các vị thiền sư của Phật giáo
thành bậc Thánh và hình thành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ xuất phát từ tính thời đại,
tâm lý xã hội với lòng tự tôn dân tộc và truyền thống uống nước nhớ nguồn đã trở
thành một đặc trưng trong tâm thức của người Việt. Người Việt luôn dành tình cảm
sâu đậm cho những người có công với nước với dân, từ lòng biết ơn, sự kính mộ
tiến đến tôn thờ là bước không dài. Việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ được sự ủng hộ
của triều đình và nhân dân, sử sách đều còn ghi: Từ Đạo Hạnh trút xác ở núi Phật
tích đã được triều đình và nhân dân đưa xác vào trong khám để thờ [104, tr.343],
Mùa thu tháng tám năm Tân Dậu (1141) Quốc sư Minh Không chết, sư rất linh ứng
phàm khi có thuỷ hạn tai hại gì cầu đảo đều ứng nghiệm cả, nay hai chùa Giao Thuỷ
và Phả Lại đều tô tượng để thờ [104, tr.384]. Sư Giác Hải khi qua đời, triều đình
miễn thuế cho 30 hộ để lo đèn hương thờ phụng. Sư Không Lộ khi thị tịch vua Lý
Nhân Tông cho sửa sang mở rộng chùa Nghiêm Quang, miễn tô thuế cho 20 hộ để
đèn hương thờ phụng [107, tr.107, 140].
Mỗi thời kỳ các triều đình phong kiến đều dựa vào một tôn giáo làm điểm
tựa ý thức hệ nhưng cũng vẫn luôn coi trọng tín ngưỡng thờ đa thần của dân tộc, sự
coi trọng này không chỉ có trong vương hầu quý tộc mà còn có trong dân gian. Đặc
biệt, dưới tác động của Nho giáo, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ còn tiếp tục được thần
thánh hoá qua các sắc phong, thần tích để tôn vinh các thiền sư, thể hiện việc ghi
nhớ công trạng và tỏ lòng thành kính của các bậc vua chúa đối với những người có
công với triều đình và nhân dân. Hiện nay một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ vẫn
còn lưu giữ sắc phong đó như chùa Keo (Thái Bình), Keo Hành Thiện (Nam Định),
chùa La Phù (Hà Nội),…(Xem phụ lục số 8).
Đối với nhân dân, việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ được thể hiện qua văn học
truyền miệng "văn kể hạnh". Ngay từ thời Trần cứ đến ngày giỗ, người dân thường
kéo đến chùa tổ chức kể hạnh, kể lại sự tích của các Thánh, một mặt duy trì tín
ngưỡng, mặt khác làm cho sự tích ngày càng thêm linh dị, làm tăng thêm tính
"thiêng" cho các vị Thánh tổ, đây chính là quá trình huyền thoại hoá và cũng là biện
pháp đầu tiên mà người dân vùng đồng bằng sông Hồng sử dụng để thiêng hoá Tứ
vị Thánh tổ.
46
Việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ đáp ứng nhu cầu tâm linh bình dị của người
dân. Người dân tìm đến nơi thờ các Thánh để cầu mùa, cầu tài, cầu lộc, cầu phúc,
cầu bình an, với họ Tứ vị Thánh tổ là những bậc siêu phàm, họ tin tưởng để cầu
khấn, giúp họ. Họ thờ các Thánh bởi các Thánh chính là những vị tổ nghề truyền
dạy cho họ nghề múa rối, đúc đồng, trồng lúa, đánh cá. Từ Đạo Hạnh là ông tổ của
nghề múa rối, Nguyễn Minh Không là ông tổ của nghề đúc đồng, Dương Không Lộ,
Nguyễn Giác Hải là những người có công dạy dân vùng Trấn Sơn Nam Hạ nghề
chài lưới, đơm đó,… đến nay trong dân gian vẫn còn lưu truyền những câu chuyện
truyền nghề cho dân của các sư.
Chính vì lý do trên, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ được bảo tồn và phát triển với
không gian thiêng là vùng đồng bằng sông Hồng và với thời gian thiêng gần 10 thế kỷ
nhiều biến đổi và thăng trầm nhưng vẫn theo quy luật tâm linh của người Việt ở cả tầng
lớp quý tộc và bình dân. Đối với người dân vùng đồng bằng sông Hồng, Tứ vị Thánh
tổ luôn có những tác động tích cực vào đời sống tinh thần, giúp họ thoả mãn nhu cầu
chủ quan, đáp ứng các yêu cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống, đó chính là
những nhu cầu bình dị của người dân ở vùng quê nông nghiệp trồng lúa nước.
2.1.3.2. Hệ thống tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng sông Hồng tác động
đến tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
Người Việt với tinh thần khoan dung, luôn chấp nhận và dung hoà nhiều loại hình
tín ngưỡng, tôn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh và cuộc sống, qua đó làm phong
phú thêm nền văn hoá của mình, vì thế ở Việt Nam chưa bao giờ xẩy ra các hiện tượng
xung đột tôn giáo hay chiến tranh tôn giáo bởi người Việt không độc tôn một tôn giáo
mà luôn thờ nhiều thần, thánh.
Nhà nghiên cứu L. Cadiere đã nhận định người Việt thờ vô số các vị Thần,
Thánh có nguồn gốc khác nhau:
Thần thánh người Việt thờ đông vô số: các thần từ người mà thành, các
thần của sức mạnh thiên nhiên, các thần đá, thần cây, súc vật; các thần
trời, thần khí, thần đất; các thần thánh thượng đẳng, trung đẳng, hạ
đẳng; các chủ thần, các vương thần và các thần tùy tùng, thứ cấp; các
thần mà ta phải cầu xin, các thần mà ta phải khắc phục và các thần mà ta
phải hăm dọa, tìm cách chế ngự; thần lành, thần dữ, thần quái ác, thần cá
nhân, thần tập thể, thần nam, thần nữ. Ta có thể sắp xếp bằng nhiều cách
theo thứ lớp một cách hợp lý nhưng không có cách nào có thể giảm lược
số lượng được, không có cách nào hạn định được tính đa dạng mông
lung của thần thánh [25, tr.36].
Trên nền tảng tín ngưỡng đa thần đó, ở đồng bằng sông Hồng tập trung nhiều
hình thức tín ngưỡng phong phú và đa dạng tiểu biểu của người Việt từ trong quá khứ
47
cho đến hiện tại. Một số loại hình tín ngưỡng tiêu biểu ở vùng đồng bằng sông Hồng để
thấy được sự da dạng trong đời sống tín ngưỡng của người Việt, đồng thời chính các
loại hình tín ngưỡng này đã có sự tiếp biến văn hoá với Phật giáo để hình thành nên tín
ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở vùng đồng bằng sông Hồng, cũng qua các loại hình tín
ngưỡng này có thể gợi mở về bản chất của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ.
* Tín ngưỡng thờ Thành hoàng
Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng có từ đâu còn là câu hỏi, theo nhiều nghiên
cứu thờ Thành Hoàng được du nhập từ phương Bắc vào nước ta nhưng đã có sự
Việt hoá, hình thành hai dòng: dòng Thành Hoàng giống như Thành Hoàng phương
Bắc đó là các vị thần để bảo vệ cho thành trì, sử sách còn ghi: Năm 866 tiết độ sứ
Cao Biền mở rộng thành Đại La đã phong cho thần Tô Lịch làm Đô phủ Thành
Hoàng thần quân, đến năm 1010 Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long lại phong cho
thần Tô Lịch làm Quốc đô Thăng Long Thành Hoàng đại vương, và một dòng Thành
Hoàng khác mang đặc trưng đời sống tín ngưỡng của người Việt đó là Thành Hoàng -
làng được thờ ở các đình làng là vị thần bảo trợ của các làng, là một loại hình tín
ngưỡng tiêu biểu, phổ biến ở các làng xã nông thôn Việt Nam, mang đậm dấu ấn tâm
linh, phản ánh tư duy tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt, thể hiện đạo lý "uống
nước nhớ nguồn" của dân tộc.
Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng thể hiện niềm tin của cộng đồng vào sự che
chở của một vị thần linh có công với cộng đồng, có thể là những nhân vật lịch sử có
thật được huyền thoại hoá nhưng cũng có thể là những nhân vật được hư cấu theo trí
tưởng tượng của dân gian. Tuy nhiên tín ngưỡng thờ Thành Hoàng có một điểm
chung, Thành Hoàng phải là những nhật vật mang đặc điểm độc đáo của địa phương
và thể hiện nét riêng mà chỉ địa phương đó mới có. Ở vùng đồng bằng sông Hồng
các vị Thành Hoàng có thể là thiên thần hoặc nhân thần nhưng trong thần tích đều
thể hiện là những người có công lao với dân với nước thông qua việc đánh giặc giữ
nước, những người có công khai hoang lập ấp, có công dạy nghề, truyền nghề,…
Bất cứ vị Thành Hoàng nào cũng có hai tư cách: Thứ nhất đó là một vị thần
của làng, mang sứ mệnh bảo hộ, bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng
và có trách nhiệm với đời sống thịnh suy của làng ấy vì thế mỗi làng đều có Thành
Hoàng riêng. Dân gian có câu "Trống làng nào làng ấy đánh/ Thánh làng nào làng
ấy thờ". Thứ hai đó là vị phúc thần được vua phong cho chức danh Thành Hoàng và
được ban cấp Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần, với tư cách này
vị Thành Hoàng là đại diện của nhà nước, của triều đình đối với dân làng và chịu
trách nhiệm của làng mình trước nhà nước.
Tứ vị Thánh tổ được thờ ở nhiều ngôi Đình, Đền trở thành vị thần bảo trợ
cho cộng đồng làng xã và được tôn thành Thành Hoàng làng. Ở một số ngôi chùa
48
như chùa Thầy, chùa Keo Thái Bình, Keo Hành Thiện Nam Định, chùa Đại Bi,
chùa Lý Quốc Sư, Điện Thánh mang rõ tính chất của một ngôi Đền được thể hiện ở
kết cấu kiến trúc, bài trí thờ tự, thậm chí trong một thời gian dài người ta quên mất
đó là ngôi chùa nên kế tục các vị sư Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác
Hải lại là những ông Thống, bà Tự cho lo việc đèn hương mang tư cách là những
ông thầy cúng chứ không phải là những tín đồ hay nhà tu hành của Phật giáo. Vì
vậy, việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ cũng chính là một dạng thức của tín ngưỡng thờ
Thành Hoàng của người dân ở nhiều địa phương vùng đồng bằng sông Hồng.
* Tín ngưỡng nghề nghiệp với hình thức thờ Tổ nghề
Đó là loại hình tín ngưỡng tôn vinh những vị Tổ sư, Thần tổ của các ngành
nghề, những người đã có công phát minh, truyền dạy, sáng lập nên một nghề và
được người đời sau có sự kính cẩn, tôn vinh, tôn thờ như bậc Thánh.
Tổ nghề có thể là nam hoặc nữ, xuất thân từ nhiều giai tầng khác nhau trong
xã hội, tổ nghề có thể là một nàng công chúa, một vị quan lại, hay một người bình
thường giỏi nghề... Nghề thủ công ở nước ta có hàng trăm nghề khác nhau, có thể
kể tới một số nghề như nghề đúc đồng, chạm bạc, kim hoàn, đồ thờ, nghề làm tranh,
chăn tằm dệt vải, dệt chiếu, thêu tranh, nghề gốm, nghề nấu rượu, làm bún bánh...
Để ghi công những vị sáng lập, dạy bảo, truyền nghề cho mình và thực hiện đạo lý
"uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây", nhân dân có nghề luôn thờ phụng
các vị tổ nghề của mình đang làm. Bởi vậy, thờ Tổ làng nghề là loại hình tín
ngưỡng rất đậm nét trong đời sống tâm linh của nhân dân có nghề đặc thù. GS Đào
Duy Anh đã nhận định:
Trong dân gian còn một sự sùng bái rất trọng yếu là sùng bái các tổ sư
bách nghệ. Mỗi nghề nghiệp đều phải thờ một vị tổ sư hoặc là người
thuỷ tổ phát minh ra nghề ấy, hoặc là người thứ nhất đem nghề ấy ở nơi
khác truyền lại cho dân làng nào hay miền nào. Nhưng phần nhiều người
ta chẳng biết vị tổ sư ấy là ai, cho nên người ta thường xem tổ sư là một
vị thần bảo hộ cho nghề nghiệp [2, tr.248-249].
Người dân các làng nghề thường dựng đền thờ và sau này khi tín ngưỡng
Thành Hoàng phát triển họ thờ ở Đình và tôn làm Thành Hoàng làng, hàng năm
nhân dân thường tổ chức lễ hội tưởng nhớ Tổ nghề của làng mình. Trong dịp lễ hội
dân làng ôn lại những công lao, điển tích của việc làm nghề, dựng làng, truyền nghề
bằng những tích trò mô phỏng việc thực hành mang tính nghề nghiệp.
Tứ vị Thánh tổ cũng được nhiều nơi thờ phụng, tôn vinh thành những vị Tổ
nghề như Từ Đạo Hạnh là ông tổ của nghề múa rối, Nguyễn Minh Không là ông tổ
của nghề đúc đồng, còn Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải dạy dân nghề chài
lưới, đánh cá trên sông nước.
49
* Tín ngưỡng thờ Thánh
Tín ngưỡng thờ Thánh là một trong những hình thức của tín ngưỡng thờ Nhân
Thần. Không rõ được hình thành từ căn nguyên sâu xa nào nhưng Thánh của người
Việt cũng là các thần linh, nằm trong hệ thống đạo thờ Thần nói chung. Tuy nhiên,
Thánh lại là thần linh cá biệt là sự tích hợp của hai yếu tố Thần và trí tuệ, trong đó yếu
tố trí tuệ được chú ý hơn. Tín ngưỡng thờ Thánh cũng dựa trên cơ sở niềm tin thần linh
có mặt ở khắp mọi nơi luôn theo dõi và phù trợ cho thế giới của người sống.
Những vị Thần được người Việt tôn vinh thành bậc Thánh thường là những
nhân vật lịch sử có thật, khi còn tại thế họ là những người có công đối với cộng
đồng, họ đều là những tấm gương đẹp về sự quả cảm, tài năng, đức độ, công bằng
và chính trực,… họ là những người có tài năng đặc biệt, thường có phép thuật, sử
dụng phép thuật để cứu người, cứu đời. Khi họ đi vào cõi thiêng, người dân ban đầu
với tấm lòng biết ơn các bậc tiền nhân, rồi từ lòng biết ơn đó những con người thực
được nâng lên thành những nhân vật huyền thoại và nhân dân thờ cúng họ, mặc dù
ở thế giới thiêng nhưng họ vẫn hiển linh để cứu nhân, độ thế, vẫn "âm phù" cho
cuộc sống con người nơi trần thế. Tín ngưỡng thờ Thánh gắn liền với văn hoá làng
xã, bởi phần lớn các Thánh đều gắn với làng, là đấng linh thiêng phù hộ cho cộng
đồng làng và là niềm tự hào của làng.
Ở nước ta rất đông đảo và đa dạng các vị thần linh, nhưng trong số các vị thần
linh đó để nâng lên thành bậc Thánh thì chỉ có những nhân vật có tài năng đặc biệt, có
pháp thuật cao cường, có thể trừ tà, chữa bệnh cứu dân như: Thánh Gióng, Thánh Tản
Viên, Thánh Trần Hưng Đạo, Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Thánh Mượn, Thánh Lác, Thánh
Mây,… trong đó có Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh
Không là những vị thiền sư của Phật giáo nhưng do có tài đức giúp dân, giúp nước đặc
biệt là có pháp thuật thần thông, được quần chúng nhân dân ngưỡng mộ tôn vinh, được
coi là những vị Thánh trong tín ngưỡng của cư dân vùng đồng bằng sông Hồng.
Cuốn Đạo Thánh ở Việt Nam của GS Vũ Ngọc Khánh đã chỉ ra trường hợp ba
vị nổi tiếng thời Lý, thần tích (AE A15/24) xã Mạt Lăng, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam
Định chép cả ba vị Không Lộ đại pháp thiền sư, Giác Hải đại pháp thiền sư, Từ Đạo
Hạnh đại pháp thiền sư ghi rõ là Thánh tổ tam vị đại vương sự tích. Thần tích (AE
a4/82) xã Yên Vệ, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình ghi về hai vị Không Lộ và Giác
Hải như sau: Đại thánh Không Lộ linh thông Ngọc Phật; Nam thiên Thánh tổ Giác
Hải đại sư [78, tr.76].
Tứ vị Thánh tổ là những vị Thánh được thờ ở các không gian thiêng của mỗi
làng xã, họ không chỉ được thờ trong các ngôi chùa ở vùng đồng bằng sông Hồng
mà họ còn được thờ ở các loại hình di tích khác như Đình, Đền với tư cách là những
vị Thành Hoàng làng hoặc những vị Thần. Theo kết quả điền dã, hiện có một số
50
ngôi Đình, Đền thờ các vị Thánh tổ để bảo trợ cho cộng đồng như: Đình Ngũ Xá
(Hà Nội), Đình Lại Trì, Đình La Vân (Thái Bình), Đình Cổ Hương (Nam Định);
Đền Thượng, Đền Thánh Nguyễn (Ninh Bình), Đền Lộng Khê (Thái Bình), Đền
Lương Hàn (Nam Định). Ít có vị Thánh nào lại được thờ phụng ở cả ba loại hình di
tích như Tứ vị Thánh tổ, họ trở nên bất tử và linh thiêng có thể ban phúc cho kẻ
lành, giáng họa cho kẻ ác, tiếp sức cho cộng đồng để chống lại mọi thiên tai, địch
họa và giải quyết mọi công việc ở trần gian. Các Thánh được dân làng tổ chức cúng
tế hàng năm thông qua lễ hội để tưởng nhớ và cầu phúc.
Có thể thấy, người Việt có lối ứng xử khoan dung và cởi mở, không độc
đoán, hẹp hòi, biết "gạn đục khơi trong", chỉ từ chối sự đồng hoá cưỡng bức còn lại
tìm cách dung hoà và hội nhập mọi sở đắc văn hoá trong đó có tín ngưỡng, tôn giáo.
Vì thế trên nền sẵn có của tín ngưỡng đa thần và hỗn dung tôn giáo, người Việt chủ
động tiếp nhận nhiều tôn giáo trong đó có Phật giáo góp phần tạo nên bức tranh đa
sắc mầu trong đời sống tín ngưỡng của họ.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian qua câu
chuyện nhà sư Ấn Độ và cô gái Man Nương, những nữ thần nông nghiệp như Bà
Dâu, Bà Tướng, Bà Dàn, Bà Đậu đã được Phật giáo hoá trở thành những vị Phật Bà,
hay việc thờ các vị thần tự nhiên trong tín ngưỡng dân gian trở thành những vị thần
Tứ Pháp để cầu mong mưa thuận gió hoà, sự sinh sôi nẩy nở của vạn vật. Hay sự
dung hợp giữa tục thờ đá của người Việt cổ với Phật giáo để ngày nay vẫn hiện diện
dấu ấn đó qua Thạch Quang Phật ở chùa Pháp Vân. Sau này là sự dung hợp của
Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu, nên phần lớn các ngôi chùa của Phật giáo miền
Bắc (Bắc Tông) đều có điện thờ Mẫu hình thành nên loại chùa "tiền Phật, hậu
Mẫu". GS. Ngô Đức Thịnh cho rằng:
Sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân
gian là điều dễ hiểu, cùng hướng về cái từ bi bác ái, tinh thần cộng đồng,
khuyến thiện, trừ ác, nền tảng của nguyên tắc ứng xử cổ truyền. Với lại
dường như hai thứ tín ngưỡng này có cái gì bổ sung cho nhau đáp ứng
nhu cầu tâm linh của người dân. Theo Phật để tu nhân tích đức cho kiếp
sau được lên cõi Niết bàn cực lạc, còn theo tín ngưỡng dân gian là mong
được phù hộ độ trì mang lại sức khoẻ, tài lộc may mắn cho đời sống
hiện hữu thường ngày [133, tr.37].
Thật vậy, với người Việt thần linh phải vì con người, vì cuộc sống hàng ngày
của con người, nên những vị thần nào có ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của
con người thông qua các lời cầu khấn, đáp ứng yêu cầu tâm linh thường được đề
cao. Các vị thần cũng luôn đồng hành trong tâm tức và giữ vai trò quan trọng trong
đời sống tín ngưỡng. Người dân luôn tin tưởng vào các vị thần, tin vào những tha
51
lực được ban xuống để đáp ứng cho lời cầu xin của họ, thần có thể ban phúc, giáng
hoạ. Người Việt ít quan tâm đến giáo thuyết mà quan tâm đến thực hành, họ nhờ
cậy thần linh một cách trực tiếp để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thế giới
hiện hữu họ đang sống.
Người Việt thờ đa thần để không thể cầu xin được ở thần nọ thì có thể tìm
đến thánh kia, trong dòng tâm thức ấy Tứ vị Thánh tổ: Từ Đạo Hạnh, Dương Không
Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không là những vị thiền sư của Phật giáo nhưng
đối với người dân họ là những con người phi thường đã đem pháp thuật cao cường của
mình để hàng long, phục hổ, chữa bệnh cứu người, dậy dân nghề đánh cá, đúc đồng,
trồng lúa và được nhân dân tôn thờ thành những vị Thánh và hình thành tín ngưỡng Tứ
vị Thánh tổ ở vùng đồng bằng sông Hồng âu cũng là điều dễ hiểu.
2.1.4. Bối cảnh vùng đồng bằng sông Hồng
Vùng đồng bằng sông Hồng là vùng đất có lịch sử lâu đời, nơi khai sinh của
các vương triều Đại Việt, cái nôi hình thành văn hoá, văn minh Đại Việt, là vùng
đất bảo lưu nhiều giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Đây là môi trường dung
dưỡng cho nhiều loại hình tín ngưỡng dân gian của người Việt, đồng thời cũng là
môi trường để phát sinh, phát triển của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ.
Vùng đồng bằng sông Hồng là vùng đất châu thổ được hình thành bởi sự bồi
đắp phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Hiện nay vùng đồng bằng
sông Hồng gồm 10 tỉnh, thành phố như: Bắc Ninh, Hà Nam Hà Nội, Hải Dương,
Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và Vĩnh Phúc. Toàn vùng
có diện tích vào khoảng 15.000km2 chiếm 4,6% diện tích của cả nước.
Với những đặc điểm về điều kiện địa lý tự nhiên; điều kiện kinh tế xã hội,
vùng đồng bằng sông Hồng chính là cái nôi hình thành và nuôi dưỡng nhiều loại
hình tín ngưỡng, tôn giáo trong đó tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trở thành một thực
thể và được định vị trong không gian văn hoá của vùng.
- Về điều kiện tự nhiên
Vùng đồng bằng sông Hồng là một trong sáu vùng văn hoá của cả nước, là
vùng văn hoá độc đáo mang những bản sắc riêng trong sự đa dạng và phong phú
của nền văn hoá Việt, đồng thời bảo lưu được nhiều giá trị truyền thống của dân tộc.
Vùng đất này không rộng lớn nhưng mầu mỡ do sự bồi đắp phù sa của hai con sông
lớn, sông Hồng và sông Thái Bình, địa hình, thấp dần theo chiều Tây Bắc xuống
Đông Nam và tương đối bằng phẳng, trong toàn vùng có hai tỉnh Thái Bình và
Hưng Yên không có núi còn các tỉnh khác đồi núi xen kẽ châu thổ và thung lũng.
Địa hình của vùng không đồng đều, nơi thấp thường bị ngập úng vào mùa mưa.
Các nhà nghiên cứu thống nhất cho rằng đây là vùng có địa hình đa dạng, có
núi, có sông, duyên hải, vùng cao, vùng trũng xen kẽ những làng mạc chính là môi
52
trường làm nảy sinh tín ngưỡng vạn vật hữu linh, điển hình là các tục thờ thần núi,
thờ thần sông, thờ cây, thờ đá. Các tục thờ này chính là những loại hình tín ngưỡng
sơ khai, thể hiện quan niệm của người Việt về một thế giới thiêng liêng luôn tồn tại
tách biệt với thế giới con người.
Đồng bằng sông Hồng có hệ thống sông ngòi dầy đặc, gồm nhiều con sông
lớn như sông Hồng, sông Thái Bình cùng các phân nhánh của nó, mặt khác do địa
hình không đồng đều, độ dốc lớn từ độ cao 10-15m giảm dần đến độ cao mặt biển
[92, tr.8], về mùa mưa, lưu lượng dòng chảy lớn là điều kiện thuận lợi cho việc bồi
lắng phù sa nhưng đồng thời cũng là nhân tố gây nên lũ lụt, nhất là các nơi ở cửa
sông "đặc biệt là lũ sông Hồng thất thường và mãnh liệt. Lũ có thể đến sớm vào
cuối tháng V, lũ muộn có thể xảy ra vào tháng XI, còn trong mùa lũ thì có đến vài lần
lên xuống đột ngột" [92, tr.17]. Ngay từ xa xưa cha ông ta đã đắp đê ngăn lũ, luôn
bền bỉ chiến đấu và mong muốn chinh phục tự nhiên, chiến thắng tự nhiên, niềm mơ
ước đó được thể hiện qua truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, nước dâng đến đâu núi
cao đến đó. Trong tiến trình lịch sử, trị thuỷ luôn là công việc thường xuyên và hết
sức quan trọng, gắn liền với đời sống của cư dân "Có hai việc ông vua Việt Nam có
quyền tận dụng sức dân mà dân vẫn theo vì nó gắn liền với quyền sống của người
dân: Chống ngoại xâm và đắp đê chống lụt. Kiến trúc lớn nhất và phi thường nhất
phản ánh tâm thức Việt Nam là hệ thống đê điều kênh lạch" [102, tr.40, 63], hàng
ngàn kilomet đê điều được tạo dựng cho thấy tinh thần cố kết cộng đồng nhằm chinh
phục tự nhiên và hệ thống đê điều đã tạo nên một vùng đồng bằng để cư dân lập làng
lập ấp, phát triển kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước. Đặc điểm về tự nhiên này có
ảnh hưởng rất lớn tới đời sống kinh tế, xã hội cũng như đời sống văn hoá của cộng
đồng cư dân vùng đồng bằng sông Hồng. Do phải luôn đấu tranh với thiên tai, chinh
phục tự nhiên, nên trong tâm thức người Việt đã hình thành tinh thần cố kết cộng
đồng và hình thành lòng biết ơn, tâm lý sùng bái những vị tiền nhân, những người có
công với cộng đồng trong việc hộ quốc, an dân và được phản ánh trong các sinh hoạt
văn hoá dân gian mà lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là một minh chứng.
Về khí hậu, đồng bằng sông Hồng nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, khí
hậu khá đồng nhất cho toàn vùng. Thời tiết nắng, mưa nhiều, bốn mùa tương đối rõ
rệt xuân, hạ, thu, đông. Vào mùa xuân tiết trời mưa phùn, mùa hè gió nồm nam
nóng ẩm và nắng chói chang, mùa đông kéo dài ba tháng với nhiệt độ trung bình
vào khoảng dưới 18oc, ở một số tháng nhiệt độ trung bình xuống thấp vào khoảng
15oc, khô hanh và lạnh. Thời tiết mang tính thất thường, lúc ẩm ướt, lúc hanh khô
nên có nhiều loại bệnh xuất hiện, đi theo đó là cách thức chữa trị mang tính tôn giáo
như cầu cúng thần linh, dựa vào các ông thầy cúng để bắt ma trừ tà, sử dụng các yếu
tố ma thuật để trị bệnh. Các vị sư Đạo Hạnh, Không Lộ, Minh Không, Giác Hải đã
53
sử dụng yếu tố Mật để cầu đảo, dùng nước phép trị bệnh, Minh Không còn là vị
thầy thuốc ưu tú chữa bệnh và truyền lại nhiều bài thuốc quý cho người dân ở làng
Sinh Dược (Gia Sinh, Ninh Bình ngày nay). Công lao chữa bệnh cứu người, cứu đời
của các vị sư đã hình thành trong cộng đồng tâm lý ngưỡng mộ họ.
Điều kiện tự nhiên, môi trường sống đã làm nên những đặc trưng, sắc thái
riêng biệt của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, thể hiện ở tập quán canh tác, cư
trú, tâm lý ứng xử, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, vừa có cái chung, vừa có cái riêng.
Tạo nên một cộng đồng dân cư có lòng đại lượng, khoan dung, dễ tiếp thu văn hoá,
tôn giáo, tín ngưỡng bên ngoài du nhập một cách khéo léo, trên cơ sở nền tảng văn
hoá dân tộc: "nó thu nhận tất cả vào lòng nhưng đâu vì vậy mà nó trở thành vô
nguyên tắc (…) tự mình biết gạn đục, khơi trong, tìm cách dung hoà và hội nhập với
mọi sở đắc văn hoá, cả ngôn từ, kỹ thuật, cả tôn giáo và nghệ thuật" [171, tr.36].
- Về điều kiện kinh tế - xã hội:
Với bề dày lịch sử hàng nghìn năm, nhiều bằng chứng lịch sử đã được tìm
thấy ở vùng đồng bằng sông Hồng trong các lần khai quật khảo cổ học cho thấy nơi
đây là cái nôi hình thành nên cộng đồng dân tộc - quốc gia Đại Việt. Người dân
vùng đồng bằng sông Hồng chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp trồng lúa nước,
nền kinh tế nông nghiệp mang tính tự nhiên, phụ thuộc vào tự nhiên "Trông trời,
trông đất, trông mây/trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm", tự cung, tự
cấp, cùng với nông nghiệp trồng lúa là chăn nuôi các loại gia súc và xuất hiện các
ngành nghề khác.
Môi trường tự nhiên đã tạo điều kiện cho nhiều ngành nghề phát triển, ở
những nơi gần sông, gần biển cư dân có thêm các nghề như đánh cá, làm muối, ở
nhiều nơi trong vùng đồng bằng xuất hiện những ngành nghề thủ công nghiệp trong
đó có nhiều nghề thủ công đạt tới đỉnh cao với nhiều sản phẩm tinh xảo được làm
bởi tay những người thợ lành nghề và có lịch sử phát triển lâu đời như nghề làm
gốm, chạm bạc, luyện kim, đúc đồng, nuôi tằm dệt lụa,… Các vị sư Từ Đạo Hạnh,
Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không chính là những người
gắn bó với cộng đồng dân cư, dạy dân các nghề đánh cá, đúc đồng trồng lúa, múa
rối, giúp họ mở mang thêm các ngành nghề trong lúc nông nhàn, duy trì cuộc sống.
Trên nền cảnh quan đời sống, sản xuất và sinh hoạt thường nhật đó đã hình thành
nên các làng nghề truyền thống đáp ứng nhu cầu của cộng đồng. Cuộc sống tự cung
tự cấp và trao đổi hàng hóa với các cộng đồng khác hình thành nên kinh tế thương
nghiệp, nhưng nền kinh tế thương nghiệp cũng chỉ dừng ở mức độ trao đổi sản phẩm
làm ra để lấy những đồ dùng thiết yếu khác. Nền kinh tế truyền thống ở đồng bằng
sông Hồng vẫn là kinh tế nông nghiệp thuần tuý tận dụng được nguồn phù sa bồi đắp,
điều kiện khí hậu thuận lợi.
54
Đồng bằng sông Hồng là nơi có lịch sử quần cư, cư dân lâu đời của người
Việt cổ. Trong lịch sử và hiện tại, cư dân ở nơi đây luôn chung lưng để chiến đấu
với giặc ngoại xâm, chiến đấu và chinh phục tự nhiên duy trì cuộc sống, chính vì
thế họ sống quần tụ thành các làng, họ cố kết chặt chẽ bên nhau trong không gian
của vùng để cùng nhau quai đê, lấn biển, khai phá rừng rậm nhằm mở rộng địa bàn
sinh sống, đồng thời chống trả lại sự xâm lược áp bức và đồng hoá văn hoá của kẻ
thù phương Bắc [115, tr.69]. Làng chính là hạt nhân mang tính xã hội đầu tiên của
người Việt, đồng thời cũng là biểu trưng của sức sống, văn hoá Việt.
Làng được hình thành từ rất sớm, buổi ban đầu còn phảng phất hình bóng của
những chiềng, mường, những dấu ấn đặc trưng của xã hội thị tộc mà các thành viên
gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống, đến chế độ quân chủ nhà nước lúc đó các
thành viên không chỉ gắn kết với nhau bằng huyết thống mà còn gắn kết bởi những
quan hệ sản xuất và việc tổ chức điều hành làng do dân cử theo tục lệ. Đến cuối thế kỷ
thứ IX, khi Khúc Thừa Hạo nắm quyền đã cho cải cách thể chế hành chính, biến làng
thành đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà nước gọi là "xã" [101, tr.218]. Thời Lý,
Trần việc tổ chức, quản lý làng xã đã nâng thêm tầm cao mới bằng cách cắt đặt các
chức quan: Đại tư xã để quản lý xã lớn, Tiểu tư xã quản lý các xã nhỏ. Đến thời
Lê, làng vẫn là một tổ chức xã hội cơ bản nhưng trở thành một tổ chức hành
chính tự trị, tự giải quyết các công việc nội bộ và chính quyền chỉ can thiệp khi
có sự không đồng nhất trong cộng đồng. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, đã cho
phép mỗi làng được lập hương ước riêng để điều tiết các mối quan hệ xã hội
trong cộng đồng. Hương ước thể hiện sự gắn bó của mỗi cá nhân trong một cộng
đồng không chỉ về mặt vật chất mà còn là sự gắn bó về đời sống tâm linh, với
tinh thần cộng mệnh, cộng cảm cùng chung sở hữu một không gian tâm linh như
chùa, đình, đền, cùng thờ chung một vị thánh, thần. Các triều đại phong kiến sau
này đều lấy mô hình quản lý làng xã của Lê Thánh Tông làm khuôn mẫu.
Làng trở thành thành lũy, tạo nên sức mạnh to lớn để chống lại sự đồng hoá
về mặt văn hoá của phong kiến phương Bắc, đảm bảo sự cân bằng và bền vững của
xã hội nông thôn. Trong xã hội thu nhỏ đó có nhiều mối quan hệ đan xen nhau để
kết nối, liên kết những con người trong cùng một làng xã, có những mối quan hệ
hữu hình như lãnh thổ, quyền sở hữu, quan hệ kinh tế, xã hội và các mối quan hệ vô
hình đó chính là thế giới tâm linh, là những biểu tượng tinh thần như việc thờ chung
một vị thần bảo trợ cho cộng đồng thể hiện những kỳ vọng để vươn tới những chuẩn
mực chân, thiện, mỹ [92, tr.118].
Đời sống tâm linh chính là nền tảng vững chắc nhất trong quan hệ cộng đồng
làng, xã và được biểu hiện qua hình thức cốt lõi là văn hoá làng xã. Tín ngưỡng Tứ
vị Thánh tổ được sản sinh, lưu giữ bền vững trong môi trường làng xã nhằm đáp
55
ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng. Việc thờ cúng các vị Thánh được diễn ra trong
ngôi chùa là không gian thiêng của làng, nơi đó cũng là nơi diễn ra lễ hội tưởng nhớ
và suy tôn các vị Thánh từ thời Lý cho đến hiện tại. Với điều kiện tự nhiên, kinh tế -
xã hội đa dạng, cùng với mối quan hệ làng xã đã tác động đến đời sống tín ngưỡng
của cư dân vùng đồng bằng sông Hồng. Điều kiện tự nhiên làm nảy sinh niềm tin
vào thế giới thiêng, điều kiện xã hội là mảnh đất màu mỡ cho sự phát sinh, phát
triển và là môi trường dung dưỡng của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ.
Như vậy, các điều kiện lịch sử thời Lý, yếu tố Mật trong Phật giáo và pháp
thuật của Tứ vị Thánh tổ, nhu cầu và hệ thống tín ngưỡng dân gian và bối cảnh vùng
đồng bằng sông Hồng đã tạo ra một loại hình tín ngưỡng mới đó là tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ với diện mạo: thứ nhất, thần thánh hoá các vị thiền sư của Phật giáo (ngược
lại quá trình Phật hoá các thần, thánh của tín ngưỡng dân gian biểu hiện trong Phật Tứ
Pháp); thứ hai, đối tượng thờ phụng được bổ sung, không chỉ thờ Phật mà còn thờ cả
Thánh, Thần trong một cơ sở thờ tự của Phật giáo (ngôi chùa); thứ ba, cơ sở thờ tự của
Phật giáo có sự bổ sung, không chỉ có không gian thờ tự Phật (Điện Phật) mà còn bổ
sung thêm không gian thờ tự Thánh (Điện Thánh), hình thành dạng chùa tiền Phật, hậu
Thánh; thứ tư, nghi thức thờ cúng và lễ hội đối với các Thánh thể hiện sự tương tác hai
chiều giữa thần linh với con người và ngược lại.
Có một vấn đề mà luận án không nhắc đến thì thật thiếu sót, trong các yếu tố
tác động để hình thành nên tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ không thể không có yếu tố
Đạo giáo, tuy nhiên luận án không phân tích yếu tố Đạo giáo và coi đó là một yếu tố
tác động độc lập, bởi: Đạo giáo du nhập vào nước ta từ thế kỷ thứ II, III, trong quá
trình du nhập và phát triển Đạo giáo đã hội nhập một cách tự nhiên vào đời sống
tinh thần của người Việt. Vào thời nhà Lý, Trần, Đạo giáo đã khẳng định được vị
trí, song hành cùng Phật, Nho trong đời sống tín ngưỡng của người dân, nhưng đến thời
Lê nó mất đi vai trò của một tôn giáo độc lập. Tuy nhiên, ở Đạo giáo luôn có sự tiếp
biến, thích ứng, tương đồng và hoà quyện với tín ngưỡng bản địa của người Việt, sự
hoà quyện đó khó có thể phân định được ranh giới giữa Đạo giáo và Tín ngưỡng dân
gian. Không chỉ hoà quyện với tín ngưỡng dân gian bản địa mà Đạo giáo còn hoà nhập
với các tôn giáo Phật giáo, Nho giáo, trong đó sự hoà nhập giữa Đạo giáo với yếu tố
Mật giáo của Phật giáo là không thể phủ nhận. Chính vì lý do trên, luận án không trình
bày về Đạo giáo như một thành tố riêng tác động đến sự hình thành của tín ngưỡng Tứ
vị Thánh tổ mà trong yếu tố Mật giáo và Tín ngưỡng dân gian tác động đến sự hình
thành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đã hàm chứa cả yếu tố Đạo giáo.
2.2. ĐỐI TƯỢNG THỜ CÚNG
Trong hệ thống thần linh của người Việt, Tứ vị Thánh tổ gồm Từ Đạo Hạnh,
Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không là những vị nhân thần,
56
có thật trong lịch sử. Hành trạng của Tứ vị Thánh tổ được ghi chép trong các tác
phẩm như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Lĩnh Nam Chích Quái, Thiền Uyển Tập Anh,
Việt Điện U Linh,… nếu như trong chính sử ghi chép các vị là thiền sư của Phật
giáo thì trong tâm thức dân gian các vị là những vị Thánh, chúng ta thấy rõ điều này
trong các nguồn tư liệu như thần tích, sắc phong, văn bia, câu đối và trong truyền
thuyết dân gian được truyền miệng vừa thực, vừa hư đã trải dài cùng năm tháng ở
các làng quê phụng thờ Tứ vị Thánh tổ. Trên cơ sở các tài liệu và những câu chuyện
trong dân gian, luận án phác hoạ hành trạng của Tứ vị Thánh tổ như sau:
2.2.1. Từ Đạo Hạnh (? - 1116)
Trong các tài liệu như Đại Việt sử ký toàn thư, Thiền Uyển tập Anh, Lĩnh
Nam Chích Quái,… Sư thuộc thế hệ thứ mười hai của dòng thiền Tì Ni Đa Lưu Chi,
hiện chưa biết cụ thể về năm sinh của sư nhưng các tài liệu đều cho biết sư họ Từ,
tên Lộ, quê ở làng Láng (Hà Nội), ngay từ nhỏ đã tỏ ra là người cho chí lớn. Để trả
thù cho cha là quan đô sát Từ Vinh bị Đại Điên sát hại, Đạo Hạnh kết bạn với
Không Lộ, Giác Hải tìm đường sang Tây Trúc để tìm thầy học đạo. Tuy nhiên, do
đường đi hiểm trở nên cả ba người mới đi đến nước Kim Sỉ (Miến Điện) đã phải
dừng lại, tại đây Đạo Hạnh học được thuật rút đất và chú đà la ni, từ đó quay về ẩn
cư trên núi Phật tích, hàng ngày chuyên tâm tụng kinh Đại bi đà la ni đủ mười vạn
tám nghìn lần.
Sau khi trả thù cho cha, sư đi khắp chốn tùng lâm để tìm thầy ấn chứng, gặp
thiền sư Sùng Phạm chứng ngộ được "Chân tâm" liền quay về núi Thầy tiếp tục tu
hành. Năm Bính Thân (1116), Từ Đạo Hạnh hoá, trút xác ở chùa Thầy, xác của sư
được nhân dân đặt vào trong khám đến khoảng năm Vĩnh Lạc (1403-1424) bị người
Minh đốt cháy, người làng đắp tượng thờ như cũ đến nay vẫn còn.
Trong nhiều tài liệu và các bản thần tích, sắc phong, tâm thức dân gian, Từ Đạo
Hạnh cũng được khẳng định là một nhân vật lịch sử có thật, có mẹ và cha là ở làng
Láng. Ngay từ thuở thiếu thời Thánh Từ đã là người có tư chất anh minh và để tăng
thêm tính "thiêng" cho Thánh nên trong các tư liệu này phát sinh nhiều tình tiết ly kỳ:
Thiền Uyển Tập Anh ghi rằng, Đạo Hạnh gặp được một bà lão, được bà truyền dậy cho
linh pháp, thuật rút đất, các pháp thần thông và chú đà la ni, từ đó sư quay về núi Phật
tích tiếp tục tu hành, đạo pháp ngày càng tăng, duyên thiền càng thêm thuần thục, có thể
sai khiến các loài thú dữ đến chầu phục, đốt ngón tay cầu mưa, phun nước phép chữa
bệnh cứu người, cầu đảo việc gì đều linh nghiệm nên nhân dân quanh vùng rất tin kính.
Tác phẩm Việt Điện U Linh ghi lại việc sư hoá ở chùa Thầy như sau:
"sau khi chết, chùa Thiên Phúc bỗng có linh khí lạ thường, ai trông thấy
cũng đều phải kinh sợ, bèn đem việc ấy mà tâu lên Tự Quân. Bấy giờ Tự
Quân mới sai quan đến cúng tế, tôn phong mỹ tự là ‘Thượng Đẳng tối linh
57
từ’. Còn như cái thây xác kia đã bị lột bỏ ở trong động, người làng cho rằng
nó linh dị nên đem cái xác ấy đặt vào trong khám mà phụng tự. Đến
khoảng niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh, sứ Minh đi ngang qua nơi ấy bỗng
nghe có mùi thơm ngào ngạt như mùi lạ lùng của trầm hương, đàn hương.
Y tìm xem mùi ấy thì thấy cái thân xác nằm rõ ràng trong khám, sắc diện y
như người sống, nên cho rằng người này đã ảo hoá, bèn rước về chùa
Hương Sơn làm lễ hoả táng, nhưng lửa không xâm nhập được. Trải qua cả
7 ngày đêm song vẫn còn y nhiên bất biến, sau nghe lời báo mộng lấy gỗ
rào mộ mới đốt được thây, giặc lấy tro đắp thành tượng, đặt trở lại vào
khám mà thờ phụng ở bên tả trong chùa Thiên Phúc…" [114, tr.206].
Một tình tiết nữa cho thấy sự linh ứng của Từ Đạo Hạnh: Đến đời vua Lê Thánh
Tông (1460-1469), hoàng hậu sai người lên chùa Thiên Phúc cầu tự, khi làm lễ có một
phiến đá bay vào bèn đưa về trình hoàng hậu, ít lâu sau hoàng hậu mộng thấy rồng
vàng bên sườn rồi có mang, sinh ra vua Lê Hiến Tông. Vua cho dựng "Hiển Thuỵ" ở
chùa Thiên Phúc có khắc bia để ghi.
Hiện nay, sư được thờ ở nhiều ngôi chùa không chỉ ở Hà Nội mà còn cả ở Hưng
Yên và Nam Định, trong đó có hai ngôi chùa nổi tiếng gắn liền với cuộc đời của sư là
Chùa Láng và Chùa Thầy (Hà Nội).
2.2.2. Dương Không Lộ (? - 1119)
Sư thuộc thế hệ thứ chín của thiền phái Vô Ngôn Thông và thế hệ thứ hai của
thiền phái Thảo Đường, họ Dương, tên Minh Nghiêm, người hương Hải Thanh, sinh
trưởng trong một gia đình nhiều đời làm nghề chài lưới. Sau một thời gian theo nghiệp
gia đình, Không Lộ bỏ nghề đi tu, học đạo Thiền với Noãn cư sĩ làng Bảo Tài sau đó
cùng với Giác Hải học đạo với sư Lôi Hà Trạch. Không Lộ kết bạn với Từ Đạo Hạnh
và Giác Hải để đi vân du, cầu đạo, đến nước Kim Sỉ (Miến Điện) đã gặp được thầy
học đạo, một thời gian sau lại quay trở về quê nhà tại hương Hải Thanh dựng chùa để
tu trì. Ngày 3 tháng 6 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 10 (1119), sư
viên tịch, nhân môn thu xá lị táng ở tháp trước cửa chùa. Vua Lý Nhân Tông cho sửa
rộng chùa Nghiêm Quang, miễn thuế cho 20 hộ để đèn hương phụng thờ. Nhân dân
tôn xưng là Thánh và thờ phụng trong cả Đình, Đền.
Ngoài những chi tiết lịch sử, trong nhiều tác phẩm và tâm thức dân gian, ở mỗi
vùng, mỗi địa phương việc lưu truyền về sư lại có nhiều tình tiết linh dị khác, khoác
thêm vào mầu sắc thần thoại. Thiền Uyển Tập Anh ghi: sư đến nước Kim Sỉ (Miến
Điện) được bà cụ truyền dạy cho linh pháp, sau đó quay về tu ở chùa Hà Trạch ăn rau,
mặc lá, thường chuyên chú tu trì đà la ni, một lòng tu tập, tâm thần tai mắt ngày một nhẹ
nhàng, đắc đạo thần thông, có thể bay trên không, đi dưới nước, hàng long phục hổ,
muôn nghìn phép lạ. Còn người dân vùng Kiến Xương Thái Bình kể lại lúc sinh thời,
58
Không Lộ thường qua lại vùng đất này để giúp dân khai hoang, biến nơi đây trở thành
một vùng đồng bằng trù phú trồng lúa, để ghi nhớ công ơn của Không Lộ người dân thờ
ngài tại chùa Am. Còn người dân huyện Trực Ninh, Nam Định và cửa biển Thần Phù lại
lưu truyền sự tích về Không Lộ (Minh Không) khi dùng "tu lờ" để làm thuyền chở đồng
từ phương Bắc về, trên đường đi đã sử dụng pháp thuật đó là dùng chiếc gậy phù phép
vào quả bí, chém quả bí ra làm đôi rồi ném quả bí vào quái vật (ngư công), lát sau xác
quái vật nổi lên và bị chém thành ba khúc, từ đó vùng biển trở lại bình yên, giúp người
dân nơi đây an tâm mỗi khi ra biển đánh cá. Hiện nay chùa Lương Hàn (Nam Định)
ngoài thờ Thánh Không Lộ thì còn thờ cả 3 khúc thân quái vật làm bằng gỗ, vào dịp lễ
hội hàng năm lại diễn lại tích này. Người dân các làng Phụng Thượng, Động Trung,
Quang Hành thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình thì truyền nhau câu chuyện ông
khổng lồ Không Lộ gánh hai tảng đá đi chắn ngang sông để đơm đó, qua làng Động
Trung đã đánh rơi vì thế nơi đây còn dấu tích những phiến đá lớn, có phiến mang hình
chiếc dày, có phiến mang hình vết chân, vết tay khổng lồ và vết đòn xuyên qua.
Trong tâm thức dân gian, Không Lộ không chỉ là một người có pháp thuật
cao cường, diệt trừ yêu quái giúp dân mà còn là một người anh hùng, đã tập hợp
dân chúng để triển khai các công trình trị thuỷ, khẩn hoang, khai phá vùng trũng ở
Trấn Sơn Nam Hạ, phần lớn những ngôi chùa thờ Không Lộ nằm ở vùng Thái Bình,
Nam Định đây vốn là vùng đất trũng, có hệ thống sông ngòi dầy đặc, cuộc sống của
người dân ngoài phát triển nông nghiệp còn có thêm nghề ngư nghiệp, chài lưới
đánh cá, trong các di vật để thờ Không Lộ đều có chiếc thuyền, đó là vật dụng lúc
sinh thời ông thường sử dụng để làm nghề chài lưới trên sông nước, những chiếc
thuyền cũng là vật dụng quen thuộc của người dân nơi đây để hành nghề chài lưới,
ngoài ra ở vùng Thái Bình, Nam Định còn thờ những tảng đá in dấu chân của
Không Lộ, đó là những dấu chân khổng lồ để lại qua những ngày đi đơm đó, những
ngày gánh nước bằng đôi giành khổng lồ tưới nước cho ruộng đồng, giúp dân khắp
vùng Trấn Sơn Nam Hạ chống hạn. Với người dân nơi đây, dấu chân đó được coi là
những dấu chân thần linh đã giúp dân đi qua các mùa hạn hán, chúng được linh
thiêng hoá trong sự bảo trợ của Thánh Dương Không Lộ. Ở vùng Nam Định, Thái
Bình, dân gian tôn vinh Không Lộ là Nam Thiên Thánh tổ bởi có công giúp dân
khai hoang trị thuỷ trong buổi đầu thành lập. Như vậy, bằng những dấu tích để lại
trên các khung cảnh khác nhau, chúng ta thấy rõ một thiền sư Dương Không Lộ đã
được thần thoại hoá, khoác thêm chiếc áo của một vì thần khổng lồ trong thời kỳ
hình thành và xây dựng vùng đồng bằng sông Hồng, trong tâm thức dân gian trở
thành một vị Thánh bảo trợ cho cộng đồng.
Hiện nay, sư được thờ ở khá nhiều ngôi chùa chủ yếu ở hai tỉnh Nam Định
và Thái Bình, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là Chùa Keo (Thái Bình) và Chùa Keo Hành
Thiện (Nam Định).
59
2.2.3. Nguyễn Giác Hải (? - ?)
Hiện tại, chưa có tài liệu nào cho biết năm sinh, năm mất của sư. Trong tác
phẩm Thiền Uyển Tập Anh ghi sư là bạn với Dương Không Lộ và thuộc thế hệ thứ
mười của thiền phái Vô Ngôn Thông. Sư người hương Hải Thanh, tuổi trẻ làm nghề
đánh cá, lênh đênh trên sông nước. Năm 25 tuổi bỏ nghề, xuống tóc đi tu (trước khi
đi tu sư đã lập gia đình và có hai người con trai). Giác Hải cùng với Không Lộ học
đạo thiền của thiền sư Lôi Hà Trạch, sau đó hai người kết bạn cùng với Đạo Hạnh
đi Tây Trúc tìm thầy học đạo, đi đến nước Kim Sỉ (Miến Điện) đã học được đạo
pháp. Sư được mời vào trong hoàng cung và chữa khỏi bệnh sợ tiếng tắc kè kêu cho cho
vua, từ đó tiếng tăm của sư vang xa, mọi người đều ngưỡng mộ.
Một đêm có ngôi sao lớn rơi xuống phía Đông Nam, sư ngồi nói chuyện đến
sáng rồi viên tịch. Vua xuống chiếu cho lấy thuế 30 hộ để cúng hương hỏa và cho
hai người con trai ra làm quan để tỏ lòng khen thưởng.
Nhiều tình tiết ly kỳ về sư cũng được ghi lại cho thấy sư có tài phép hơn
người, Thiền Uyển Tập anh ghi sư đến nước Kim Sỉ (Miến Điện) gặp được bà lão
truyền dạy cho nhiều pháp thần thông, thuật biến hoá vì thế sư có những khả năng dị
thường, chân đi nhanh như bay, có phép thần biến tung người nhẩy lên không cao mấy
trượng rồi trong chốc lát lại về chỗ cũ. Tác phẩm Đại Nam Nhất Thống Chí có ghi lại
việc nhà sư về chùa Phúc Long, Huyện Yên Lạc, tỉnh Ninh Bình tu hành, một năm
gặp đại hạn, sư lấy giấy dán vào cái giỏ bằng tre, ra sông xách nước tưới vào ruộng
thành vũng bàn chân, nước ở vũng ấy chảy ra bốn phía, nước chảy đến đâu đều
thành khe ngòi, nhân dân được nhờ [44, tr.274].
Hiện nay, sư được thờ ở nhiều ngôi chùa nhưng chủ yếu được phối thờ với
hai vị Không Lộ và Đạo Hạnh, hiện chưa khảo sát thấy có ngôi chùa nào thờ sư một
cách độc lập, tuy nhiên nơi thờ sư nổi tiếng nhất vẫn là chùa Nghĩa Xá (Nam Định),
đây là ngôi chùa sư tu hành thành đạo và viên tịch.
2.2.4. Nguyễn Minh Không (1066 - 1141)
Sư họ Nguyễn, tên Chí Thành, quê làng Đàm Xá, phủ Tràng An (nay là huyện
Gia Viễn, Ninh Bình). Hành trạng của sư được ghi trong nhiều tư liệu có sự nhầm lẫn
với Dương Không Lộ, nhưng theo một số tài liệu như: Đại Việt sử ký toàn thư, Việt
Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái, sư là học trò của Từ Đạo Hạnh thuộc thế hệ thứ
mười ba của phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi. Vốn là người có tư chất nên được Đạo Hạnh
truyền tâm ấn, đổi tên là Nguyễn Minh Không. Khi Đạo Hạnh hoá, sư trở về chùa
Quốc Thanh tu hành. Năm Bính Thìn (1136), vua Lý Thần Tông mắc bệnh lạ, tâm thần
rối loạn, khắp người mọc lông, nhiều vị danh y trong nước không chữa được bệnh. Bấy
giờ trong dân gian trẻ con hát đồng dao rằng: "Tập tầm vông, có ông Nguyễn Minh
Không chữa được bệnh Thiên tử", biết tin, triều đình sai người đi đón sư vào kinh chữa
60
bệnh. Vua khỏi bệnh, phong Nguyễn Minh Không làm Quốc sư, ban lộc mấy trăm hộ
để thưởng công. Năm Tân Dậu (1141), sư tịch, thọ 76 tuổi.
Trong dân gian hành trạng của sư mang nhiều tình tiết li kỳ, thần bí, mỗi
vùng câu chuyện về sư lại được kể một cách khác nhau, nhiều tình tiết linh dị được
sử dụng. Ví như chuyện niêu cơm nhỏ mà hàng trăm người ăn no nê không hết, hay
tình tiết chỉ trong một khoảnh khắc thuyền đã về tới kinh đô đều thể hiện thuật rút
đất đầy thần thông của Minh Không, hay như câu chuyện chữa bệnh hoá hổ cho vua
Lý Thần Tông: sư nấu một vạc dầu sôi, vứt 100 chiếc kim vào đó rồi quơ tay một
cái vớt đủ 100 chiếc kim ra khỏi vạc dầu, lấy dầu sôi tắm cho vua, lấy kim châm
vào các huyệt, dầu dội đến đâu lông vàng trút hết đến đó. Hay như câu chuyện ngả
nón làm thuyền vượt sông cả, sang nước Tống cho cả kho đồng vào túi đưa về để
đúc "đại tứ khí" cho nước Nam, chuyện giết quái vật ngư công ở trên biển đem lại
bình yên cho dân chúng. Trong tâm thức dân gian, Nguyễn Minh Không không chỉ
là vị Thánh - đấng tối linh có pháp thuật cao cường mà còn là vị thần y tài đức chữa
bệnh cho dân, ông tổ của nghề đúc đồng đầy gần gũi và ân tình.
Hiện nay, sư được thờ ở nhiều chùa, trải rộng ở nhiều tỉnh, thành ở vùng
đồng bằng sông Hồng. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là ngôi chùa Lý Quốc Sư ở Hà Nội
(trước đây là Đền Lý Quốc sư), chùa Cổ Lễ ở Nam Định và chùa Viên Quang (hay
còn gọi là Đền Thánh Nguyễn) ở Ninh Bình. Tại quê nhà còn câu thơ lưu danh:
"Hoa Lư dục tú xuất Đinh Hoàng
Điềm Xá chung linh sinh Nguyễn Thánh".
2.2.5. Một vài nhận định
Thứ nhất, Tứ vị Thánh tổ đều là những con người được sinh ra tại vùng đồng
bằng sông Hồng: Trước khi khởi nguyện tu hành, khai mở duyên thiền, họ đều là
những con người bình dị, có cuộc sống bình thường như bao người khác, cư trú
những địa điểm khác nhau của vùng đồng bằng sông Hồng. Từ Đạo Hạnh là người
làng Láng (Hà Nội) vốn là một nho sinh ngày thì thổi sáo, đánh cầu, đêm thì mải miết
đọc sách dự kỳ thi tăng hương thí đỗ khoa Bạch Liên, Dương Không Lộ và Nguyễn
Giác Hải vốn là những cư dân sông nước, làm nghề chài lưới ở khu vực Giao Thuỷ
(Nam Định), Nguyễn Minh Không là người phủ Trường Yên (Ninh Bình).
Thứ hai, Tứ vị Thánh Tổ đều là những đệ tử nhà Phật, tinh thông Phật pháp
và chịu ảnh hưởng sâu sắc của yếu tố Mật giáo: Mặc dù thuộc về hai thiền phái Tì Ni
Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông nhưng yếu tố Thiền trong hành trạng của các sư mờ
nhạt, yếu tố Mật nổi trội, thể hiện rõ nét trong cách thức hành trì và tu tập. Các sư đều
tu theo pháp môn đà la ni, tinh thông lục trí thần (Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông,
Tha tâm thông, Túc mệnh tông, Thần túc thông, Lậu tận Thông) [57] với muôn nghìn
phép lạ có thể bay trên không, đi dưới nước, sử dụng phép thuật để chữa bệnh cho
61
dân. Từ Đạo Hạnh "bắt rắn rừng và dã thú đến nằm phục xung quanh, đốt ngón tay
cầu mưa, dùng nước phép trị bệnh không việc gì là không linh nghiệm" [107, tr.200]
hay Không Lộ "ngày thường chuyên tâm nghiên cứu pháp môn đà la ni, sư bay trên
không, đi dưới nước, phục hổ, giáng long muôn nghìn phép lạ không lường hết được"
[107, tr.105]. Họ đã dùng những pháp thuật của mình để hộ quốc an dân thông qua
việc hoá giải những tai ương, cầu đảo cho dân chúng được bình an, mưa thuận gió
hoà, mùa màng bội thu.
Hoạt động tôn giáo của Tứ vị Thánh tổ mang đậm yếu tố Mật đó được truyền
tụng từ thời Lý cho đến tận ngày nay. Những câu chuyện đầy mầu sắc thần thoại
luôn được người Việt ưa chuộng, để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm thức cộng đồng,
trong đó yếu tố Mật luôn hoà quyện một cách hài hoà với tín ngưỡng dân gian mang
đậm dấu ấn văn hoá của người Việt ngay từ buổi đầu dựng nước và thoả mãn nhu
cầu tâm linh của cư dân vùng đồng bằng sông Hồng.
Thứ ba, Tứ vị Thánh tổ đều là những nhà sư nhập thế, có công với triều đình,
với Phật giáo và với nhân dân, được ghi nhớ công trạng.
Đối với triều đình: sư Từ Đạo Hạnh thác thai trở thành Vua Lý Thần Tông -
vị vua thứ năm của nhà Lý, tư chất thông minh, độ lượng, dưới sự trị vì của vua Lý
Thần Tông nông nghiệp phát triển do vua thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông",
cho quân lính thay phiên nhau cứ sáu lần một tháng được về làm ruộng để tham gia
sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy cho nông nghiệp thời này phát triển. Dương
Không Lộ được phong làm Quốc Sư, Giác Hải được lấy Quốc tính, chuyển sang họ
của vua thành Lý Giác Hải chữa khỏi bệnh sợ tiếng tắc kè kêu cho vua Lý Thánh
Tông, cả hai vị đều được triều đình biểu dương khen ngợi. Nguyễn Minh Không
được phong làm Quốc sư do chữa bệnh hoá hổ cho vua Lý Thần Tông.
Đối với Phật giáo: họ là những người mở mang Phật giáo, góp phần đưa Phật
giáo phát triển dưới thời Lý. Trong quá trình hoằng pháp các sư đã đi đến nhiều nơi,
dựng nhiều ngôi chùa, tham gia xây dựng nhiều công trình Phật giáo. Quốc sư Nguyễn
Minh Không được coi là vị sư có công dựng nhiều ngôi chùa và tạo nên An Nam tứ đại
khí, đó là những báu vật Phật giáo nổi tiếng thời Lý, trong dân gian còn lưu truyền:
"Một: là pho tượng Quỳnh Lâm
Hai: Chuông Phả Lại nguyên âm còn truyền
Ba: là Cây tháp Báo Thiên
Bốn: là minh đỉnh đề miền Nam Trung"
Đối với nhân dân: họ là những vị sư nhập thế, chan hoà với đời, mộc mạc,
giản dị, không xa cách mà rất gần gũi, gắn bó với cộng đồng dân cư nơi họ hoằng
pháp. Là những người thầy dạy dân các nghề để duy trì cuộc sống, trở thành những
vị tổ nghề và được nhân dân kính ngưỡng, thờ phụng.
62
2.3. CƠ SỞ THỜ TỰ TỨ VỊ THÁNH TỔ
Qua khảo sát bước đầu ở vùng đồng bằng sông Hồng cho thấy có tới hơn 50
ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ đây chính là không gian thiêng, nơi thể hiện niềm tin
và thực hành tín ngưỡng. Các ngôi chùa này tập trung chủ yếu ở các tỉnh Hà Nội,
Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, luận án trình bày một số không gian thiêng tiêu
biểu và là đối tượng nghiên cứu chính: chùa Thầy (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình),
chùa Cổ Lễ, chùa Nghĩa Xá (Nam Định).
2.3.1. Chùa Thầy (Hà Nội)
Ngôi chùa được xem là trung tâm của cụm các di tích thờ Thánh Từ Đạo Hạnh ở
vùng đồng bằng sông Hồng, chùa nằm trên địa bàn thôn Thuỵ Khê, xã Sài Sơn, huyện
Quốc Oai, thành phố Hà Nội, có tên chữ là Thiên Phúc tự, có nhiều giá trị về lịch sử, văn
hoá, kiến trúc, đã được Bộ Văn hoá xếp hạng di tích cấp quốc gia trong đợt đầu tiên vào
năm 1962 và năm 2014 được Nhà nước xếp hạng di tích cấp quốc gia hạng đặc biệt theo
quyết định số 2408/QĐ-TTg, ngày 31/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ.
Chùa được khởi dựng từ thời Lý, theo bài minh trên chuông thì chùa được
dựng lại vào năm 1109 triều Lý Nhân Tông. Khi Từ Đạo Hạnh về tu hành, sư đã
hưng công tu bổ và cho đúc một quả chuông nặng hai nghìn cân, quả chuông này đã
được nhiều học giả nhắc tới, Lê Quý Đôn trong tác phẩm Kiến Văn Tiểu Lục, phần
Thiên Chương đã xếp bài minh khắc vào chuông chùa Thiên Phúc ở vị trí số một,
đáng tiếc rằng năm 1789 do thiếu đồng để đúc tiền nên quả chuông này đã được
trưng dụng.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, chùa Thầy đã được trùng tu, sửa chữa nhiều
hạng mục công trình, đặc biệt vào thế kỷ XVII ngôi chùa đã được mở rộng quy mô,
hình thành nên cụm kiến trúc gồm ba toà Tiền Đường - Điện Phật - Điện Thánh, tồn
tại cho đến ngày nay.
Chùa được xây dựng theo kiểu tiền Phật, hậu Thánh, với hai công trình
chính là Điện Phật và Điện Thánh. Điện Phật có bố cục hình chữ Công gồm Tiền
Đường - Thiêu Hương - Thượng Điện. Tiền Đường với kiến trúc một tầng, hai mái,
lợp ngói mũi hài, có nền cao hơn sân chùa một mét với năm bậc lên xuống, gồm ba
gian, hai chái, kết cấu khung gỗ dựa trên bốn hàng chân cột, bao che phía trước bởi
hệ thống cửa theo kiểu bức bàn và vách gỗ chấn song. Thiêu Hương của chùa Thầy
khá đặc biệt bởi không có cột riêng mà gắn liền với mái gian giữa của Tiền Đường
và Thượng Điện, hai bên là vách ngăn bằng gỗ để ngăn cách không gian của Thiêu
Hương và Thượng Điện, đề tài trang trí trên các vách ngăn là hoa cúc, mây mác,
rồng,... mang phong cách nghệ thuật chủ đạo của thế kỷ XVII. Thượng Điện gồm ba
gian, hai chái có kiến trúc tương tự nhưng có mặt nền cao hơn 50cm với lòng nhà
thoáng và rộng hơn so với toà Tiền Đường.
63
Điện Thánh là một toà nhà lớn gồm một gian, hai chái, một tầng bốn mái lợp
ngói mũi hài, xung quanh của Điện Thánh được bao che bởi hệ thống ván gỗ, cửa sổ
kiểu chấn song con tiện và hệ thống cửa lớn bằng kiểu cửa bức bàn. Điện Thánh
không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc mà còn mang ý nghĩa
giá trị tâm linh bởi đây được coi là hậu cung sớm nhất và theo quan niệm của nhân
dân thì Điện Thánh là nơi thiêng liêng và được coi trọng hơn cả Điện Phật. Xét về
mặt ý nghĩa tôn giáo, Điện Thánh mang tư cách như một dấu mốc cho sự chuyển
biến về mặt tâm linh trong cách thức ứng xử của cư dân vùng đồng bằng sông Hồng
đối với các vị thần linh, đó là sự quan tâm chú ý để tạo sự thâm nghiêm vì thế trên phần
trang trí ở Điện Thánh vừa đủ để lấy ánh sáng mờ ảo tạo thêm cho Điện Thánh một cảm
giác linh thiêng [18, tr.130]. Điện Thánh là nơi thờ sư Từ Đạo Hạnh ở cả ba kiếp "vi
Tiên, vi Phật, vi Quốc vương".
Chùa Thầy là nơi thể hiện niềm tin và thực hành tín ngưỡng đối với Thánh
Từ Đạo Hạnh.
2.3.2. Chùa Keo (Thái Bình)
Là một ngôi chùa nổi tiếng trong hệ thống các ngôi chùa tiền Phật, hậu
Thánh ở vùng đồng bằng sông Hồng, điển hình cho cụm các ngôi chùa thờ thiền sư
Không Lộ - một trong Tứ vị Thánh tổ triều Lý. Chùa hiện nằm trên địa phận thôn
Keo, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, có tên chữ là Thần Quang Tự,
nhưng người dân làng Keo thường gọi là Keo Thượng để phân biệt với chùa Keo
Hành Thiện Nam Định (Keo Hạ). Chùa đã được Bộ Văn hoá xếp hạng là di tích cấp
quốc gia vào năm 1962, đến năm 2012, chùa được công nhận là di tích kiến trúc
nghệ thuật quốc gia đặc biệt theo quyết định số 1419/QĐ-TTg ngày 27/9/2012 của
Thủ tướng Chính phủ. Lễ hội mùa thu chùa Keo cũng đã được công nhận là di sản
văn hoá phi vật thể cấp quốc gia theo quyết định số 217/QĐ-BVHTTDL, ngày
23/01/2017 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
Chùa Keo (Thái Bình) được khởi dựng từ thời Lý, mặc dù tư liệu lịch sử
không ghi cụ thể ngôi chùa được khởi dựng từ năm nào, nhưng theo tư liệu truyền
ngôn cho biết ngôi chùa được dựng ban đầu dưới dạng thảo am vào năm 1051 triều
vua Lý Thánh Tông do chính sư Không Lộ khởi dựng với tên gọi là Nghiêm Quang
tự, đến năm 1167 dưới triều vua Lý Anh Tông đã ban chiếu cho sửa và đổi tên thành
Thần Quang tự.
Ngôi chùa cổ Thần Quang chỉ tồn tại được khoảng 500 năm, đến năm 1612,
một trận đại hồng thuỷ đã cuốn trôi mất ngôi chùa và chia cắt cư dân làng Keo, một bộ
phận di chuyển sang tả ngạn sông Hồng (Duy Nhất, Vũ Thư, Thái Bình) lập nên chùa
Keo Thái Bình (Keo Thượng) và một bộ phận di chuyển sang hữu ngạn sông Hồng
(Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định) lập nên chùa Keo Hành Thiện (Keo Hạ).
64
Thế kỷ XVII, ngôi chùa được dựng lại với quy mô lớn do một vị quan Chương
sự giám Tuấn Thọ hầu Hoàng Nhân Dũng người làng Từ Quán, phủ Hải Thanh và vị
kiến trúc sư thiết kế là ông Nguyễn Văn Trụ làm Tán trị công thần. Ngôi chùa được
dựng trong vòng 28 tháng, từ tháng 7/1630 và đến tháng 11/1632 thì hoàn thành, gồm
21 công trình với 154 gian, tường vách bao quanh bốn phía [141, tr.208]. Trải qua
nhiều biến cố, thăng trầm của lịch sử, chùa Keo Thái Bình đã qua nhiều lần tu sửa
vào các năm 1671, 1689, 1707, 1884, 1941, 1957. Tuy nhiên, những lần tu chỉnh này
không làm thay đổi toàn bộ cấu trúc của chùa mà chỉ làm thay đổi từng thành phần
kiến trúc, các lần tu sửa đều được ghi lại qua văn bia còn lưu giữ tại chùa. Năm 1941
tu sửa lại Gác Chuông và toà Giá Roi, chủ trì là Trường Viễn Đông Bác Cổ của Pháp,
kinh phí là của nhân dân địa phương, lần trùng tu này đã làm mất đi nhiều giá trị
nguyên bản.
Chùa Keo (Thái Bình) được kiến trúc theo kiểu nội Công, ngoại Quốc với
nhiều hạng mục công trình nhưng có hai hạng mục kiến trúc nổi bật và là trung tâm
của ngôi chùa: Điện Phật và Điện Thánh. Điện Phật được kết cấu hình chữ Công
gồm ba toà Tiền Đường - Thiêu Hương - Thượng Điện. Tiền Đường là một công
trình tương đối lớn gồm năm gian, hai chái, hệ ngói được lợp bằng ngói mũi hài. Bộ
khung kiến trúc được dựng trên bốn hàng chân cột, xung quanh được thưng kín
bằng ván gỗ, hệ thống cửa được làm theo kiểu bức bàn trên một hàng cột cái. Thiêu
Hương gồm kết cấu ba gian chạy dọc nối liền Tiền Đường và Thượng Điện.
Thượng Điện gồm một gian, hai chái cũng giống như Tiền Đường được dựng trên
bốn hàng chân cột và xung quanh được thưng kín bằng ván gỗ. Đề tài trang trí ở
Điện Phật là rồng, phượng, lân, vân mây, đao mác, mang phong cách nghệ thuật chủ
đạo của cuối thế kỷ XVII.
Trước Điện Thánh là toà Giá Roi, đây là một công trình đặc biệt không thấy
ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ khác, toà Giá Roi trước đây được sử dụng như
một trung tâm hành chính của làng.
Điện Thánh cũng được kết cấu theo hình chữ Công, với các công trình Đại Bái,
Ông Muống và Hậu Cung. Đại Bái gồm ba gian, hai chái, Ông Muống chạy dọc nối
Đại Bái và Hậu Cung, bao che Điện Thánh vẫn là hệ ván bưng bằng gỗ giống như Điện
Phật, hệ cửa được mở trên hàng cột cái trước toà Đại Bái, hệ ngói được lợp bằng ngói
mũi hài.
Điện Thánh là nơi thờ sư Dương Không Lộ mang dáng vẻ kín đáo thâm
nghiêm của một ngôi đền thờ và cũng là nơi thể hiện niềm tin và thực hành nghi lễ
đối với Thánh Dương Không Lộ của người dân làng Keo nói riêng và người dân ở
vùng đồng bằng sông Hồng nói chung.
65
2.3.3. Chùa Cổ Lễ (Nam Định)
Chùa thờ thiền sư (Quốc sư) Nguyễn Minh Không - một trong Tứ vị Thánh
tổ. Chùa hiện toạ lạc ở phía tây Thị trấn Cổ Lễ huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, có
tên chữ là Thần Quang tự. Tương truyền, chùa được khởi dựng từ thời Lý, trải qua
những biến cố thăng trầm của lịch sử, dấu vết của ngôi chùa cổ xưa đã không còn.
Năm 1902, sư Phạm Quang Tuyên về trụ trì, đã xin với vua nhà Nguyễn và nhận
được chiếu chỉ cho xây chùa. Chùa được dựng tách khỏi dân cư, hai bên có sông
nhỏ thông với sông Cổ Lễ, phong cảnh sơn thuỷ hữu tình. Tiếp nối là sư Phạm Thế
Long - Phó Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo
Việt Nam và hiện nay là sư Thích Tâm Vượng, các sư đã sửa sang tu bổ cảnh chùa
để có được ngôi chùa Cổ Lễ như ngày nay.
Chùa Cổ Lễ (Nam Định) thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa kiến trúc cổ truyền
của người Việt và kiến trúc mang phong cách Châu Âu, chùa có hướng Tây, được
xây dựng trên diện tích rộng khoảng mười mẫu với nhiều hạng mục công trình:
Cổng chùa, Tháp Cửu phẩm liên hoa, Cầu cuốn, Tam quan, Nhà hội quán, Đền Đức
Thánh Trần, Đền Mẫu, Toà Chính cung, nhà Tổ, nhà Khách, phòng Tăng, Pháp
đường, Kho bếp, vườn Tháp,… Trong đó, Toà Chính cung (Chùa chính) là hạng
mục kiến trúc nổi bật và là trung tâm của ngôi chùa.
Toà Chính cung là nơi thờ Phật và thờ Thánh Nguyễn Minh Không được bài
trí thờ tự theo kiểu tiền Phật, hậu Thánh, Điện Thánh và Điện Phật cùng chung
trong một kiến trúc bao gồm ba toà Tiền Đường - Thiêu Hương - Thượng Điện.
Thượng Điện chỉ có duy nhất pho tượng Phật Thích Ca tạc bằng gỗ, sơn son thiếp
vàng, bên dưới Thượng Điện là động Phật nhập Niết bàn có tượng Phật nằm
nghiêng. Hai bên tả, hữu Thượng Điện là hai nhịp cầu thang lên, xuống dẫn đến
Điện Thánh, nơi thờ Thánh Nguyễn Minh Không.
Điện Thánh, chính giữa là khám thờ lớn bên trong đặt pho tượng Thánh
Nguyễn được tạc ở tư thế ngồi, đầu đội mũ pháp sư, mình khoác áo cà sa chùm kín
xuống chân, khuôn mặt hiền từ, đôi mắt nhìn xuống có vẻ đăm chiêu nhưng toát lên
vẻ gần gũi với đời. Trong khám còn lưu giữ một trống đồng, một túi đựng đồng là
biểu tượng nhắc lại sự tích sư sang Trung Quốc quyên đồng về để đúc tứ khí và một
lá cờ thần hai mặt đều có thêu chữ, một mặt ghi Nam Thiên Thánh Tổ và mặt kia
ghi Lý Triều Quốc sư. Điện Thánh ở chùa Cổ Lễ mặt dù được xây dựng theo lối
kiến trúc mới nhưng vẫn mang dáng vẻ kín đáo, thâm nghiêm và không lộ diện.
2.3.4. Chùa Nghĩa Xá (Nam Định)
Đây là ngôi chùa tiêu biểu thờ sư Nguyễn Giác Hải. Tuy nhiên, ngôi chùa
không chỉ thờ sư Nguyễn Giác Hải mà còn có các vị Thánh khác phối thờ là Từ Đạo
Hạnh, Dương Không Lộ và Lý Tường Đĩnh. Chùa hiện thuộc thôn Nghĩa Xá, xã
66
Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, có tên chữ là Viên Quang tự.
Ngôi chùa với những giá trị tiêu biểu về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật đã được Bộ
Văn hoá - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử kiến trúc, nghệ thuật theo Quyết
định số 1371/QĐ-BVHTT ngày 03/8/1991.
Theo văn bia "Viên Quang tự bi minh tỉnh tự" còn lưu giữ tại chùa cho biết,
chùa được khởi dựng vào thời vua Lý Anh Tông, là nơi sư Giác Hải trụ trì, chùa ban
đầu có tên gọi là Diên Phúc, đến năm 1138, vua Lý Anh Tông xuống chiếu tu sửa
chùa, năm 1167 chùa tiếp tục được tu sửa và đổi tên thành Viên Quang. Ngôi chùa
ban đầu được dựng ở Giao Thủy vạn, trao đổi với ông Phạm Ngọc U, 80 tuổi, hiện
cư trú tại xóm 7 thôn Nghĩa Xá được biết (xem thêm biên bản phỏng vấn (BBPV) số
3): khu Giao Thuỷ vạn là một địa danh nằm ở phía trên phà Tân Đệ cách thành phố
Nam Định khoảng 15 km, trước đây chùa có quy mô rất lớn với 36 toà, hàng trăm
gian. Do sự đổi dòng của sông Hồng, chùa có nguy cơ bị cuốn đi nên chùa được
chuyển về xứ Bát Dương (thuộc huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình). Nhưng đây chưa
phải là khu đất để chùa tồn tại lâu dài mà chùa vẫn có nguy cơ bị sụt lở do ở ven
sông Hồng, vì thế tháng 3 năm thứ 19 đời vua Tự Đức (1866), tổ họ Phạm và họ
Nguyễn (hai họ thông gia) đã làm đơn xin với triều đình cấp đất mới để định cư và
xây chùa, nên ngôi chùa được chuyển về xây dựng trên khu đất hiện nay.
Chùa Nghĩa Xá (Nam Định) có kiến trúc mặt bằng theo kiểu nội Công, ngoại
Quốc, Điện Phật và Điện Thánh cùng nằm trong một kiến trúc hình chữ "Công"
nhưng có sự tách bạch rõ ràng giữa nơi thờ Phật và nơi thờ Thánh. Các công trình
kiến trúc chính của chùa bao gồm: Tam Quan, Tiền Thất, Tam Bảo, Nhà Tổ.
Toà Tam Bảo gồm cả Điện Phật và Điện Thánh có các hạng mục: Tiền
Đường - Thiêu Hương - Thượng Điện. Tiền Đường có mặt bằng hình chữ nhật, gồm
năm gian hai chái, mặt trước được mở cửa hết chiều dài của năm gian chính, hai bên
hồi được xây kín bằng gạch, phía trong trát vữa quét vôi, phía bên ngoài tường để
mộc. Thiêu Hương, gồm ba gian, hai mặt trước, sau nối thông và vuông góc với
Tiền Đường và Thượng Điện, hai mặt bên được xây tường gạch, trát vữa, trổ lỗ gió
hình vuông. Thượng Điện, gồm năm gian hai chái, nối vuông góc với Thiêu Hương,
kết cấu bốn hàng chân cột, phía dưới các kẻ được xây tường gạch, trát vữa để ngăn
chia các gian của Thượng Điện, nhưng các gian này thông nhau. Trên vị trí hàng cột
quân sau của Thượng Điện được xây tường kín năm gian hai chái, tạo thành một
Mật Thất, đây chính là Hậu Cung hay còn coi là Điện Thánh, nơi thờ các vị Thánh.
Cửa Mật Thất được mở ở giữa tường hậu.
Trở lại với đối tượng thờ phụng trong chùa. Trong các nghiên cứu trước đây
như cuốn "Chùa Bối Khê nhìn từ khảo cổ học Phật giáo" [tr.234], cuốn "Chùa
Thầy" [tr.192], luận án tiến sĩ "Những ngôi chùa tiền Phật, hậu Thánh", phần phụ
67
lục [tr.208] đều cho rằng ngồi chùa Nghĩa Xá (Nam Định) có tên chữ Viên Quang
tự thờ Tứ vị Thánh tổ là Nguyễn Giác Hải, Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ,
Nguyễn Minh Không, nhưng trong quá trình thực địa gặp sư trụ trì và các cụ cao
niên trong làng NCS được biết chùa hiện đang thờ Nguyễn Giác Hải, Từ Đạo Hạnh,
Dương Không Lộ và Lý Tường Đĩnh như đã trình bày ở trên.
Vậy, Lý Tường Đĩnh là ai? tìm trong tư liệu lịch sử NCS không thấy nhắc
đến nhân vật tên Lý Tường Đĩnh, trao đổi với ông Phạm Ngọc U (xem BBPV số 3),
được biết: tương truyền từ đời xưa để lại Cụ Lý Tường Đĩnh là chắt đời thứ tư của
sư Nguyễn Giác Hải, làm quan trong triều đình nhà Lý, được triều đình phong chức
"Lục Thượng Thái sư", có công lao kêu gọi cung tiến đóng góp xây dựng chùa. Vì
là chắt của sư Giác Hải lại là người có công lao đối với chùa vì thế được nhân dân
suy tôn và thờ thành vị Thánh thứ tư ở chùa gọi là "Thánh Chém". Gọi là đức
"Thánh Chém" vì trước đây cứ vào ngày hội tháng 3 (AL) hàng năm dân làng đều tổ
chức rước kiệu của các vị Thánh tổ ra ngự ở toà Giải Vũ của chùa, tuy nhiên cứ
năm nào rước kiệu của "Lục Thượng Thái sư" ra ngoài thì năm đó nhân dân mất
mùa vì thế không rước kiệu của Thánh ra toà Giải Vũ trong ngày hội nữa.
Trở lại vấn đề thờ Thánh Lý Tường Đĩnh, NCS thấy có sự bất hợp lý. Theo
quan điểm của người Việt Nam, Lý Tường Đĩnh là hàng chắt đời thứ tư của sư
Nguyễn Giác Hải nên không thể được thờ ngang hàng với bậc tiền bối. Vì thế cần
phải có một nghiên cứu khác làm rõ Lý Tường Đĩnh là ai? Có phải là chắt của sư
Nguyễn Giác Hải hay không? Hay là một vị Thánh khác mà còn có sự nhầm lẫn trong
dân gian. Trong quá trình điền dã NCS được nghe câu chuyện lý thú về Lý Tường
Đĩnh, trong dân gian còn có luồng ý kiến cho rằng Lý Tường Đĩnh không phải là chắt
của Thánh Nguyễn Giác Hải mà là một người bạn đồng tu, cũng có ý định sang Tây
Trúc cầu đạo, nhưng bởi trước khi đi ông bị bệnh nặng, không tham dự được chuyến
đi này, hiện nay ông được thờ ở vùng Lý Nhân, Hà Nam. Tuy nhiên do điều kiện về
thời gian NCS chưa có dịp về Lý Nhân để tìm hiểu thêm, đây cũng là một vấn đề đầy
lý thú cần được tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ NCS sẽ trở lại vấn đề này trong các
nghiên cứu tiếp theo.
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2, luận án đã nhận diện về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ thông
qua việc làm rõ các yếu tố hình thành, đối tượng thờ cúng, cơ sở thờ tự. Các yếu tố
hình thành nên tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đó là điều kiện kinh tế - xã hội thời Lý,
yếu tố Mật giáo trong Phật giáo và pháp của Tứ vị Thánh tổ, nhu cầu và hệ thống
Tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng sông Hồng. Dưới thời Lý, các vị vua đều tôn
sùng Mật giáo, nhiều tầng lớp trong xã hội đề cao việc thực hành yếu tố Mật, bởi
phù hợp với tín ngưỡng dân gian của người Việt. Ngay từ khi mới du nhập cho đến
68
thời Lý, Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian đều có sự tiếp biến, thẩm thấu trong nhau,
làm giầu thêm những nét văn hoá cho cả hai, chính sự thẩm thấu đó mà mỗi thời kỳ lại
hình thành nên một loại hình tín ngưỡng phù hợp với thời đại và tâm lý xã hội, vì thế,
thời Lý đã hình thành nên tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Luận án trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu đi trước đã mô tả lại hành trạng
của Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không và
một số ngôi chùa tiêu biểu ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trong hành trạng của các
Thánh yếu tố Mật và các truyền thuyết dân gian tồn tại đan xen, lớp văn hoá Phật
giáo và lớp văn hoá dân gian của cư dân nông nghiệp hoà quyện với nhau. Hành
trạng của các sư được "huyền thoại hoá" để từ những con người thật trải qua thời
gian trở thành những vị Thánh, biểu tượng của sức mạnh với khả năng siêu phàm,
các Thánh đều rất linh ứng, phàm mỗi khi người dân gặp tai ương thì cầu đảo đều
ứng nghiệm. Chính sự thiêng hoá Tứ vị Thánh tổ là cơ sở quan trọng trong việc
hình thành, củng cố, phát triển niềm tin vào các Thánh.
Các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ có sự khác biệt về lịch sử hình thành, cách
thức bài trí điện thờ, nhưng lại có mối tương đồng về nội dung tôn giáo. Các ngôi
chùa cũng là một minh chứng tiêu biểu cho sự tiếp biến văn hoá giữa Phật giáo và
Tín ngưỡng dân gian để hình thành nên kiểu chùa "tiền Phật, hậu Thánh" ở vùng đồng
bằng sông Hồng. Nơi đây cũng diễn ra mối giao cảm giữa Thánh thuộc về thế giới
thiêng và người dân ở thế giới tục, là không gian thiêng để cộng đồng và mỗi người
dân được bày tỏ niềm tin và thể hiện niềm tin của mình đối với Tứ vị Thánh tổ.
Với những mô tả, phân tích, đã bước đầu nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh
tổ. Tuy nhiên, để nhận diện rõ nét hơn và cung cấp thêm những thông tin về tín
ngưỡng Tứ vị Thánh tổ hiện nay ở cả hai bình diện lý luận và thực tiễn, luận án sẽ
tiếp tục làm rõ một số nội dung như biểu hiện về niềm tin của người dân, những
thực hành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ của cộng đồng, của cá nhân và một số biến đổi
của tín ngưỡng trong bối cảnh hiện nay tại chương 3 của luận án.
69
Chương 3
THỰC TRẠNG TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ
Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, tuy
nhiên dưới góc độ nghiên cứu tôn giáo học để thực hiện luận án, NCS tìm hiểu trực
trạng qua các yếu tố: (i) niềm tin của người dân; (ii) thành hành nghi lễ; (iii) những
biến đổi của tín ngưỡng tại một số ngôi chùa tiêu biểu.
3.1. NIỀM TIN CỦA NGƯỜI DÂN VÀO TỨ VỊ THÁNH TỔ
Niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo là một dạng của nhận thức, nhưng đây là dạng
nhận thức đặc biệt, niềm tin tôn giáo luôn mang tính thiêng và liên quan đến thế
giới siêu nhiên, giúp cho con người có thêm những sức mạnh, không có niềm tin thì
không thể có tín ngưỡng, tôn giáo. Niềm tin là một thành tố cấu tạo nên tín ngưỡng,
tôn giáo.
Như đã trình bày ở phần mở đầu, niềm tin của người dân khi đến các ngôi
chùa thờ Tứ vị Thánh tổ là niềm tin song song, họ tin vào Phật và tin vào Thánh và
cả hai đều là những đối tượng thiêng trong đời sống tín ngưỡng của người dân. Tuy
nhiên, hai đối tượng thiêng có vị trí khác nhau, bởi "Phật thì từ bi, Thánh một ly
cũng chấp". Đây được xem là một đặc thù trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của
người Việt.
Niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ là niềm tin mặc nhiên, không cần lý giải vì Thánh
là những con người thật, việc thật. Theo quan niệm "có thờ có thiêng, có kiêng có
lành", việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ hình thành ngay sau khi các sư viên tịch, triều
đình cho nhân dân đèn nhang thờ phụng và thực hiện các hành vi cúng lễ, tế tự. Niềm
tin vào Tứ vị Thánh tổ xuất phát trước tiên là sự tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền
nhân, những người có công với triều đình và nhân dân. Niềm tin được tiếp sức bởi quá
trình "thiêng hoá" thông qua những truyền thuyết, những câu chuyện về hành trạng của
các vị mang nhiều tình tiết ly kỳ, huyền bí có quyền lực linh thiêng có thể tác động đến
cuộc sống của con người nơi trần thế. Niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ tiếp tục được củng
cố qua sự tham gia vào các hoạt động thực hành cúng lễ và khi người dân nhận được sự
bảo hộ từ Thánh thông qua những lời thỉnh cầu và được đáp ứng, khi đó tâm thức biết
ơn, kính thánh, phụng sự Thánh được khẳng định và tạo ra sự tương hỗ khiến việc thờ
phụng Thánh ngày càng thành kính và sâu sắc hơn. Trong cảm quan tâm thức đó, niềm
tin vào Tứ vị Thánh tổ càng tăng thêm sức nặng và trở nên sâu sắc trong đời sống tín
ngưỡng của người dân.
Như vậy, có tin thì mới có thờ và có thờ ắt hẳn có thiêng, dân gian có câu
"Chẳng thiêng sao gọi là Thần", niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ là có thật, mang tính
70
chủ quan, ngày càng có nhiều người tham gia bày tỏ niềm tin và thực hành thực tín
ngưỡng để cầu mong các vị Thánh phù hộ, độ trì, nâng đỡ họ trong cuộc sống, họ
tin vào sự thành công của mình có sự trợ giúp của Thánh.
3.1.1. Niềm tin biểu hiện qua nhận thức và mức độ tin
Tứ vị Thánh tổ đều là những bậc kỳ tài, xuất chúng, nhân dân luôn kính
trọng, biết ơn và tôn thờ những người có công với cộng đồng. Việc thờ cúng Tứ vị
Thánh tổ đáp ứng nhu cầu tâm linh trước những thay đổi của cuộc sống cá nhân và
đời sống xã hội, người dân thể hiện niềm tin được thể hiện qua mặt nhận thức của
họ về Thánh.
3.1.1.1. Niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ thể hiện qua nhận thức
Tìm hiểu niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ thể hiện qua mặt nhận thức, đó là khi
người dân đến chùa lễ Thánh vậy họ có biết ngôi chùa ngoài thờ Phật còn đang thờ
đức Thánh nào? vị Thánh đó có hành trạng và công trạng đối với triều đình và nhân
dân như thế nào?
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, những người đến thực hành tín ngưỡng ở
các cơ sở thờ tự được khảo sát đều có những hiểu biết về vị Thánh được thờ phụng.
Không chỉ biết tên gọi của Thánh, họ còn biết về hành trạng và công trạng của các
Thánh đối với triều đình và nhân dân, cụ thể ở từng ngôi chùa như sau:
Tại chùa Keo (Thái Bình) với 132 phiếu khảo sát, số người trả lời biết ngôi
chùa Keo đang thờ Thánh Dương Không Lộ là 80,3%, trong đó số người trả lời biết
rõ về hành trạng của Thánh, cụ thể: 48,5% người trả lời cho biết Thánh được triều
đình tôn là Quốc sư; 33,3% cho biết Thánh là thiền sư thời Lý; 19,7% cho biết
Thánh là tổ nghề đánh cá; 15,1% cho biết Thánh là thầy thuốc. Không những thế
người dân còn hiểu biết về công trạng của Thánh Dương Không Lộ đối với triều
đình và nhân dân: 28,0% số người trả lời cho biết Thánh có công lao đóng góp cho
triều đình nhà Lý, 43,9% cho biết có công lao xây dựng chùa, 31,8% cho biết dạy
dân nghề đánh cá, 13,6% cho biết có công lao chữa bệnh cho dân.
Tại chùa Thầy (Hà Nội) với 102 phiếu khảo sát, 79,4% số người trả lời cho
biết ngôi chùa Thầy đang thờ Thánh Từ Đạo Hạnh. Trong đó, hiểu biết về hành
trạng của Thánh: có 58,8% người trả lời cho biết Thánh là thiền sư thời Lý, 60,8%
người trả lời cho biết Thánh là tổ nghề múa rối, 25,5% cho biết Thánh là tổ nghề
trồng lúa. Còn công trạng của Thánh đối với triều đình và nhân dân có 52,0% số
người trả lời cho biết Thánh dạy dân nghề múa rối, 32,3% người cho biết Thánh
chữa bệnh cho dân, 25,5% người trả lời cho biết Thánh có công lao xây dựng chùa.
Tại chùa Nghĩa Xá (Nam Định), với 115 phiếu khảo sát, 64,3% số người trả
lời cho biết ngôi chùa Nghĩa Xá đang thờ Thánh Nguyễn Giác Hải. Trong đó, hiểu
biết về hành trạng của Thánh có 47,8% người trả lời cho biết Thánh là thiền sư thời
71
Lý, tuy nhiên cũng có đến 46,1% số người trả lời mặc dù biết ngôi chùa thờ
Thánh Nguyễn Giác Hải nhưng lại không biết về hành trạng của Thánh. Còn đối
với công trạng, có 36,5% số người trả lời cho biết Thánh có công lao xây dựng
chùa Nghĩa Xá (Viên Quang tự), 30,4% số người trả lời cho biết Thánh còn có
những công trạng khác (6,9% người trả lời đóng góp cho triều đình nhà lý, 6,1%
cho biết Thánh chữa bệnh cho dân, 8,7% cho biết Thánh trừ họa cho dân, 7,0%
cho biết Thánh dạy dân nghề trồng lúa, 1,7% cho biết Thánh khai đất lập làng),
cũng có đến 55,6% người trả lời không biết về công trạng của Thánh đối với
triều đình và nhân dân.
Tại chùa Cổ Lễ (Nam Định) với 108 phiếu khảo sát, 75,9% số người trả lời
cho biết ngôi chùa Cổ Lễ đang thờ Thánh Nguyễn Minh Không và họ còn có những
hiểu biết nhất định về nhân vật được thờ phụng, hiểu biết về hành trạng của Thánh
có 43,5% người trả lời cho biết Thánh được vua phong làm Quốc sư, 51,8% cho
biết Thánh là thiền sư thời Lý, 25,0% người trả lời cho biết Thánh là tổ nghề đúc
đồng, 13,0% số người trả lời cho biết Thánh là thầy thuốc. Còn hiểu biết về công
trạng của Thánh có 42,6% người trả lời cho biết Thánh có công lao xây dựng chùa,
30,6% người trả lời cho biết Thánh có công lao chữa bệnh cho người dân, 26,8%
cho biết Thánh dạy dân nghề đúc đồng, tuy nhiên do vẫn có sự nhầm lần trong dân
gian giữa Thánh Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ nên có 12,0% người trả
lời cho biết Thánh dạy dân nghề đánh cá.
Như vậy, niềm tin biểu hiện qua mặt nhận thức của người dân đối với Tứ vị
Thánh tổ là khá cao. Tính trên tổng số 457 phiếu khảo sát ở tất cả các cơ sở thờ tự
thì có đến 75,1% số người trả lời biết cơ sở thờ tự đó đang thờ vị Thánh nào và chỉ
có 24,9% số người không biết vị Thánh đang được thờ phụng là ai.
75,1%
24,9% Nhận biết về vị Thánh được thờ phụng
Không nhận biết vị Thánh được thờ phụng
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ người dân biết và không biết về Tứ vị Thánh tổ
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
3.1.1.2. Niềm tin của người dân vào Tứ vị Thánh tổ biểu hiện qua mức độ tin
Kiểm chứng về niềm tin của người dân đối với Tứ vị Thánh tổ thông qua sự
tự thừa nhận của họ, trong bảng khảo sát còn cho biết thông tin về mức độ tin của
người dân vào Tứ vị Thánh tổ, kết quả thu nhận ở từng cơ sở thờ tự như sau:
72
Bảng 3.1: Mức độ tin của người dân vào Tứ vị Thánh tổ
Đơn vị tính: %
TỶ LỆ TỨ VỊ
THÁNH TỔ Số
phiếu Tin
tuyệt đối
Rất tin Khá tin Tin Nửa tin
nửa không
Không Tin
Không trả lời
Từ Đạo Hạnh 102 17,6 13,7 9,8 47,1 7,9 3,9 0,0 Dương Không Lộ 132 18,9 25,8 15,2 25,0 5,3 3,0 6,8 Nguyễn Giác Hải 115 13,9 11,3 8,7 50,4 10,5 5,2 0,0 Nguyễn Minh Không 108 7,4 17,6 9,3 50,0 11,1 0,9 3,7
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
Niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ biểu hiện qua mức độ tin vào từng vị Thánh mà
nếu cộng các mức tin: Tuyệt đối, Rất tin, Khá tin, Tin và cộng các mức Nửa tin nửa
không, Không tin, Không trả lời sẽ cho kết quả đánh giá về mức độ tin của người
dân vào từng vị Thánh:
Thánh Từ Đạo Hạnh: 88,2% người trả lời cho biết họ có mức tin và tin cao
vào Thánh, còn 11,8% người trả lời cho biết họ còn nghi ngại hoặc không tin vào
Thánh.
Thánh Dương Không Lộ: 84,9% người trả lời cho biết họ có mức tin và tin
cao vào Thánh, còn 15,1% cho biết họ còn nghi ngại, không tin hoặc không có câu
trả lời.
Thánh Nguyễn Giác Hải: 84,3% người trả lời cho biết họ có mức tin và tin
cao vào Thánh, còn 15,7% người trả lời cho biết họ còn nghi ngại hoặc không tin
vào Thánh.
Thánh Nguyễn Minh Không: 84,3% người trả lời cho biết họ có mức tin
và tin cao vào Thánh, còn 12,0% người trả lời cho biết họ còn nghi ngại hoặc
không tin vào Thánh và có 3,7% người trả lời không có ý kiến về niềm tin của
mình vào Thánh.
Với số liệu chứng minh, ít có sự chênh lệch về mức độ tin của người dân vào
Tứ vị Thánh tổ ở từng địa bàn nghiên cứu. Tuy nhiên, căn cứ vào sự tự thừa nhận
của người dân về mức độ niềm tin của bản thân vào Tứ vị Thánh tổ cho thấy: Người
dân tin vào Tứ vị Thánh tổ nhưng niềm tin đó không đồng nhất, bởi ở chỉ số mức độ
tin tuyệt đối có nghĩa là hoàn toàn tin tưởng vào các Thánh đều không cao. Trên
tổng số 457 phiếu chỉ có 14,7%, số người trả lời cho biết họ có mức độ tin tuyệt đối
vào Thánh, còn lại là các ở mức độ tin khác: Rất tin: 17,6%, Khá tin: 10,9%, và
phần lớn người đi lễ tự thừa nhận ở mức độ "Tin" chiếm 42,2%, chỉ có 8,5% số
người trả lời cho biết họ Nửa tin nửa không, 3,3% Không tin và 2,8% không trả lời,
cụ thể:
73
Biểu đồ 3.2: Mức độ tin của người dân vào Tứ vị Thánh Tổ
Nguồn: Kết qủa tổng hợp khảo sát của NCS.
Để kiểm tra tính xác thực của câu trả lời về mức độ tin của người dân vào Tứ
vị Thánh tổ, NCS tiến hành khảo sát với câu hỏi: Ông/Bà có tin vào sự phù hộ độ trì
của Thánh không? kết quả thu được về mức độ tin vào sự phù hộ độ trì của người dân
vào từng vị Thánh thể hiện trên bảng sau:
Bảng 3.2: Mức độ tin của người dân vào sự phù hộ của Tứ vị Thánh tổ
Đơn vị tính: %
TỶ LỆ
TỨ VỊ THÁNH TỔ
Số phiếu
Tin tuyệt đối
Rất tin
Khá tin
Tin
Nửa tin nửa
không
Không Tin
Không trả lời
Từ Đạo Hạnh 102 15,7 11,8 5,9 54,9 7,8 3,9 0,0 Dương Không Lộ 132 16,7 23,5 16,7 26,5 6,0 2,3 8,3 Nguyễn Giác Hải 115 13,9 11,3 6,1 53,1 10,4 5,2 0,0 Nguyễn Minh Không
108 6,5 19,4 8,4 49,1 12,0 0,9 3,7
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
Với các kết quả nghiên cứu về mức độ tin vào Thánh và tin vào sự phù hộ độ
trì của Thánh cho thấy niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ đã được xác quyết. Kết quả của
hai câu hỏi thể hiện tính tương đồng, thống nhất trong nhận thức. Niềm tin chính là
phương tiện để duy trì sự tồn tại, phát triển mối quan hệ giữa người dân với Tứ vị
Thánh tổ. Vậy, tại sao người dân lại có niềm tin cao như vậy, câu hỏi sẽ được giải
đáp ở mục tiếp theo, thông qua những trải nghiệm của bản thân mỗi cá nhân vào
việc chứng nghiệm sự linh thiêng của Tứ vị Thánh tổ.
3.1.2. Niềm tin biểu hiện qua các chứng nghiệm linh thiêng
Niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ không thể thiếu yếu tố "linh thiêng" và cần phải
có sự chứng nghiệm để tăng thêm sức mạnh đồng thời củng cố niềm tin trong đời
sống tín ngưỡng của người dân. Yếu tố "Thiêng" mang tính chất mơ hồ, khó nắm
74
bắt và kiểm chứng ở định lượng. Để nhận diện về nội dung này, bảng hỏi khảo sát
thiết kế hai câu hỏi: (1) Theo Ông/Bà vị Thánh được thờ trong chùa có linh thiêng
không?(2) Ông/Bà đã có những trải nghiệm cá nhân về sự linh thiêng của Thánh?.
Câu trả lời cho biết, niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ của người dân tiếp tục được xác
định. Trong tổng số 457 phiếu khảo sát có 83,4% số người được hỏi đều cho rằng
Tứ vị Thánh tổ linh thiêng và trong đó có 43,3% số người đã có những chứng
nghiệm cá nhân về sự linh thiêng, minh chứng như sau:
Bảng 3.3: Tự thừa nhận của người dân vào sự linh thiêng và đã chứng nghiệm
Đơn vị tính: %
Thánh linh thiêng Chứng nghiệm
TỨ VỊ THÁNH TỔ Số
phiếu Có Không Không
ý kiến
Số
phiếu Có Không Không
ý kiến
Từ Đạo Hạnh 102 79,4 6,9 13,7 102 39,2 31,4 29,4
Dương Không Lộ 132 87,1 9,9 3,0 132 52,3 25,7 22,0
Nguyễn Giác Hải 115 80,9 7,0 12,1 115 50,4 27,0 22,6
Nguyễn Minh Không 108 85,2 2,8 12,0 108 28,7 40,7 30,6
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
Như vậy, những trải nghiệm của mỗi cá nhân về sự linh thiêng của Thánh
trong đời sống tín ngưỡng của họ vừa là điều kiện cần và cũng là điều kiện đủ để họ
có thêm sự tin tưởng vào năng lực thiêng liêng của Tứ vị Thánh tổ đem đến cho họ
những giá trị tâm linh, đồng thời thôi thúc họ tiếp tục đến các ngôi chùa thờ Tứ vị
Thánh tổ để lễ bái và thực hành tín ngưỡng.
Xét về tiêu chí giới và độ tuổi cho kết quả những chứng nghiệm cá nhân về
sự linh thiêng của Tứ vị Thánh tổ:
Đới với tiêu chí giới, kết quả khảo sát cho biết nữ giới thường có những trải
nghiệm cá nhân về sự linh thiêng nhiều hơn nam giới, cụ thể:
Bảng 3.4: So sánh tỷ lệ giới chứng nghiệm sự linh thiêng của Tứ vị Thánh tổ
Đơn vị tính: %
Chứng nghiệm Không chứng nghiệm TỨ VỊ THÁNH TỔ
Số
phiếu Nam Nữ Nam Nữ
Từ Đạo Hạnh 102 9,8 29,4 13,7 17,7
Dương Không Lộ 132 10,6 41,6 14,4 11,4
Nguyễn Giác Hải 115 15,7 34,7 12,2 14,7
Nguyễn Minh Không 108 7,4 21,3 11,1 29,6
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
Với kết quả trên, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ có sức hút đối với nữ giới nhiều
hơn nam giới. Tại sao lại như vậy, xét về khía cạnh tâm lý, người nam luôn được
75
coi là phái mạnh, phần lớn người nam sống thiên về lý trí, họ khô khan về mặt tình
cảm nên trong đời sống tín ngưỡng của họ cũng khô khan, nghèo nàn, không phong
phú như người nữ. Họ luôn quan tâm tới cuộc sống và xã hội hiện thực nhưng lại ít
quan tâm tới đời sống tâm linh. Bản chất của người nam luôn mạnh mẽ, ở họ ít xuất
hiện những tâm lý sợ hãi, lo âu, tuyệt vọng, cô đơn, bất hạnh và nếu có thì họ luôn dễ
dàng vượt qua hơn người nữ, sự vượt qua đó dựa vào lý trí mạnh mẽ của chính bản
thân họ, ít dựa vào yếu tố tâm linh và ít tin vào sự trợ giúp nâng đỡ của thế lực siêu
nhiên hơn người nữ.
Còn với nữ giới, họ luôn được coi là phái yếu, dịu dàng, dễ tin tưởng, sống
hướng nội, thiên về lối sống nội tâm tình cảm, vì thế đời sống tinh thần của họ luôn
phong phú hơn người nam. Mặt khác, người nữ luôn có cảm giác lệ thuộc, họ
thường có tâm lý sợ hãi, lo âu, tuyệt vọng, cô đơn, bất hạnh, chính những tâm lý
yếu đuối đó dẫn đến sự tự ý thức về lực lượng siêu nhiên thần thánh "sự sợ hãi tạo
nên thần linh". Họ sùng bái thần thánh, tin tưởng vào Thánh bởi với họ Tứ vị Thánh
tổ chính là chỗ dựa về mặt tinh thần, điều này lý giải tại sao họ lại chứng nghiệm sự
linh thiêng của Tứ vị Thánh tổ nhiều hơn nam giới.
Bảng 3.5: So sánh tỷ lệ độ tuổi chứng nghiệm sự linh thiêng của Tứ vị Thánh tổ
Đơn vị tính: %
Chứng nghiệm Không chứng nghiệm
TỨ VỊ
THÁNH TỔ
Số
phiếu Dưới
25
Tuổi
25-
35
Tuổi
36-
45
Tuổi
46-55
Tuổi
Trên
55
Tuổi
Dưới
25
Tuổi
25-
35
Tuổi
36-45
Tuổi
46-
55
Tuổi
Trên
55
Tuổi
Từ Đạo Hạnh 102 0,0 2,0 9,8 14,7 12,7 2,9 5,9 12,8 5,9 3,9
Dương Không Lộ 132 3,8 8,3 7,6 14,4 18,2 2,3 4,5 9,1 4,6 5,3
Nguyễn Giác Hải 115 0,0 1,8 7,8 8,7 32,1 0,8 1,8 3,5 4,3 16,5
Nguyễn M. Không 108 1,9 2,8 5,6 9,2 9,2 1,9 7,4 13,9 9,2 8,3
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
Đối với tiêu chí về độ tuổi, kết quả nghiên cứu cho biết: Có hai nhóm độ tuổi
từ 46-55 tuổi và nhóm tuổi từ 55 trở lên có những chứng nghiệm cá nhân về sự linh
thiêng của Tứ vị Thánh tổ nhiều hơn những nhóm tuổi khác. Ở độ tuổi càng cao, họ
càng có những trải nghiệm cá nhân về sự linh thiêng, bởi ở độ tuổi này là những
người đã trưởng thành, họ là chủ lực của gia đình và của xã hội, chịu áp lực lớn từ
nhiều phía, gánh vác nhiều vai trò quan trọng trong xã hội. Đồng thời cũng đã trải
qua những biến đổi thăng trầm của cuộc sống nên ở họ luôn có nhu cầu và cần sự
trợ giúp của các vị Thánh, Thần, trong đó có Tứ vị Thánh tổ. Mặt khác họ đã có
thời gian để chiêm nghiệm những điều diễn ra trong cuộc sống, vì thế họ càng dễ
dàng tin tưởng hơn vào thế giới thiêng.
76
Ngoài đặt câu hỏi trong phiếu khảo sát để xác định người dân có hay không có
những trải nghiệm cá nhân về sự linh thiêng của Thánh và những chứng nghiệm ở đời
sống thực tại, NCS tiến hành phỏng vấn sâu theo bảng hỏi bán cấu trúc với một số
người dân khi họ đến các cơ sở thờ tự thể hiện niềm tin và thực hành tín ngưỡng, để
biết họ thực sự đã có những chứng nghiệm cá nhân về sự linh thiêng của Thánh và sự
chứng nghiệm đó cụ thể như thế nào. Chứng nghiệm sự linh thiêng của Tứ vị Thánh tổ
đối với mỗi cá nhân chính là luận cứ vững chắc nhất để khi họ liên hệ với những sự
kiện diễn ra trong thực tiễn cuộc sống mà theo họ phải có sự tác động của Thánh thì
mới thành hiện thực. Những chứng nghiệm này tiếp tục củng cố niềm tin của họ đối
với Tứ vị Thánh tổ và khi đó cảm giác về đối tượng thờ phụng rất chân thực và niềm
tin vào Tứ vị Thánh tổ càng được củng cố vững chắc hơn (Xem phụ lục số 7).
Tại Chùa Thầy (Hà Nội), Chị Trần Thị V, 60 tuổi, bán hàng khu vực chùa
Thầy cho biết: chị tin rằng, việc thường xuyên đến chùa cầu Thánh gia độ đã giúp
chị và gia đình luôn khoẻ mạnh:
Tôi vào chùa lễ Thánh thường xuyên, Thánh ở đây tu ở ba kiếp nên linh
thiêng lắm cô ạ, lần nào lễ tôi cũng cầu Thánh độ cho gia đình tôi mạnh
khoẻ và cũng nhờ Thánh ban cho gia đình tôi sức khoẻ mà vợ chồng tôi
từ lâu rồi chẳng ai ốm đau gì sất, các con tôi cũng thế, giờ chúng nó lớn
cả rồi, chẳng đứa nào phải vào viện bao giờ, chẳng mấy khi mất viên
thuốc nào sất cô ạ [Phụ lục 7, BBPV số 5].
Chị Nguyễn Thị L hướng dẫn viên ở chùa Thầy thì cho rằng:
Đức Thánh Từ linh thiêng lắm, người dân Sài Sơn vẫn truyền nhau câu thơ:
Đến Chùa thắp một tuần hương
Để cho Ngài độ lên đường gặp may
Linh thiêng là đất chùa Thầy
Khi về hưởng lộc biết ngày nào quên.
Còn với bản thân gia đình chị, chị thấy cũng gặp nhiều may mắn, trước
đây chị hay ốm vặt, người lúc nào cũng quặt kẹo em ạ, từ khi chị vào
làm hướng dẫn viên ở đây chị khoẻ hẳn không còn như trước, hai thằng
con giai nhà chị cũng khoẻ mạnh, các cháu đều học giỏi cả, một cháu đã
ra trường có việc làm ổn định rồi, nhà chị được ăn lộc ở cửa Thánh mới
được như thế đấy em ạ [Phụ lục 7, BBPV số 6].
Có người lại cho rằng những gì họ có hôm nay là do sự phù hộ của Thánh
Năm tôi 28 tuổi, bị chửa ngoài dạ con, thủng và vỡ chẩy không biết cơ
man nào là máu, dân làng đều tin là chết vì bệnh nặng quá, nhưng nếu
Phật, Thánh không độ và không nhờ phúc đức gia đình thì tôi đã chết
rồi, vì năm đó thiếu thốn lắm không có tiền đi bệnh viện lớn mà mổ ở
77
ngay bệnh viện huyện, chỗ chợ đấy, lúc nào tôi cũng nhất tâm và được
Phật, Thánh phù hộ, cho đến bây giờ khoẻ mạnh, cứ dắt xe đạp ra ngoài
nhà để đi đâu đó tôi đều niệm Phật, Thánh vì Phật, Thánh độ cho tôi mới
sống được đến bây giờ, tôi có hai cháu trai và một cháu gái các cháu
cũng thành đạt. Tôi rất tin vào sự linh thiêng của Thánh, tôi không bao
giờ đi xem bói, tôi gặp khó khăn gì trong cuộc sống thì đều đến cửa
Thánh để xin ngài độ cho [Phụ lục 7, BBPV số 7].
Có người cho rằng, Thánh Dương Không Lộ ở chùa Keo (Thái Bình) rất linh
thiêng và họ đã được trải nghiệm sự linh thiêng của Thánh thông qua việc cầu tự.
Trong đợt điền dã, năm 2018, một gia đình gồm bà mẹ và anh con trai đang lễ ở
Điện Thánh, khi hai người lễ xong, được bà mẹ cho biết, hai mẹ con bà ở Hải
Phòng, đến Điện Thánh để tạ lễ và bà kể lại câu chuyện như sau:
Năm 2015, tôi nghe có người mách muốn có con trai thì đến chùa Keo
Thái Bình, chùa đó có vị Thánh thiêng lắm, cầu gì được nấy, rất nhiều
người muốn có con trai đều đến đây cầu, Thánh thiêng lắm. Vào tầm tháng
11 tôi đưa hai vợ chồng "nó" chỉ vào anh con trai bà nói tiếp, đến chùa lễ
Phật cầu bình an cho gia đình, đến lễ Thánh cầu con giai cho vợ chồng nó,
rồi cuối năm đó chúng nó lại đến lễ Thánh thêm một lần nữa để xin Ngài
ban lộc cho gia đình có thêm cậu con giai vì vợ chồng nó có hai cô con gái
rồi, đến năm 2017 cháu có bầu và đã sinh được thằng cu đến nay tròn ba
tháng rồi, nên tôi và chồng cháu đến đây để tạ lễ nhà Ngài [Phụ lục 7,
BBPV số 8].
Cô thường đến chùa ăn mày lộc Phật, lộc Thánh, trước đây cô có hai
đứa con gái, cô đi đâu xem bói mười người thì đến chín người đều bảo
cô chỉ có con một bề, cô nghe nói đến chùa cầu xin là có con trai, cô về
chùa và tự cô cầu xin Thánh phù hộ cho cô có một người con trai, về cô
được ăn lộc Thánh cô đã sinh được con trai năm nay em ấy 33 tuổi rồi,
từ đấy năm nào cô cũng về để lễ Phật, lễ Thánh, tạ ơn các ngài đã ban
lộc cho cô [Phụ lục 7, BBPV số 9].
Tại chùa Keo (Thái Bình), Ông Nguyễn Văn Kh năm nay đã 73 tuổi, Trưởng
ban Khánh tiết cho biết trải nghiệm cá nhân về sự linh thiêng của Thánh Dương
Không Lộ:
Ngày trước, thời còn trẻ, bác làm nghề chài ở sông, thường đậu thuyền ở
bến Thái Hạc, bến này nhiều vong lắm cháu ạ vì nơi đó quân Pháp xử
bắn du kích với cán bộ hoạt động cách mạng của ta. Một hôm vào
khoảng 9h tối, trời tối lắm, ngày ấy dầu thắp còn chẳng có chứ làm gì có
điện sáng như bây giờ, bác nằm trên thuyền mơ màng vì bị bóng đè,
78
toàn người chết đã bị chặt đầu không toàn thây thôi, đầu tiên bác tưởng
mình mơ, sau nhiều đêm vẫn bị như thế, Bác nghe người ta mách sang
Đền Quan ở thị xã xin một "tờ khoán" để khi đi ngủ trùm lên mặt thì sẽ
không có vong, ma nào đè được nữa, bác làm theo nhưng không hiệu
nghiệm, chẳng đi đâu xa, bác về chùa làng là chùa Keo Thái Bình đây
này, xin khoán của Đức Thánh Tổ, thế mà nghiệm cháu ạ, từ đấy bác
không bị vong đè nữa".
Ngày còn nhỏ bác cũng nghe ông cụ nhà bác kể lại Đức Thánh Tổ linh
thiêng vô cùng, trước có một ông trong làng không biết sợ là gì, giờ
người ta bảo là không "Tín" ấy, năm ấy vào hội, làng họp để bàn bạc
ông ấy cũng tham gia, đến trước điện Thánh có hai Ông Ngựa, ông ta to
gan vỗ lên lưng ông ngựa và bảo con ngựa này to thật, nếu mà làm thịt
thì có mà đãi cả làng, thế rồi về ông ta bị ốm đấy, ốm nặng lắm nhưng
không biết là bệnh gì, chạy chữa đều không khỏi, nghe người làng, gia
đình ông ta sắm lễ lên để xin Thánh cho khỏi bệnh thế là ông ta khỏi.
Thánh thiêng lắm, cầu gì được nấy cháu ạ, mới đây cũng có chị ở mãi
ngoài Quảng Ninh trước về cầu tự, cầu con giai đấy, giờ về tạ lễ, chị ấy bảo
cháu đã được 8 tuổi rồi nhưng năm nào chị ấy cũng thu xếp về để tạ lễ nhà
ngài [Phụ lục 7, BBPV số 4].
Với những minh chứng ở trên, dường như trong ý niệm của người dân luôn
có sẵn một niềm tin vào sự thiêng liêng của các vị Thánh được thờ phụng. Họ
không có lý do để hoài nghi, theo họ đã được nâng lên bậc Thánh và được kính
ngưỡng, thờ phụng chắc chắn luôn mang tính "Thiêng" vì thế trong dân gian có câu:
"Chẳng thiêng ai gọi là Thần/Lối ngang đường tắt chẳng gần ai đi". Thông qua
những câu chuyện linh thiêng về Tứ vị Thánh tổ được lưu truyền trong dân gian,
những câu chuyện về sự trợ giúp của các Thánh đối với người dân và được chính họ
kể lại bởi những trải nghiệm của bản thân làm cho tính chất "Thiêng" của Tứ vị
Thánh tổ sẽ luôn được bảo tồn và giúp thu hút thêm nhiều người đến tham gia bày
tỏ niềm tin và thực hành tín ngưỡng.
3.1.3. Niềm tin biểu hiện qua thực hành
3.1.3.1. Tần suất đi lễ
Trong nội dung này đánh giá niềm tin của người dân biểu hiện thông qua tần
suất đi lễ với các mức độ thường xuyên, thỉnh thoảng, ít khi, lần đầu tiên. Thang đo
này cho phép đánh giá tính quy luật của người thực hành tín ngưỡng và chính tần
suất đi lễ Thánh của người dân sẽ phản ánh mức độ niềm tin và nhận thức về Thánh.
Đa số những người đi lễ Thánh lần đầu tiên đều trả lời không biết ngôi chùa thờ
Thánh nào và không biết về những công trạng của vị Thánh được thờ phụng. Với
79
những người ít khi đi lễ Thánh, đôi khi trong số họ mặc dù biết vị Thánh đang thờ
tại cơ sở thờ tự là ai, nhưng lại không biết về hành trạng hoặc công trạng của vị
Thánh đó. Với những người cho biết họ đi lễ chùa thường xuyên chứng tỏ họ rất coi
trọng việc đi lễ, đồng thời những người này phần lớn đều nắm rõ về hành trạng và
công trạng của các Thánh đối với triều đình và nhân dân. Họ thường xuyên đến
chùa lễ Thánh vào các ngày lễ trọng trong năm như ngày huý, kỵ Thánh, ngày diễn
ra lễ hội tôn vinh và tưởng nhớ công đức của Thánh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong tổng số 457 phiếu khảo sát, có: 40,9%
người trả lời cho biết họ thường xuyên đi lễ Thánh, 33,9% người trả lời cho biết họ
thỉnh thoảng đi lễ Thánh, 16,4% người trả lời cho biết họ ít khi đi lễ và 8,8% người trả
lời cho biết họ lần đầu tiên đến cơ sở thờ tự để lễ Thánh, đây là chỉ số chung còn ở mỗi
cơ sở thờ tự, tần xuất đi lễ Thánh lại có những sự khác biệt ở từng cơ sở thờ tự như sau:
Bảng 3.6: Tần xuất đi lễ Thánh của người dân
Đơn vị tính: %
TẦN SUẤT THỰC HÀNH
TỨ VỊ THÁNH TỔ Số
phiếu Thường
xuyên
Thỉnh
thoảng Ít khi
Lần
đầu tiên
Từ Đạo Hạnh 102 30,4 48,0 11,8 9,8
Dương Không Lộ 132 54,5 22,8 12,1 10,6
Nguyễn Giác Hải 115 44,3 29,6 17,4 8,7
Nguyễn Minh Không 108 30,5 38,9 25,0 5,6
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
3.1.3.2. Lý do đi lễ
Niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ còn được biểu hiện ở lý do đi lễ Thánh. Kết quả
khảo sát cho thấy, niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ chịu ảnh hưởng của những nhu cầu ở
cuộc sống trần thế, dường như người dân đi lễ Thánh vì kết quả mà họ nhận được qua
sự thành tâm, trong đó tỷ lệ đi lễ Thánh vì Thánh linh thiêng là 30,0%; vì cảm thấy
được sự bình an che chở của Thánh: 47,0%; vì thấy sức khoẻ tốt hơn: 23,0%; vì thấy
làm ăn thuận lợi: 8,5%; vì theo truyền thống: 17,7%. Với những kết quả khảo sát trên
cho thấy việc tham gia thờ cúng Tứ vị Thánh tổ giải quyết khía cạnh tâm linh mà họ
luôn tin tưởng vào sự linh thiêng và sự chở che của các Thánh đối với họ ở cuộc sống
hiện tại.
3.2. THỰC HÀNH NGHI LỄ ĐỐI VỚI TỨ VỊ THÁNH TỔ
Thực hành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ được biểu hiện qua nghi lễ trong năm
và biểu hiện qua lễ hội ở các ngôi chùa thờ Thánh của cộng đồng và của mỗi cá
nhân người đi lễ. Nghi lễ đối với Tứ vị Thánh tổ chính là phương tiện chuyển
hoá tâm linh, phương thức để biểu đạt niềm tin. Các thực hành tín ngưỡng nhằm
80
xác lập mối liên hệ giữa thế giới hiện tại và thế giới thiêng. Các nghi lễ đối với
Tứ vị Thánh tổ được diễn ra quy củ, trang nghiêm nhằm tưởng nhớ và biểu dương
công trạng của những vị thiền sư Phật giáo đồng thời cũng là những vị Thánh của Tín
ngưỡng dân gian.
3.2.1. Thực hành nghi lễ của cộng đồng
Thực hành nghi lễ của cộng đồng thông qua lễ hội truyền thống chính là một
trong ba lõi cấu trúc để hình thành nên tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, đây là yếu tố
không thể thiếu để biểu hiện niềm tin của người dân, của cộng đồng vào các vị
Thánh đồng thời là phương thức để cộng đồng liên hệ với đấng thiêng, đấng bảo trợ
của cộng đồng.
Lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là sinh hoạt văn hoá của cộng đồng, chứa
đựng những tâm tình cộng cảm diễn ra xung quanh các nhân vật lịch sử Phật giáo
đã được huyền thoại hoá. Sinh hoạt tín ngưỡng này chính là sự kết hợp của niềm tin
và thực hành, được tái hiện sinh động qua các nghi lễ như Mộc dục, lễ Tế, lễ
Rước,… là cầu nối giữa thế giới tục và thế giới thiêng, diễn ra trong sự trang
nghiêm, cẩn trọng thể hiện lòng thành kính của cộng đồng đối với Thánh. Đồng thời
phản ánh nét sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng của cư dân nông nghiệp vùng đồng
bằng sông Hồng, thông qua nghi lễ là sự cầu mong Thánh phù hộ, che chở cho cuộc
sống của nhân dân được an khang, thịnh vượng.
Trong luận án NCS trình bày những thực hành tín ngưỡng đặc sắc của cộng
đồng được lựa chọn ở lễ hội của một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ tiêu biểu:
3.2.1.1. Lễ Tế
Đây là nghi lễ trang trọng được diễn ra trong không khí trang nghiêm, thành
kính với niềm tin tưởng sâu sắc vào các vị Thánh. Tế là nghi lễ chính, có mặt trong
tất cả các lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Ở một số ngôi chùa như chùa Láng (Hà
Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Tây Lạc, chùa Nghĩa Xá, chùa Cổ Lễ (Nam
Định),… không chỉ có đội tế Nam quan mà còn có đội tế Nữ quan tham gia nghi lễ
Tế Thánh. So sánh nghi lễ Tế Thánh ở một số lễ hội cho thấy về cơ bản có nhiều nét
tương đồng, luận án minh họa bằng nghi lễ Tế Thánh Từ Đạo Hạnh ở lễ hội chùa
Thầy (Hà Nội) trong lần điền dã năm 2017 để làm rõ hơn thực hành tín ngưỡng Tứ
vị Thánh tổ của cộng đồng thông qua nghi lễ này.
Lễ Tế Thánh ở chùa Thầy được diễn ra từ 8h30’ sáng ngày 5/3 và kết thúc vào
10h30’, do Ban Tế Nam quan của thôn Đa Phúc thực hiện (nếu năm nay thực hiện nghi
lễ tế Thánh Từ thuộc về Ban tế của thôn Đa Phúc thì năm sau nghi lễ tế Thánh sẽ thuộc
về Ban tế của thôn Thụy Khê và chỉ có hai thôn thay nhau thực hành nghi lễ).
Thành phần Ban Tế có 16 người, là những cụ ông từ 60 đến 70 tuổi, khoẻ
mạnh, minh mẫn, là những người đại diện cho dân làng làm việc Thánh nên được
81
lựa chọn rất kỹ lưỡng, đó là những người có uy tín trong cộng đồng, sống đức độ,
gia đình song toàn, còn cả đôi ông bà, thê vinh, tử vượng, gia đình không có bụi (có
tang), luôn được công nhận gia đình văn hoá, chấp hành tốt pháp luật, phải thực
hiện chay tuần nhiều ngày trước khi nghi lễ diễn ra.
Lễ phục: Ban Tế đội mũ tế kiểu phốc đầu, mặc áo thụng xanh, quần trắng, đi
hia. Riêng vị Chủ tế trước ngực áo có một hình vuông màu đỏ, ánh vàng, thêu hai
con rồng ở hai bên, chính giữa đính viên đá màu xanh, đầu đội mũ màu đỏ. Hai ông
Đông xướng và Tây xướng mặc áo thụng màu đỏ, đầu đội mũ tế màu xanh có hai
dải lụa dài chạy xuống gần ngang lưng.
Nhạc tế bao gồm: Trống cái, trống con, thanh la, kèn, nhị, sáo. Trong mỗi
chầu tế, nhạc tế cất lên nhằm phụ hoạ cho ông chủ tế theo một quy ước thống nhất,
đồng thời tăng sự linh thiêng cho lễ Tế.
Tiến trình của lễ Tế bao gồm: Lễ Cáo yết và Lễ Chính tế
Lễ Cáo yết: đúng 8h30’ lễ cáo yết diễn ra, đây là lễ trình Thánh về việc dân
làng sẽ tổ chức lễ Tế. Lễ Cáo yết được thực hiện ở chùa Trung, ông Chủ lễ quỳ
trước ban thờ Phật, đảnh bốn lễ, đứng sau Chủ lễ là thành phần của Ban Tế trong
trang phục chỉnh tề, hai tay chắp lễ, lễ vật được đặt trên một chiếc mâm, gồm hoa
quả táo, xoài và một số hộp bánh, kẹo. Sau một tuần nhang, ông Chủ tế tuyên sớ,
nội dung nhằm xin phép Thánh cho dân làng được thực hiện nghi lễ, sau đó sớ sẽ
được đem đi hoá. Dàn nhạc tế dàn hàng đứng ở hai bên, mỗi khi ông Chủ tế làm lễ
nhạc lại trỗi dậy tăng thêm sự long trọng và thiêng liêng cho buổi lễ.
Lễ Chính tế: Được tiến hành ở gian ngoài cùng của chùa Phật, trước Điện
Thánh. Đội tế đứng thành hai hàng cách nhau một chiếu lễ, hướng mặt vào Điện
Thánh, khi ba hồi trống tế vang lên ông Đông xướng hô "Khởi chính cổ" hai ông chấp
sự đi vào giá chiêng, giá trống, mỗi người đánh ba hồi. Tiếp đến ông Đông xướng lại
hô "Nhạc sinh tựu vị", lập tức phường bát âm đồng loạt nổi nhạc. Lễ Tế bắt đầu.
Lễ Chính tế gồm có năm tuần, đầu tiên là tuần dâng hương, ông Chủ tế thực
hiện theo tiếng hô của ông Đông xướng có nhịp gõ của đôi trống khẩu làm hiệu
lệnh, một ông chấp sự đưa một tuần hương đến trước ông Chủ tế, ông Chủ tế cầm
tuần hương vái một lạy rồi đưa lại cho ông Chấp sự dâng lên hương án trên Điện
Thánh. Tuần thứ hai dâng hoa, tuần thứ ba dâng tửu, tuần thứ tư dâng trà, tuần thứ
năm dâng lễ quả, cuối cùng là tuyên chúc văn. Tất cả các tuần lễ nghi thức đều
giống như tuần dâng hương, đều do ông Đông xướng và Tây xướng điều hành.
Sau năm tuần dâng lễ, người Bồi tế mang rượu cúng từ trong Điện Thánh đi
ra trao cho ông Chủ tế, ông Chủ tế bưng chén rượu lạy một lạy rồi che miệng uống
hết chén rượu do Thánh ban, sau đó phủ phục hai lạy với mục đích tạ ơn Thánh.
Tiếp theo, ông Chủ tế và Bồi tế cùng tạ lễ bốn lạy, người đọc chúc đem bản chúc
82
văn hoá sau đó đứng trước hương án lạy hai lạy rồi lui lại phía sau, lúc này ông
Đông xướng xướng câu "lễ tất", Ban Tế xếp thành hai hàng trang nghiêm trước
Điện Thánh phủ phục lạy bốn lạy để kết thúc lễ Tế.
Tất cả các động tác của nghi lễ được diễn ra trong sự kính cẩn và trang
nghiêm thể hiện tấm lòng thành kính trước Thánh.
3.2.1.2. Lễ Mộc dục
Đây là một nghi lễ quan trọng và được thực hành ở hầu hết các lễ hội,
thường được thể hiện ở trong cung cấm. Ngay từ thời Lý nghi lễ này đã diễn ra
trong lễ hội, lễ Mộc dục không chỉ dành riêng cho Phật mà với cả tượng và bài vị
các Thánh, Thần,… lễ Mộc dục dù đã bị Phật giáo hoá và Đạo giáo hoá vẫn hé mở
cho ta thấy cội nguồn xa xưa từ những lễ thức cầu mưa [Dẫn theo 17, tr.23].
Lễ Mộc dục Tứ vị Thánh tổ được thực hiện trong cung cấm, người thực hiện
nghi lễ này được cộng đồng lựa chọn rất kỹ càng. Trước khi thực hiện nghi lễ Mộc
dục, bao giờ cũng là lễ dâng hương để xin Thánh cho phép được bao sái và thay áo
cho Thánh rồi mới tiến hành nghi lễ một cách trang nghiêm và thận trọng. Lễ Mộc
dục ở lễ hội chùa Keo Hành Thiện (Nam Định) diễn ra 3 năm một lần vào các năm
Tý, Ngọ, Mão, Dậu và nước để bao sái được sử dụng bằng nước dừa tươi, còn lễ Mộc
dục ở chùa Keo (Thái Bình) thường diễn ra trước lễ hội, khoảng từ ngày 20/8 (AL)
dân làng đã làm lễ Mộc dục và y phục cho Thánh Dương Không Lộ, nguyên liệu
được sử dụng là ngũ vị và dầu hạt bưởi và cũng được thực hiện 3 năm một lần bởi vì
sau nghi lễ Mộc dục tượng Thánh lại được "phấn diện" lại đó là vẽ lại toàn bộ khuôn
mặt của tượng. Còn ở nhiều ngôi chùa khác như chùa Tây Lạc, chùa Đại Bi, chùa Cổ
Lễ (Nam Định), chùa Thầy (Hà Nội) nghi lễ Mộc dục được thực hiện hàng năm trong
ngày đầu tiên của chính hội, thường diễn ra một cách bí mật chỉ có nhà sư và vài ba
vị cao niên trong làng được phép thực hành nghi lễ, duy ở chùa Thầy (Hà Nội), nghi
lễ Mộc dục có nhiều người tham dự hơn cả. Dưới đây là thực hành nghi lễ Mộc dục
Thánh Từ Đạo Hạnh của cộng đồng ở chùa Thày (Hà Nội) qua lần điền dãtại lễ hội
năm 2017:
Lễ Mộc dục Thánh Từ được thực hiện vào chính ngọ ngày 5/3 (AL). Đúng
12h các cánh cửa ở Điện Thánh được đóng kín lại để thực hiện nghi lễ. Thời điểm
này chỉ những người có trách nhiệm mới được vào bên trong Điện Thánh. Rất đông
tín đồ, phật tử, dân làng và khách thập phương ở bên ngoài, vây kính xung quanh
Điện Thánh đọc chú Đại bi hoặc khấn vái trong suốt quá trình thực hiện nghi lễ, cho
thấy tính tôn giáo trong khi thực hành nghi lễ đối với Thánh Từ Đạo Hạnh.
Thực hiện nghi lễ Mộc dục cho Thánh có một nhà sư và 12 cụ cao niên trong
làng với trang phục áo the, khăn xếp, bịt khẩu bằng mảnh vải đỏ để tránh cho hơi thở
trần tục ảnh hưởng đến Thánh mà mang tội bất kính. Trực tiếp thực hiện là sư trụ trì
83
chùa Long Đẩu và hai cụ cao niên của thôn Đa Phúc (cũng giống như lễ Tế, chỉ có
hai thôn Đa Phúc và Thuỵ Khuê được thực hiện nghi lễ Mộc dục cho Thánh Từ nếu
năm nay là Đa Phúc thì năm sau sẽ là Thuỵ Khuê). Tiêu chí lựa chọn các cụ cao niên
phải là những người có đạo đức, minh mẫn, được nhân dân tín nhiệm, kính trọng, gia
đình hạnh phúc, còn cả đôi ông bà, con cháu đề huề, chấp hành tốt pháp luật và các
quy định của làng xã. Trước khi diễn ra lễ Mộc dục các cụ phải ăn chay để thân tâm
thanh tịnh. Ngoài ra tham dự trong nghi lễ còn có đại diện Ban Quản lý di tích, lãnh
đạo Ủy ban nhân dân (UBND) xã Sài Sơn và một số phật tử, người dân địa phương.
Trước khi thực hành nghi lễ, nhà sư thắp hương dâng lễ, đọc một bài kinh, ông chủ lễ
mặc áo xanh, đầu đội mũ và các thành viên quỳ xuống trước hương án, lạy bốn lạy
xin phép Thánh cho dân làng được thực hiện nghi lễ, cho thấy sự tiếp biến của nghi lễ
Phật giáo và nghi lễ của tín ngưỡng dân gian.
Bên ngoài sân chùa, tiếng trống, tiếng chiêng khua vang dồn dập, nhưng
không khí bên trong Điện Thánh trang nghiêm và vô cùng linh thiêng, chỉ có khói
hương nghi ngút và tiếng đọc kinh rì rầm vang lên. Sau nghi lễ xin phép, cửa cung
cấm được hé mở vừa đủ cho nhà sư và hai cụ cao niên vào trong trực tiếp thực hiện
nghi lễ Mộc dục và thay y phục cho Thánh, sau đó cửa cung cấm được đóng kín lại, chỉ
có ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn hắt ra từ những khe hở rất nhỏ. Cùng lúc, ở bên ngoài
khám thờ, bốn cụ cao niên khác cũng trực tiếp thực hiện nghi lễ Mộc dục, thay y phục
cho bài vị của Thánh Từ. Y phục thay cho bài vị màu vàng, do dân làng và khách thập
phương cung tiến.
Tượng Thánh và bài vị được tắm bằng nước ngũ vị, nấu bằng năm loại lá
thơm hái trên núi Sài do các vãi và dân làng chuẩn bị từ sáng. Như sư và các vị cao
niên dùng khăn vải sạch nhúng vào nước, lau chùi nhẹ nhàng trên tượng, mọi hoạt
động diễn ra từ tốn, tỉ mỉ, cẩn thận, trang nghiêm và thành kính.
Lễ Mộc dục diễn ra trong khoảng thời gian một giờ, đến 13h, cửa cung cấm
được mở trở lại để nhà sư và hai vị cao niên ở bên trong khám đã hoàn thành xong
nghi lễ bước ra bên ngoài, lúc này cửa khám vẫn được hé mở trong chút ít thời gian
để cho mọi người tham dự nghi lễ đi xung quanh cung cấm chiêm ngưỡng dung
nhan đức Thánh Từ, sau đó cửa cung cấm được đóng kín lại quanh năm và chỉ mở
trở lại trong lễ Mộc dục của năm sau.
Nước Thánh (nước có được sau mỗi lần giặt khăn bao sái tượng và bài vị của
Thánh) các cụ cao niên nhúng tay xoa lên mặt nhằm lấy "khước", lấy "lộc" của
Thánh ban cho được mạnh khoẻ và an lành, số nước thánh còn lại được đưa về cho
các thôn để chia cho dân làng. Y phục cũ của Thánh cũng được cắt thành các miếng
vải nhỏ bằng khoảng ba ngón tay bỏ trong một chiếc túi nhỏ mầu đỏ, màu vàng đẹp
mắt phát cho dân làng, phật tử để làm bùa may mắn, thông thường người ta hay đeo
84
lên cổ những đứa trẻ để tránh bệnh tật, tà ma và hay ăn chóng lớn. Đây cũng là
"lộc" của Thánh Từ ban cho dân làng.
Lễ Mộc dục kết thúc khi ông Chủ tế kính cẩn tế lạy, đồng thời xin phép để
thực hiện lễ rước bài vị của Thánh từ Điện Thánh xuống chùa Trung để Thánh được
tận mắt chứng kiến các nghi lễ rước, cúng và các trò diễn trong sân chùa suốt ba
ngày hội.
3.2.1.3. Lễ Rước (Lễ Phụng nghinh)
Đây là một trong những nghi lễ được mong đợi nhất trong lễ hội ở các ngôi
chùa thờ Tứ vị Thánh tổ. Lễ Rước là hình ảnh biểu trưng của sức mạnh cộng đồng,
đồng thời thể hiện sự tôn kính của cộng đồng đối với vị Thánh mà họ tôn thờ. Theo
GS Ngô Đức Thịnh "rước chính là một nghi lễ thường có ở lễ hội, nhất là vào dịp
chính hội, thể hiện sự nghênh tiếp thần linh, phô diễn sức mạnh cộng đồng". Lễ
Rước trong lễ hội ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ được thực hiện quy mô,
hoàng tráng, thu hút không chỉ nhân dân địa phương mà còn thu hút đông đảo khách
thập phương đến tham dự. Lễ Rước Thánh ở chùa Keo Hành Thiện, chùa Đại Bi,
chùa Cổ Lễ (Nam Định) được thực hiện hàng năm, còn lễ Rước Thánh ở chùa Thầy
(Hà Nội) được tổ chức năm năm một lần, ở chùa Keo (Thái Bình), chùa Nghĩa Xá
(Nam Định) là ba năm một lần, ở nhiều ngôi chùa khác thờ Tứ vị Thánh Tổ nghi lễ
này không còn diễn ra như chùa Láng, chùa Lý Quốc sư (Hà Nội).
Trong quá trình điền dã, quan sát các lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số
ngôi chùa như chùa Thầy (Hà Nội), Keo Hành Thiện, chùa Nghĩa Xá, chùa Tây Lạc,
chùa Đại Bi (Nam Định),…, NCS nhận thấy, lễ Rước Thánh ở chùa Keo (Thái Bình) là
một nghi lễ lớn, quy mô và hoàng tráng vào loại bậc nhất không chỉ trong các lễ hội tín
ngưỡng Tứ vị Thánh tổ mà còn là lễ Rước lớn của vùng đồng bằng sông Hồng với sự
tham gia của người dân địa phương và của những cư dân đến từ tỉnh, thành phố khác ở
vùng đồng bằng sông Hồng. Luận án giới thiệu chi tiết về lễ Rước hay còn gọi là lễ
Phụng nghinh ở chùa Keo (Thái Bình) trong mùa lễ hội năm 2016 để minh chứng.
Chùa Keo (Thái Bình) trong hai ngày 13 và 14/9 (AL) đều tổ chức lễ Rước
Thánh, tuy nhiên ngày 13/9 (AL) là ngày bách nhật nghĩa là 100 ngày sau khi sư
Không Lộ viên tịch, nên đây là ngày buồn nên lễ Rước mặc dù vẫn đầy đủ các kiệu
như nhang án, long đình, thuyền rồng và tiểu đĩnh nhưng không đình đám như lễ
rước được tổ chức vào ngày 14/9 (AL), bởi đây là ngày sinh của Thánh Không Lộ,
là ngày vui nên nhà chùa và dân làng tổ chức lễ Rước lớn, đông, vui nhất trong lễ
hội, đây cũng là nghi lễ được mong chờ nhất trong lễ hội. Lễ Rước từ Hậu Cung ra
đến Nghi Môn, nét đặc trưng của nghi lễ diễn tả lại hành trạng của Thánh Dương
Không Lộ, biểu đạt và đề cao sự tôn kính, thể hiện sự trang nghiêm, long trọng
trong việc thờ Thánh của người dân làng Keo.
85
Ông Nguyễn Văn Khang, Trưởng ban Khánh tiết chùa Keo (Thái Bình) cho
biết, số lượng người tham gia trong đoàn rước gồm 475 người (xem BBPV số 4), họ
được lựa chọn cẩn thận ở những gia đình phúc hậu, thuận hoà, chấp hành tốt pháp
luật, gia đình không có bụi (có tang). Khi làng vào hội, các thành viên phải kiêng
không làm các công việc ô uế, giữ cho mình được thanh sạch, tinh khiết.
Ngay từ sáng sớm ngày 14/9 (AL), đoàn rước tập kết tại Đình làng xuất phát
đến Tam Quan Ngoại, 5 đội kiệu thực hiện kén nhận đất có nghĩa là trình với đức
Thánh về quân số đã đủ, nay xin vào rước đức Thánh, mỗi sấp quân đi hết một
đường đạo sau đó dẫn đội hình vào trình diện Thánh và phải đi một lượt cửa, từ
Tam Quan Nội rẽ vào phía tây, qua Điện Phật đến Gác Chuông nhập vào phía Đông
đến toà Giá Roi dàn đội hình xếp thành hàng để trình Thánh.
Đi đầu đoàn rước là cầu kiều; tiếp đến là song mã, chiêng, trống cái, cờ ngũ
hành, bát âm, chấp kích, tàn, tán, lọng, thuyền tiểu đĩnh, bát bửu, thuyền rồng, sinh
tiền, long đình, nhang án, tiếp đến là kiệu Thánh, đây là một cỗ kiệu bát cống lớn do
mười hai trai đinh mình trần, đóng khố, đầu đội mũ võ khiêm, đi sau kiệu Thánh để
hộ giá là ông Chủ hội và mười hai cụ bô lão mặc áo thụng xanh, đầu đội mũ tế, kết
thúc đoàn rước là các phật tử, người dân trong làng và du khách. Tổng chỉ huy đoàn
rước là hai ông Tổng cờ tiền và hậu, mặc áo thụng đỏ, thắt lưng màu xanh, tay cầm
trống hiệu.
Trên bờ hồ diễn ra đám rước Thánh, dưới hồ có 10 trẻ mục đồng đang bơi
thuyền cò cốc diễn lại thủa thiếu thời đức Thánh làm nghề chài lưới. Khi đoàn rước đi
đến góc hồ xuất hiện bốn người điều khiển hình người bằng gỗ đó là nhân vật Bà
Chàng đang giơ tay chào Thánh. Tương truyền rằng, khi xưa Bà Chàng theo Thánh lên
trời bán cá vì vui quá nên quên đường về, nên khi thấy Thánh thì vui mừng vẫy tay để
theo Thánh về trần gian. Đây là nghi thức không thể thiếu trong lễ hội chùa Keo.
Đám rước đi theo hình chữ Á, đúng giờ Ngọ ra đến Tam Quan Ngoại đoàn
dừng lại dàn đội hình theo thứ tự quy định. Buổi chiều khi rước Thánh trở vào lại đi
theo thứ tự như buổi sáng rước ra, tuy nhiên buổi sáng xuất Đông thì buổi chiều
nhập Tây, đi theo hướng ngược lại. Khi kiệu Thánh đến cửa đền thì rước vào trong
Thượng Điện sau đó tổ chức lễ tạ. Lễ Rước Thánh kết thúc trong không khí hân
hoan của cả người thực hiện nghi lễ và người tham dự.
3.2.1.4. Lễ Thánh đản
Nghi lễ Thánh đản chỉ xuất hiện trong lễ hội chùa Keo (Thái Bình) và chùa
Keo Hành Thiện (Nam Định). Ở hai ngôi chùa đều thực hiện nghi lễ này trước khi
tổ chức nghi lễ Rước, chùa Keo (Thái Bình) thực hiện nghi lễ Thánh đản vào 23 giờ
ngày 13/9 (AL), còn chùa Keo Hành Thiện (Nam Định) nghi lễ lại được thực hiện
vào 23 giờ ngày 14/9 (AL). Mục đích của nghi lễ ở cả hai ngôi chùa đều kỷ niệm
86
ngày sinh của Thánh Không Lộ và nhằm thỉnh Thánh. Việc thực hành nghi lễ
Thánh đản ở lễ hội chùa Keo Hành Thiện (Nam Định) trong đợt điền dã năm 2018
như sau:
Nghi lễ Thánh đản được thực hiện tại toà Đại Bái ở Điện Thánh. Thành phần
thực hiện nghi lễ gồm có: các ông Pháp sự (ông Pháp sự đệ nhất Nguyễn Văn
Thắng và bốn ông pháp sự đệ nhị, đệ tam, đệ tứ, đệ ngũ phụ tá), ông chủ hội,
phường bát âm và đông đảo người dân tham dự.
Lễ vật dâng Thánh trong nghi lễ này không chỉ có thanh bông, lễ quả, trầu cau
mà còn có xôi, gà, bia, nước ngọt, đặc biệt không thể thiếu lễ vật bánh dày, loại bánh
được giã từ những hạt gạo sau khi đã đồ thành xôi, người dân ở đây gọi đó là "bánh
dày xôi".
Trước khi diễn ra buổi lễ rất đông người dân dâng những mâm lễ vật của gia
đình lên Thánh, đồng thời bày tỏ với Thánh những mong muốn của họ ở cuộc sống
trần tục, nhằm cầu mong sự phù hộ độ trì của Thánh. Các cuộc lễ đó phải dừng lại
trước 23 giờ để bắt đầu cho nghi lễ Thánh đản.
Đúng 23 giờ ngày 14/9 (AL) nghi lễ Thánh đản bắt đầu, ông Pháp sự đệ nhất
Nguyễn Văn Thắng trong trang phục áo thụng đỏ, đội mũ thất phật mầu đỏ đứng
chắp hai tay trước hương án, ông chủ hội quỳ ở đằng sau và đông đảo bà con dân
làng chắp tay trước ngực. Trong tiếng nhạc dồn dập của phường bát âm, ông pháp
sự bắt đầu khấn "Nam mô Thánh Tổ Không Lộ đại pháp thiền sư, Nam mô Nam
thiên tam toà thánh tổ…. chứng minh công đức", sau đó ông chủ hội đứng lên quỳ
xuống lạy đủ bốn lạy rồi trở lại tư thế quỳ ban đầu. Ông Pháp sự bắt đầu đọc sớ tâu
trình đức Thánh những thành phần tham gia và vai trò của từng người trong lễ hội,
kết thúc ông Chủ hội lạy đủ ba lạy.
Tiếp đến ông Pháp sự đệ nhất ngồi xuống, cầm chiếc chuỳ gõ vào mõ và
chuông, ông và bốn ông pháp sự phụ tá cất giọng đọc ê a những câu kinh theo lối cổ
với giọng trầm bổng như đang hát trong tiếng nhạc của phường bát âm. Hết một
đoạn, ông pháp sự đệ nhất dừng lại rầm rì khấn vái hai tay kết ấn, các nghi thức cứ
như thế tiếp diễn mỗi lần khấn là một lần kết các ấn khác nhau.
Sau một giờ, nghi lễ Thánh đản kết thúc, tiếp đó là nghi lễ múa rối Ổi lỗi để
chầu Thánh. Múa rối Ổi lỗi vẫn còn diễn ra ở một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ
như chùa Đại Bi, chùa Cổ Lễ (Nam Định). Cuối cùng các cụ già đọc kệ chầu Thánh,
mọi việc được hoàn tất vào khoảng 2 giờ sáng ngày 15/9 (AL).
3.2.1.5. Trò diễn chầu Thánh
Trong lễ hội ngoài các nghi lễ không thể thiếu các trò diễn đặc sắc để chầu
Thánh, các trò diễn này liên quan đến các Thánh và chỉ có trong các lễ hội Tứ vị
Thánh Tổ như: múa ếch vồ ở chùa Keo (Thái Bình), múa rối ổi lỗi ở chùa Đại Bi,
87
chùa Keo Hành Thiện, chùa Cổ Lễ (Nam Định). Đây cũng có thể coi là những thực
hành tín ngưỡng bởi các trò diễn này chỉ diễn ra ở Điện Thánh.
Múa ếch vồ là điệu múa cổ không thể thiếu trong lễ hội chùa Keo (Thái
Bình) được diễn ra tại toà Giá Roi, điệu múa do mười hai chân kiệu chính mình trần
đóng khố biểu diễn để chầu Thánh. Các trai kiệu đứng vào các hàng chân cột hướng
mặt vào Điện Thánh, khi ông chấp hiệu đánh một tiếng trống, cả mười hai người để
hai bàn tay trước ngực và quỳ xuống, hai bàn tay chống xuống đất, hai đầu bàn chân
xoay chếch về hai phía, hai gót chân chụm lại. Khi tiếng trống hiệu vang lên cả
mười hai trai kiệu vung tay cho toàn thân bật dậy rồi lại trở về tư thế ban đầu, các
động tác được lặp đi lặp lại năm lần. Đây là điệu múa độc đáo chỉ có trong lễ hội
chùa Keo (Thái Bình), nhằm thể hiện tấm lòng thành kính của nhân dân làng Keo
đối với Thánh Không Lộ.
Múa rối ổi lỗi ở chùa Đại Bi (Nam Định), đầu rối được gọi là "Thánh
Tượng" hoặc "Ông Lộng", gồm có sáu đầu rối to hơn bình thường thể hiện những
nét mặt khác nhau trên những gương mặt đã trưởng thành, biểu hiện những trạng
thái tâm lý, tính cách khác nhau rất sinh động. Hai đầu rối với gương mặt đỏ sẫm,
mắt nhìn quắc thước tượng trưng cho tính cách trung nghĩa của bậc chính nhân có
tên gọi là đôi "Lộng chúa", tiếp đến là đôi gương mặt tương phản nhau có tên gọi là
"Chàng Cát", một gương mặt vuông chữ điền còn gương mặt kia có đôi mắt tinh
anh và nụ cười hóm hình, đôi "Lộng tỳ đều mặt trắng", miệng rộng, miệng cười
khoáng đạt. Ngoài ra có sau đầu rối nhỏ, gồm một chàng trai khôi ngô tuấn tú, một
ông Chớp, hai nàng tiên, một hoàng hậu và một ông mách mặt đỏ dữ tợn. Sáu đầu
rối nhỏ chỉ thấy trong múa rối chầu thánh ở chùa Đại Bi (Nam Định), không xuất
hiện ở các ngôi chùa khác. Mỗi người điều khiển hai đầu rối ra vào trong tiếng hát,
tiếng mõ, tiếng thanh la, tiếng trống có thêm tiếng nhị réo rắt, nhưng tiếng của bộ
gõ vẫn là chủ đạo.
Chùa Keo Hành Thiện (Nam Định) có sáu đầu rối to, nghi lễ múa rối chầu
Thánh chỉ diễn ra vào đêm ngày 14/9 (AL) hàng năm sau khi kết thúc nghi lễ Thánh
đản. Mỗi người điều kiển hai đầu rối theo tiếng nhạc và theo làn điệu của lời hát
"Giáo Rối Văn". Mở đầu bằng câu hát:
"Trống này tôi giáo đời trung hưng vận mở thái hoà
Trống mừng chùa ta nhơn nhơn uy đức thánh về ngự trị
Khen rằng họ Lý đặt ra trống này" (Xem Phụ lục số 3, mục 3.2).
Chùa Cổ Lễ (Nam Định) có mười đầu rối to nghi lễ múa rối chầu Thánh
được tổ chức vào các buổi tối trong dịp lễ hội, trước đây vào các năm chính hội
Dần, Thân, Tỵ, Hợi mới thực hành nghi lễ này, vào khoảng thời gian từ năm 1990
đến 2010 nghi lễ được thực hiện hàng năm. Tuy nhiên hiện nay nghi lễ này không
88
được diễn ra do những người cao niên trước đây thực hành nghi lễ của làng đã
khuất núi, không có người kế tục nên nghi lễ này đã bị mai một thất truyền.
Xin nhấn mạnh các trò diễn này chỉ được diễn ra trước Điện Thánh và chỉ có
trong lễ hội của các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ. Múa rối ổi lỗi ở các ngôi chùa có
sự khác biệt đôi chút nhưng đều mang đậm tính chất của nghi lễ thờ cúng, nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng các trò diễn trên có liên quan đến nghi lễ nông nghiệp cầu
mưa, cầu tạnh, cầu được mùa. Qua điền dã thực tế, khi hỏi các cụ cao niên trong
làng được biết, các nghi lễ này đã có từ xa xưa cha ông truyền lại và đến nay vẫn
được dân làng tiếp nối thực hành trong mỗi dịp lễ hội, ý nghĩa của nghi lễ cũng
không cắt nghĩa rõ ràng. NCS đưa ra giả thiết ban đầu, phải chăng các trò diễn này
đều có liên quan đến yếu tố Mật giáo? Đây là câu hỏi mà chưa thể có câu trả lời, bởi
trong khuôn khổ của nghiên cứu này không thể giải quyết nhiều vấn đề quan tâm, vì
thế cần phải có những nghiên cứu tiếp theo mới có thể trả lời một cách tường minh
vấn đề này.
Trong thực hành nghi lễ của cộng đồng đối với Tứ vị Thánh tổ ở các ngôi chùa,
NCS đã đặc tả lại một cách đầy đủ và chi tiết nhất, không đưa ý kiến bình luận của cá
nhân nhằm phản ánh trung thực, khách quan những nội dung thực hành nghi lễ để
chính những thực hành đó sẽ tự truyền tải thông điệp đến người tiếp nhận.
Tuy nhiên, trong thực hành tín ngưỡng của cộng đồng sự pha trộn giữa tín
ngưỡng dân gian với tôn giáo được thể hiện khá nhuần nhuyễn. Nghi lễ được thực hiện
tại chùa và trong một số nghi lễ có sự tham gia của nhà sư như Lễ Mộc Dục, Lễ
Rước,… có đọc kinh Phật, đọc chú Đại Bi và đọc kệ chầu Thánh. Mặc dù nghi lễ diễn
ra ở chùa nhưng mang nét đặc sắc của tín ngưỡng dân gian như lễ Tế, lễ Rước,... qua
đó để thấy tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là sự pha trộn giữa tín ngưỡng Phật giáo và Tín
ngưỡng dân gian, một nét độc đáo của tín ngưỡng văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng.
3.2.2. Thực hành nghi lễ của cá nhân
Các thực hành nghi lễ trình bày tại mục 3.2.1. là những thực hành của cộng đồng
địa phương đối với Tứ vị Thánh tổ đã hình thành khuôn mẫu, được lưu truyền, tiếp nối
qua nhiều thế hệ. Các nghi lễ này được thực hiện hàng năm vào mỗi dịp lễ hội để tôn
vinh, tưởng nhớ và nhắc nhở về sự hiện diện của Tứ vị Thánh tổ trong đời sống tín
ngưỡng của người dân. Những thực hành đó tạo nên những cảm xúc tôn giáo và những
cảm xúc này sẽ góp phần khơi gợi, củng cố niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ cho cộng đồng.
Song, bản thân mỗi cá nhân người dân khi đến lễ Thánh vào thời điểm huý
kỵ hay thời điểm lễ hội, hoặc bất kỳ thời điểm khác trong năm như ngày đầu năm,
ngày rằm mùng một hàng tháng,… họ lại có những cách bày tỏ niềm tin và thực
hành nghi lễ riêng. Đó chính những trải nghiệm tôn giáo và là yếu tố cốt lõi trong
đời sống tín ngưỡng của họ.
89
Trong mục này, NCS sẽ tìm hiểu khía cạnh thực hành nghi lễ đối với Tứ vị
Thánh tổ của cá nhân, nhằm nhận biết các thực hành của họ diễn ra như thế nào? Họ
dâng những lễ vật gì để cúng Thánh, họ gửi những ước nguyện, thỉnh cầu gì của bản
thân và của gia đình đến vị Thánh mà họ tôn thờ, đồng thời họ có cảm xúc như thế
nào sau khi thực hành nghi lễ. Qua đó thấy được nhu cầu thực hành tín ngưỡng Tứ
vị Thánh tổ của người dân vùng đồng bằng sông Hồng.
3.2.2.1. Về nghề nghiệp, độ tuổi và giới tính
- Về nghề nghiệp: Cụ thể nghề nghiệp của cá nhân thực hành nghi lễ ở từng cơ
sở thờ tự, thể hiện ở bảng sau:
Bảng 3.7: Về nghề nghiệp của cá nhân thực hành nghi lễ
Đơn vị tính: %
CÁC CƠ SỞ THỜ TỰ NGHỀ NGHIỆP CÁ NHÂN THỰC HÀNH NGHI LỄ
Chùa Thày (102 phiếu)
Chùa Keo (132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá (115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ (108 phiếu)
Cán bộ CCVCNN 17,7 7,6 0,9 19,4 Cán bộ Hưu Trí 7,8 3,8 20,0 6,5 Giáo viên 11,8 7,6 7,8 14,8 Kinh Doanh 4,9 8,3 4,3 7,4 Công nhân 16,7 11,4 6,1 13,9 Nông dân 12,7 37,1 51,3 18,5 Nghề tự do 21,6 22,0 8,7 13,9 Nội trợ 1,0 0,8 0,0 2,8 Học sinh sinh viên 5,9 1,4 0,9 2,8
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
Trong tổng số 457 phiếu khảo sát, kết quả cho biết nghề nghiệp của cá nhân
thực hành nghi lễ Tứ vị Thánh tổ rất đa dạng, nhiều nhất là làm nghề nông nghiệp
(nông dân): 30,8% số người trả lời, tiếp đến là làm trong cơ quan nhà nước (gồm cán
bộ, công chức và giáo viên): 21,2% số người trả lời, đến người làm nghề tự do: 16,6%,
Công nhân: 11,8%, người về hưu: 9,4%, nghề kinh doanh: 6,4%.
Khác với người đi lễ ở các cơ sở thờ tự khác như Đền Bà Chúa Kho, Đền
Trần, nếu như người đến lễ Đền Bà Chúa Kho chủ yếu là người làm nghề kinh
doanh buôn bán, họ đến với Bà để vay tiền đầu năm, lấy lộc làm ăn, kinh doanh.
Người đến lễ Đền Trần chủ yếu nghề nghiệp là cán bộ, công chức nhà nước, họ đến
để xin lộc thăng quan tiến chức thì người đến lễ Tứ vị Thánh tổ lại chủ yếu là nông
dân. Trong quá trình hoằng dương Phật pháp, các Thánh luôn tìm về những vùng
nông thôn để hoằng truyền và đã dậy dân nghề đánh cá, trồng lúa, múa rối đó là
những nghề nghiệp gắn liền với người làm nông nghiệp vào những lúc nông nhàn.
Mặt khác do vị trí địa lý, vùng đồng bằng sông Hồng vốn là vựa lúa lớn thứ hai của
cả nước, vì thế tỷ lệ người làm nông nghiệp cao hơn, tuy nhiên đến nay đã có sự
90
phân hoá về nghề nghiệp bởi cùng với quá trình đổi mới kinh tế đã có sự chuyển đổi
nghề nghiệp lao động mạnh mẽ vì thế nhóm người lao động nông nghiệp tham gia
thực hành nghi lễ Tứ vị Thánh tổ đã có xu hướng giảm.
- Về độ tuổi
Kết quả khảo sát cho thấy, cá nhân thực hành nghi lễ tại các ngôi chùa thờ
Tứ vị Thánh tổ ở nhiều độ tuổi khác nhau, cho thấy tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
không chỉ thu hút được sự tham gia của nhiều người mà còn có khả năng đáp ứng
nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh đa dạng cho các nhóm tuổi khác nhau trong xã hội.
Nhóm tuổi từ 45 trở lên chiếm tỷ lệ nhiều hơn: 59,5% trên tổng số 457 phiếu. Cụ
thể về độ tuổi của người tham gia thực hành nghi lễ tại các cơ sở thờ tự:
Bảng 3.8: Về độ tuổi của cá nhân thực hành nghi lễ
Đơn vị tính: %
CÁC CƠ SỞ THỜ TỰ ĐỘ TUỔI CỦA CÁ NHÂN THỰC HÀNH
NGHI LỄ Chùa Thày (102 phiếu)
Chùa Keo (132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá (115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ (108 phiếu)
Dưới 25 tuổi 6,9 6,0 1,8 3,7 Từ 26 tuổi đến 35 tuổi 8,8 17,4 5,2 15,8 Từ 36 tuổi đến 45 tuổi 31,4 22,0 13,9 29,6 Từ 46 tuổi đến 55 tuổi 28,4 27,3 18,3 27,8 Trên 55 tuổi 24,5 27,3 60,8 23,1
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
Cá nhân thực hành nghi lễ có sự đa dạng về độ tuổi, chứng tỏ tín ngưỡng Tứ
Thánh tổ thu hút sự tham gia của nhiều nhóm tuổi khác nhau và có khả năng đáp
ứng nhu cầu khác nhau của các nhóm tuổi. Với hai nhóm tuổi tham gia thực hành
nghi lễ nhiều nhất là từ 46-55 tuổi và từ 55 tuổi trở lên, đối với nhóm (1) họ đi lễ để
giải toả những lo lắng, bất an trong cuộc sống, họ có nhu cầu lớn hơn các nhóm tuổi
khác vào sự che chở của các đấng thiêng bởi họ trải qua nhiều thăng trầm của cuộc
sống, còn nhóm (2) họ đi lễ ở tuổi ngoài 55, vai trò xã hội giảm sút, mặc dù ở nhóm
tuổi này họ ít có mối quan tâm đến các sự kiện trong xã hội, nhưng họ lại đối diện
với nhiều vấn đề về sức khoẻ, đến tuổi già và họ bắt đầu suy nghĩ đến sự chết, vì thế
nhiều người khi về già luôn có xu hướng tìm đến tín ngưỡng, tôn giáo và họ tìm đến
với tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ như một lẽ tự nhiên.
- Về giới tính: Theo số liệu khảo sát, tỷ lệ cá nhân thực hành nghi lễ là Nam
chiếm: 34,6%, Nữ: 65,4%. Trong quá trình quan sát thực địa cũng dễ dàng nhận
thấy, số lượng nữ giới đến các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ để thực hành nghi lễ,
tham quan chiêm bái cũng chiếm số đông hơn nam giới. Phải chăng nữ giới có cảm
giác lệ thuộc vào Thánh nhiều hơn nam giới, họ là những người yếu đuối, đối tượng
dễ bị tổn thương nên họ dễ dàng tin tưởng và luôn cần có sự bảo trợ từ đấng siêu
nhiên đầy quyền lực để ban phúc và nâng đỡ họ trong cuộc sống. Như vậy, tín
91
ngưỡng Tứ vị Thánh tổ nói riêng và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo nói chung vẫn
luôn thu hút sự quan tâm của nữ giới, người nữ luôn có cảm giác lệ thuộc vào đấng
siêu nhiên, họ ý thức được sự yếu đuối và khả năng giới hạn của bản thân nên họ
luôn tin và cầu mong sự an ủi, che chở từ Tứ vị Thánh tổ.
Những nhận diện về nghề nghiệp, độ tuổi, giới tính qua sự tự thừa nhận đã
phần nào phác hoạ chân dung của các cá nhân thực hành nghi lễ tại các ngôi chùa
thờ Tứ vị Thánh tổ. Nghề nghiệp, độ tuổi của họ khá đa dạng, một mặt cho thấy xã
hội ngày nay đã có những thay đổi nên các ngành nghề cũng trở nên phong phú và
đa dạng hơn, mặt khác cho thấy mỗi ngôi chùa lại có sức lan toả và thu hút các
nhóm nghề nghiệp khác nhau đến thực hành nghi lễ. Theo kết quả khảo sát cho thấy
chùa Thầy (Hà Nội), chùa Cổ Lễ (Nam Định) thu hút người đến lễ nghề nghiệp chủ
yếu làm trong nhà nước (CBCC và Giáo viên) thì ở chùa Keo (Thái Bình) và chùa
Nghĩa Xá (Nam Định) lại thu hút người làm nghề nông nghiệp đến chùa lễ Thánh.
3.2.2.2. Về lễ vật dâng Thánh
Con người trong thế giới trần tục luôn bày tỏ lòng thành kính của mình với
các vị thần linh thông qua các vật phẩm dâng cúng. Lễ vật dâng Tứ vị Thánh tổ của
cá nhân thực hành nghi lễ khá phong phú.
Theo quan sát thực địa: Vào thời điểm đầu năm và mùa lễ hội năm 2017,
2018, nhân dân chủ yếu sắm đồ lễ chay để dâng ở Điện Thánh. Tại một số chùa
như: chùa Thầy, chùa Láng (Hà Nội), chùa Cổ Lễ, chùa Keo, chùa Nghĩa Xá (Nam
Định), các lễ vật phổ biến gồm: Hoa tươi (phần lớn là hoa cúc, hoa hồng), quả (khá
đa dạng về các loại quả, có nhiều loại quả được nhập ngoại, nhưng chủ yếu vẫn là
quả Táo, quả Xoài thái), bánh kẹo, tiền lễ (đa dạng về mệnh giá, chủ yếu vẫn là
những tờ có mệnh giá 1.000, 2.000, 5.000 và 10.000, những đồng tiền này sau khi
hạ lễ họ sẽ đem về chia cho bạn bè, người thân và coi đó là lộc của nhà Thánh hoặc
cất vào ví, với họ đây là những đồng tiền may mắn giúp họ có nhiều lộc hơn trong
làm ăn), lễ vàng mã (số lượng không nhiều, phần lớn là những cách tiền vàng, tiền
chinh, tiền đô la, tiền Việt Nam do ngân hàng địa phủ phát hành), lá sớ (với họ, lá
sớ là những lời tấu trình thể hiện bằng giấy trắng mực đen, truyền tải tâm nguyện
của họ ở thế giới trần tục sang thế giới thiêng của Thánh, trên mâm lễ vật có thêm lá
sớ mới đầy đủ viên mãn).
Riêng ở chùa Keo (Thái Bình), Keo Hành Thiện (Nam Định), có đông cá
nhân thực hành nghi lễ sắm lễ mặn để dâng ở Điện Thánh. Lễ mặn đã được nấu chín
phổ biến gồm: gà, một khẩu thịt lợn, giò, xôi trắng (hoặc xôi gấc), bánh chưng.
Qua lễ vật cho thấy sự phát triển của nhận thức xã hội về Phật giáo đó là hạn
chế sát sinh và mặc dù Thánh của dân gian nhưng lại là thiền sư của Phật giáo nên
dâng cúng đồ chay là phổ biến, tuy nhiên ở một số cơ sở thờ tự vẫn còn tục lệ dâng
92
lễ mặn lên Thánh như ở Chùa Keo Hành Thiện (Nam Định), chùa Viên Quang
(Ninh Bình), chùa Tổng (Hà Nội),… cho thấy sự giao thoa giữa Phật giáo và Tín
ngưỡng người dân gian.
- Theo kết quả khảo sát bằng phiếu: Với câu hỏi: Ông/Bà thường dâng lễ vật
gì để cúng Thánh?, được trả lời như sau: 70,9% số người trả lời cho biết họ thường
dâng lễ vật Hương, hoa, trái cây; 71,3% số người trả lời cho biết họ dâng lễ bằng
tiền trần; 25,4% số người trả lời cho biết họ dâng vàng mã; 21,5% người trả lời cho
biết họ dâng lễ chay, lễ mặn và dâng các lễ vật khác như nước ngọt, bia, thuốc lá.…,
3,7% người trả lời cho biết họ dâng sản vật địa phương. Nhưng cũng có người trả
lời cho biết, họ không dâng lễ vật gì lên Thánh ngoài sự "thành tâm" tuy nhiên vô
cùng hãn hữu, trong tổng số 457 phiếu khảo sát chỉ có 5,1% số người trả lời cho
biết họ lễ Thánh bằng chính sự thành tâm (lòng thành) của họ. Có 63,0% số người
trả lời cho biết trong mâm lễ dâng Thánh của họ luôn có lá sớ, đó là một loại văn
bản giấy tờ tấu trình lên Thánh.
Nếu như việc sắm lễ của những người đến lễ ở đền Bà Chúa Kho, Bà Chúa Xứ,
Đền Trần, hoặc một số nơi khác mâm lễ luôn rất lớn và trong mâm lễ luôn hiện diện lễ
vàng mã với số lượng nhiều. Những người đến lễ ở đây thường cho rằng mâm cúng lễ
càng to thì càng thể hiện "lòng thành" với Thánh, lễ càng to thì lộc càng lớn, họ có cơ
hội để Thánh đoái hoài, lời thỉnh cầu của họ dễ dàng đến với Thánh hơn, khả năng
được đáp ứng những lời nguyện cầu cũng lớn hơn so với những người có mâm lễ nhỏ
theo kiểu "tốt lễ dễ kêu". Có nhiều tác giả nghiên cứu đã cho rằng việc thể hiện "lòng
thành" của những người đi lễ Bà Chúa Kho, Đền Trần,… giống như một sự "giao
dịch" hay một cách thiển ý đó là sự trao đổi mua - bán với Thần, Thánh.
Còn lễ vật dâng Thánh của người đến lễ ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ
khá đơn giản, rất ít các mâm lễ lớn. Với họ, việc sắm lễ vật dâng Thánh chính là thể
hiện cho niềm tin và sự tôn kính. Theo họ, lễ vật cũng quan trọng, nhưng điều quan
trọng nhất khi đi lễ Thánh chính là "sự thành tâm" và nếu thực sự thành tâm thì
Thánh sẽ ban lộc, độ trì. "Sự thành tâm", "lòng thành" của cá nhân thực hành nghi
lễ đối với Tứ vị Thánh tổ hay với Bà Chúa Kho, Đức Thánh Trần về bản chất không
khác nhau nhưng đối với mỗi người và ở mỗi cơ sở thờ tự cách thức thể hiện lại có sự
khác biệt. Lễ vật của người đến lễ ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ thể hiện lòng
thành kính và mang ý nghĩa tâm linh nhiều hơn, ít biểu hiện sự "giao dịch" với Thánh.
Trong những lần điền dã, tiến hành phỏng vấn theo câu hỏi bán cấu trúc với
một số người đến lễ, được biết: "Việc sắm lễ dâng nhà ngài đều do các cháu (chỉ
vào anh con trai) trong nhà lo liệu, nói chung cứ phải có tâm thì mới cầu được, tôi
lần nào đến lễ xin đài âm dương đều được cả, phải có tâm thì Thánh mới ban cho
phúc, cho lộc" [Phụ lục 7, BBPV số 8].
93
"Không cần có tiền của nhiều để mua lễ dâng thì ngài mới chứng, mà chỉ cần
nhất tâm và có tấm lòng thì chỉ một nén hương thôi ngài cũng chứng giám cho"
[Phụ lục 7, BBPV số 10].
"Không cần cầu kỳ tiền nhiều, lễ lớn mà lễ phải có lòng thành, do tấm lòng
thành của mình cho dù lễ ít hay nhiều không quan trọng, nếu mình có lỗi thì phải
xám hối các ngài cũng bỏ đi cho" [Phụ lục 7, BBPV số 9].
Quan trọng là muốn Phật, Thánh độ cho thì cái tâm mình phải thật, minh
tin vào Thánh thì mới ứng nghiệm cháu ạ, trước kia cô hay ốm đau từ
khi cô đi hầu Thánh cô thấy mình khoẻ hẳn ra, từ đấy cô chẳng có bệnh
tật gì, khoẻ mạnh cháu ạ, đến cửa Thánh phải nhất tâm cầu khấn thì
Thánh sẽ ban cho sức khoẻ, cho tài, cho lộc, cho bình an [Phụ lục 7,
BBPV số 11].
Như vậy, sự thành tâm của các cá nhân sẽ định hướng hành vi sắm lễ cũng
như những thực hành nghi lễ và họ đều sắm cho mình mâm lễ để dâng lên Tứ vị
Thánh tổ phù hợp với nhu cầu và khả năng của bản thân.
3.2.2.3. Thỉnh cầu của cá nhân
Có thể thấy rằng, Tứ vị Thánh tổ có những tác động không nhỏ vào đời sống
tinh thần của người dân vùng đồng bằng sông Hồng, những người đến lễ Thánh
trước hết xuất phát từ tấm lòng thành kính và sự biết ơn. Nhưng không dừng lại ở
sự tưởng nhớ, tôn vinh mà họ đều thể hiện những mong muốn của cá nhân thông
qua những lời thỉnh cầu. Hy vọng, bằng quyền năng của mình Tứ vị Thánh tổ sẽ che
chở, bảo vệ và giúp họ có một cuộc sống an lành. Vậy, các cá nhân thực hành nghi lễ ở
các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ thường có những thỉnh cầu và mong muốn điều gì
gửi đến các vị Thánh?
- Nội dung cầu khấn của cá nhân thực hành nghi lễ theo kết quả khảo sát:
Mỗi người khi đến lễ tại các cơ sở thờ tự đều có những mục đích và những mong
muốn khác nhau, trong cuộc sống hiện tại đầy những bất trắc, tai ương thì những mong
muốn của họ tập trung chủ yếu vào các vấn đề: sức khoẻ, bình an, hạnh phúc gia đình.
Theo kết quả khảo sát: 93,4% số người trả lời cho biết họ đến lễ Thánh để cầu sức khoẻ;
92,6% số người trả lời cho biết họ đến lễ Thánh để cầu bình an cho bản thân và gia đình;
38,9% số người trả lời cho biết họ cầu gia đình hạnh phúc; 34,6% cầu tài lộc; 20,6% cầu
công danh; 14,4% cầu học hành thi cử cho chính bản thân hoặc cho con cái của họ; 4,4%
số người đến lễ cầu được mùa, 3,1% số người đến cầu tự và 2,2% số người đến cầu con.
Ngoài ra, có 2,8% số người được hỏi cho biết, họ đến với mục đích vãn cảnh, tìm sự
thảnh thơi cho tâm hồn sau những bộn bề của cuộc sống. Như vậy, các cá nhân thực
hành nghi lễ mong muốn được Tứ vị Thánh tổ ban cho nhiều nhất chính là sức khoẻ và
bình an cho bản thân và gia đình, đây chính là những giá trị mà họ coi trọng và đó cũng
94
là những mong muốn chung, phổ biến cho hầu hết những người đến lễ ở các ngôi chùa
thờ Tứ vị Thánh tổ, tiếp đến là họ cầu hạnh phúc, cầu tài lộc, công danh. Mặt khác,
những người đến lễ Tứ vị Thánh tổ có sự đa dạng về nghề nghiệp, minh chứng cụ thể về
những thỉnh cầu của người đi lễ Tứ vị Thánh tổ qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 3.3: Mục đích của cá nhân thực hành nghi lễ
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
Vậy, ngoài cầu khấn Thánh độ trì cho những điều được nêu trên họ còn có
mong muốn gì khác với những điều rất cụ thể biểu hiện những vướng mắc khó
khăn, hay những mong đợi của họ ở hiện tại. Quả chuông ở chùa Cổ Lễ (Nam Định)
nơi thờ Thánh Nguyễn Minh Không đã có những lời thỉnh cầu như thế.
- Thỉnh cầu của các cá nhân ở chùa Cổ Lễ Nam Định
Tại chùa Cổ Lễ (Nam Định) có treo một quả chuông trước Điện Phật và Điện
Thánh (chùa Cổ Lễ Điện Phật và Điện Thánh chung trong một kiến trúc hình chữ
Công, toà Thượng Điện được chia làm hai phần tách biệt rõ ràng, phía trước thờ
Phật, phía sau có một Hậu cung thờ Thánh). Quả chuông này chính là nơi người đến
lễ gửi gắm những lời thỉnh cầu của mình tới Phật, Thánh. Những mảnh giấy nhỏ
màu trắng do nhà chùa cung cấp có đóng dấu và ghi dòng chữ "Chùa Cổ Lễ tiếng
chuông cầu nguyện", được họ ghi lên những lời thỉnh cầu, dán vào quả chuông rồi
tự tay đánh ba tiếng chuông, vì có quan niệm cho rằng khi chuông được đánh lên,
lời nguyện cầu của họ sẽ thấu tới Phật, Thánh. Quả chuông ngày một dày lên bởi
những lớp giấy ghi những thỉnh cầu đó.
Trong quá trình điền dã, ghi chép lại một số lời thỉnh cầu và thấy rằng người đi
lễ đến từ nhiều địa phương khác nhau ở vùng đồng bằng sông Hồng như Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hải Dương, có người đến từ thành phố Đà
Nẵng xa xôi. Những lời thỉnh cầu rất cụ thể, thể hiện những mong muốn đạt được ở
thời điểm hiện tại hoặc là những việc đang vướng mắc chưa thực hiện được cần phải có
sự trợ giúp của Thánh như: (Xem Phụ lục số 3, mục 3.1).
95
Một gia đình ở số 347 đường Cách mạng tháng Tám, phường Cẩm Lệ, thành phố
Đà Nẵng, cầu cho công ty của gia đình phát triển, cầu nguyện làm nhà ở Bình Minh 1
hoàn thiện tốt đẹp, cầu cho con tên là Hoàng Hải có thẻ xanh 10 năm ở USA (Mỹ).
Một gia đình khác ở Ninh Bình cầu cho hai người tên Phạm Thu và Nguyễn
Thị Huệ khỏi bệnh xương khớp, bệnh dạ dày, bệnh tiền đình.
Một gia đình ở phường Phương Mai, Quận Đống Đa, Hà Nội, cầu cho người
thân thoát khỏi ách quan trần xét xử nhẹ, Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử án treo.
Một gia đình ở phường Trần Tế Xương, Nam Định xin Phật, Thánh gia độ
cho gia đình bán được mảnh đất.
Một gia đình ở huyện Trực Ninh, Nam Định cầu xin sẽ sinh được quý tử để
nối dõi tông đường.
Một gia đình ở huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định cầu mong bệnh ung thư thực
quản nhanh khỏi
Một gia đình ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội cầu cho con trai của mình
là Đào Đức Dũng tìm được người phối ngẫu
Và một nam thanh niên ở phường Bồ xuyên, thành phố Thái Bình cầu ra
trường gặp cơ hội công việc thuận lợi và cầu cho mình với bạn Trần Ngọc Thơ quê
ở Hà Tĩnh sẽ nên duyên.
Việc cầu xin Thánh phù hộ luôn liên quan trực tiếp đến đời sống hiện thực.
Họ không cầu xin những điều xa vời như linh hồn sẽ lên thiên đàng sau khi chết,
cầu được giải thoát, cầu không còn luân hồi sinh tử. Nếu ốm đau thì họ cầu được
mạnh khoẻ, nếu chưa có con trai thì họ cầu có được con trai, nếu buôn bán thì họ
cầu lộc buôn may, bán đắt, nếu năm nay có con đi thi đại học thì họ cầu cho con cái
họ thi cử được đỗ đạt, họ cầu công danh, cầu tài lộc, cầu tình duyên,…Nói chung,
mỗi khi gặp khó khăn họ tới chùa đề cầu Tứ vị Thánh tổ gia độ và ban cho họ
những điều may mắn để vượt qua những khó khăn đó, cho thấy tính thực tế của
người đi lễ đối với các Thánh. Việc tham gia thực hành nghi lễ thờ cúng Thánh
nhằm mục đích giải quyết các khía cạnh của đời sống hiện thực. Như vậy, Tứ vị
Thánh tổ là những đấng thiêng liêng có sức mạnh vô tận, có thể thoả mãn mọi
nguyện vọng của người dân, nâng đỡ đời sống tinh thần, giúp họ, hỗ trợ họ vượt qua
những khó khăn thử thách của cuộc sống.
3.2.2.4. Cảm giác sau khi thực hành nghi lễ
Con người trong cuộc sống luôn mong muốn được thoả mãn về đời sống vật
chất và đời sống tinh thần. Tín ngưỡng, tôn giáo là một trong lĩnh vực thuộc về đời
sống tinh thần quan trọng đối với mỗi người. Theo thống kê của Ban Tôn giáo
Chính phủ có đến 95,0% người dân Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, vì
thế với mỗi cá nhân, việc được thoả mãn đời sống tâm linh tín ngưỡng chính là đáp
ứng một phần nhu cầu tinh thần của họ.
96
Việc tham gia thực hành nghi lễ thờ cúng Tứ vị Thánh tổ đã đáp ứng một
phần nhu cầu trong đời sống tinh thần của người dân. Đây là thời điểm giao hoà
giữa thế giới trần tục và thế giới thiêng, họ được sống trong thời gian thiêng,
không gian thiêng, thời điểm đó đã tác động đến hành vi, cảm xúc của họ. Thực
hành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đã đem đến những thay đổi về mặt cảm xúc, nếu
như trước khi thực hành họ còn lo âu, buồn bực, nóng giận hoặc có những cảm
giác không tích cực, thì sau khi thực hành nghi lễ họ thu nhận về những cảm giác
hoàn toàn khác biệt, những cảm giác này đã giúp họ thay đổi trong cả nhận thức
và hành vi.
Để biết cảm xúc của các cá nhân sau khi thực hành nghi lễ, NCS đã tiến hành
khảo sát, với câu hỏi: Cảm xúc của Ông/Bà đạt được sau khi thực hành nghi lễ đối
với Thánh? Câu trả lời nhận được nhiều nhất là cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng:
75,7% số người trả lời; 33,3% số người trả lời cho biết họ cảm thấy tĩnh tâm sau khi
thực hành nghi lễ; 17,9% số người trả lời cho biết họ thấy kính trọng và biết ơn
Thánh; 14,4% người trả lời cho biết họ hy vọng vào tương lai sau khi thực hành
nghi lễ và chỉ có 3,1% người trả lời cho biết cảm xúc của họ sau khi thực hành nghi
lễ là trút được gánh nặng trong lòng.
Biểu đồ 3.4: Cảm xúc của cá nhân sau khi thực hành nghi lễ
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
Cảm xúc phổ biến nhất mà các cá nhân có được là thanh thản nhẹ nhàng, tiếp
đến là tĩnh tâm, do họ đã thoả mãn phần nào đó đời sống tâm linh. Để tìm hiểu sâu
hơn về cảm xúc sau khi thực hành nghi lễ đối với Tứ vị Thánh tổ của các cá nhân,
ngoài những thông tin mang tính chất định lượng, NCS thu thập thêm những thông
tin mang tính chất định tính thông qua việc phỏng vấn bán cấu trúc, cụ thể:
"Mỗi lần cô đi lễ Thánh về, cô cảm thấy, thanh thản, bình an, yên tâm để làm
ăn cháu ạ, nếu mà không đi lễ Thánh được cô thấy nóng nẩy, bực bội, khó chịu"
[Phụ lục 7, BBPV số 9]
97
"Vào chùa lễ Phật, lễ Thánh bác cảm thấy bình yên lắm, nhiều khi chẳng
muốn về nữa cháu ạ, vào chùa không khí thanh tịnh, thấy cuộc sống nhẹ nhàng,
thanh thản hơn" [Phụ lục 7, BBPV số 4].
"Đối với tôi chùa Thầy như nơi giải toả những căng thẳng, nhà tôi ở gần
chùa nên khi vướng mắc trong cuộc sống tôi thường đến chùa lễ, xin ngài độ cho
giúp tôi thanh thản hơn, mỗi lần như thế tôi thấy tâm mình thoải mái, không còn lo
âu suy nghĩ nhiều nữa" [Phụ lục 7, BBPV số 5].
Như vậy, người đi lễ luôn có những thay đổi tích cực về cảm xúc sau khi
thực hành nghi lễ, sự thay đổi cảm xúc đó sẽ dẫn đến những thay đổi trong nhận thức,
hành vi và thái độ ứng xử của họ đối với những người xung quanh. Việc đi lễ Thánh
như một cách thức mà một bộ phận người dân muốn tìm khoảng tĩnh lặng cho tâm hồn
nhằm định hướng lại các hành vi của bản thân, khiến họ vững tin hơn vào cuộc sống,
tạo sự cân bằng tâm lý trước những áp lực của cuộc sống và hướng thiện.
Có thể khẳng định rằng, việc thực hành nghi lễ của các cá nhân ở các ngôi
chùa thờ Tứ vị Thánh tổ một phần thuộc về tình cảm tôn giáo và một phần vì chính
cuộc sống hiện thực của họ ở nơi trần thế. Những nguyện cầu của họ luôn là những
điều thiết thực nhất, liên quan mật thiết tới cuộc sống hiện tại và tin tưởng rằng các
Thánh có sức mạnh vô biên, với những tha lực có thể giúp đỡ và cứu vớt. Họ gửi
gắm, phó thác những hy vọng của mình vào các vị Thánh. Việc thực hành nghi lễ
đối với Tứ vị Thánh tổ của các cá nhân như một sự "bảo hiểm" [94] cho cuộc sống.
Trong bối cảnh hiện nay, hệ luỵ của nền kinh tế thị trường như khoảng cách giầu
nghèo, tỷ lệ bệnh tật gia tăng, số người mắc bệnh hiểm nghèo như tiểu đường, ung
thư luôn ở mức cao, tỷ lệ thất nghiệp kéo theo nhiều tệ nạn xã hội,… Đây là những
vấn đề nổi cộm của xã hội chưa được giải quyết một cách rốt ráo, người dân cần
đến một chỗ dựa về mặt tâm linh. Người dân vùng đồng bằng sông Hồng tìm đến
với Tứ vị Thánh tổ để củng cố cho họ niềm tin về sự hiện diện của các vị Thánh,
luôn có các vị Thánh ở bên họ, hỗ trợ, giúp đỡ cho họ trong cuộc sống hàng ngày.
Mặc dù là sự bảo hiểm vô hình nhưng lại có sức mạnh tinh thần rất lớn, không chỉ
giúp họ thoả mãn nhu cầu tâm linh mà còn giúp họ thêm an tâm, thêm niềm tin,
nghị lực trước những thách thức của cuộc sống hiện tại và hy vọng vào một cuộc
sống tốt đẹp hơn ở phía trước.
3.3. NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ Ở MỘT SỐ
NGÔI CHÙA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
3.3.1. Về chủ thể thực hành nghi lễ của cộng đồng
Các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ trước đây đều không có sư trụ trì, bởi sau
khi các sư viên tịch, các ngôi chùa đều không có sư kế tục, triều đình giao việc coi
sóc đèn hương thờ tự, chấp lễ cho người dân, họ đã cử các đại diện là những ông
98
Thống, bà Tự, hoặc do một dòng họ trông coi (chùa Keo Hành Thiện (Nam Định)
do dòng họ Vũ ở xóm Chùa trông coi), còn việc thực hành các nghi lễ đều do các
ông pháp sự hành nghề phù thuỷ trong làng thực hiện.
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và Thiền Uyển Tập Anh đều có ghi sau khi
các sư tịch, vua xuống chiếu miễn thuế cho các hộ xung quanh để lo việc đèn hương
thờ tự. Từ Đạo Hạnh trúc xác ở núi Phật Tích đã được triều đình và nhân dân để xác
của Ngài vào trong khám để thờ [104]. Vua Lý Thần Tông cho xây dựng Chùa
Láng để thờ tiền thân của mình chính là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Mùa Thu Tháng
tám năm Tân Dậu (1141) Quốc sư Minh Không chết, sư rất linh ứng phàm khi có
thuỷ hạn tai hại gì cầu đảo đều ứng nghiệm cả, nay hai chùa Giao Thuỷ và Phả Lại
đều tô tượng để thờ [104]. Vua Lý Anh Tông cho lập đền thờ Nguyễn Minh Không
ở kinh đô ngày nay là Chùa Lý Quốc sư ở Hà Nội. Sư Giác Hải khi qua đời, triều
đình miễn thuế cho 30 hộ để lo đèn hương thờ phụng [107, tr.140]. Sư Không Lộ
khi thị tịch Vua Lý Nhân Tông cho sửa sang mở rộng chùa Nghiêm Quang, miễn tô
thuế cho 20 hộ để đèn hương phụng thờ [107, tr.107].
Trải qua thời gian, mãi đến thế kỷ XX một vài ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ
mới có sư về trụ trì, như: chùa Cổ Lễ (Nam Định) có sư Phạm Quang Tuyên về trụ
trì vào năm 1902, chùa Keo (Thái Bình), chùa Láng (Hà Nội) có sư về trụ trì vào
khoảng những thập niên 50-60, chùa Tây Lạc (Nam Định) năm 1935 có sư Thích
Thanh Thành là vị sư đầu tiên về trụ trì. Chùa Thầy (Hà Nội) năm 1984 có sư Thích
Viên Thành về trụ trì.
Hiện nay các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh Tổ đều đã có sư trụ trì, đặc biệt là từ
sau khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập đã cử sư về trụ trì ở hầu hết các
ngôi chùa này như: chùa Thầy (Hà Nội) hiện phụ trách là Đại đức Thích Đạo Vĩnh,
trụ trì chùa Keo (Thái Bình) là Đại đức Thích Thanh Quang, trụ trì chùa Cổ Lễ
(Nam Định) là Thượng toạ Thích Tâm Vượng, trụ trì chùa Tây Lạc (Nam Định) là
Đại đức Thích Thanh Việt, trụ trì chùa Lý Quốc Sư (Hà Nội) là Hòa thượng Thích
Bảo Nghiêm, trụ trì chùa Láng (Hà Nội) là Ni sư Thích Đàm Huyền, trụ chì chùa
Nghĩa Xá là Đại đức Thích Thanh Chủng… Chỉ riêng ngôi chùa Keo Hành Thiện
(Nam Định) vẫn giữ nguyên truyền thống cũ không có sư trụ trì, việc thực hành các
nghi thức thờ Phật, Thánh vẫn do người dân và các vị Pháp sự trong làng thực hiện.
Ở các ngôi chùa có sư trụ trì, việc thực hành các nghi thức thờ cúng Thánh
đều do các vị sư trực tiếp đảm nhiệm, có thêm sự hỗ trợ của các vị thầy cúng, các vị
cao niên trong làng. Các vị sư đã thay thế vị trí của những vị Pháp sự, ông Thống,
bà Tự trở thành chủ thể chính, trực tiếp tham gia trong nhiều nghi thức, nghi lễ diễn
ra trong năm, trong lễ hội liên quan đến Tứ vị Thánh tổ. Quá trình điền dã tham dự
lễ hội ở một số ngôi chùa như chùa Thầy, chùa Láng (Hà Nội), chùa Keo (Thái
99
Bình), chùa Nghĩa Xá, chùa Đại Bi, chùa Cổ Lễ (Nam Định) vào các năm 2016,
2017, 2018 và ở một số ngôi chùa khác NCS đều nhận thấy điều này. Chỉ riêng nghi
lễ Tế Thánh vẫn thuộc về cộng đồng địa phương không có sự tham gia của các nhà
sư, bởi nghi lễ này dành vốn là một nghi lễ quan trọng dành cho các vị Thần bảo trợ
cho cộng đồng mang ý nghĩa, sắc thái và đặc trưng của tín ngưỡng dân gian.
Một sự thay đổi về chủ thể thực hành, nếu như trước đây quan niệm "Nhất
nam viết hữu/Thập nữ viết vô", đặc biệt ở chốn tâm linh linh thiêng, quan niệm chỉ
có nam giới mới được phép tham gia thực hành các nghi thức, nghi lễ thờ Thánh thì
nay quan niệm này đã phai nhạt và đổi thay. Ở một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ
như chùa Láng (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Đại Bi, chùa Nghĩa Xá (Nam
Định),…, đã chấp nhận, thậm chí khuyến khích các đội tế nữ (đội tế Nữ quan) thực
hiện nghi lễ Tế Thánh.
Các đội tế Nữ quan mới được thành lập gần đây, đội tế Nữ quan của làng
Keo (Thái Bình) được thành lập năm 1998, đến năm 2009 tách thành hai đội. Chùa
Láng (Hà Nội) là không gian thiêng của ba làng Láng Thượng, Láng Trung và Láng
Hạ, cả ba làng đều có đội tế Nữ quan. Các đội tế Nữ quan cũng tham gia thực hành
nghi lễ dâng hương tế Thánh trong ngày kỵ và trong những ngày lễ hội diễn ra.
Chùa Đại Bi (Nam Định) là không gian thiêng của bảy thôn, hiện nay các thôn Vân
Chàng, Thôn Ba, Thôn Tư, đều thành lập các đội tế Nữ quan tham gia các nghi lễ
dâng hương tế Thánh Từ mỗi khi chùa Đại Bi vào hội. Ở chùa Cổ Lễ (Nam Định)
có năm dòng họ Dương, Nguyễn, Lê, Phan, Dương Đào khi lễ hội diễn ra 5 dòng họ
này (hay còn gọi là 5 cửa) tham gia nghi lễ rước Thánh và đội tế Nữ quan của làng
Cổ Lễ được thành lập để tham gia nghi lễ tế Thánh. Ở chùa Nghĩa Xá (Nam Định),
không chỉ có đội tế Nữ quan riêng của làng Nghĩa Xá mà các họ Phạm, Nguyễn mỗi
họ cũng có một đội tế Nữ quan của họ mình và làng còn có thêm một đội tế Nữ
cung đình với số lượng tham gia là 40 người.
Tuy nhiên, các đội tế Nữ quan phần lớn chỉ được thực hiện các nghi thức,
nghi lễ sau khi lễ Tế của đội tế Nam quan kết thúc và không được thực hiện nghi lễ
dâng hương, đăng, trà, quả vào hậu cung nơi thờ Thánh. Nội dung tế Thánh của đội
tế Nữ quan cũng không theo các nghi thức của đội tế Nam quan, thể hiện rõ ở trang
phục tế. Nếu như trang phục tế của đội tế Nam quan ở một số ngôi chùa thờ Tứ vị
Thánh tổ khá tương đồng như chùa Keo (Thái Bình), chùa Thầy, chùa Láng (Hà
Nội), chùa Đại Bi (Nam Định),… đều là đầu đội mũ tế, chân đi hia, mặc áo thụng
màu xanh, hai ông Đông xướng, Tây xướng mặc áo màu đỏ thì trang phục của đội
tế Nữ quan ở một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ lại khá linh hoạt và đa dạng về
màu sắc, có đội tế Nữ quan mặc áo tế thụng dài màu hồng, màu đỏ hoặc màu vàng,
đầu đội khăn vành dây, chân đi hài thêu.
100
Ở nhiều ngôi chùa vào ngày lễ hội có rất đông đội tế Nữ quan tham gia,
không chỉ có đội tế Nữ quan của làng mà còn có sự tham gia của các đội đến từ các
địa phương khác. Lễ hội chùa Nghĩa Xá (Nam Định) trong 3 ngày hội từ 01-
03/3/2018 (AL) có 17 đội tế Nữ quan đến từ các địa phương khác, nhiều nhất đến từ
huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ở chùa Keo (Thái Bình) việc thực hiện nghi lễ dâng
hương tế Thánh của các đội tế Nữ quan còn có phần sôi động. Lễ hội chùa Keo Thái
Bình năm 2018, từ ngày 10-15/9 (AL) có tất cả 22 đội tế Nữ quan tham gia nghi lễ
tế Thánh Không Lộ tại toà Giá Roi. Các đội tế Nữ quan đến từ nhiều nơi, chỉ riêng
làng Keo đã có 02 đội tế Nữ quan do các bà Hằng, bà Lụa đứng đầu, các đội tế Nữ
quan đến từ các xã thuộc huyện Vũ Thư như Vũ Tiến, Vũ Đoài và còn các đội tế đến từ
các huyện khác của tỉnh Thái Bình như đội tế của thành phố Thái Bình, Đông Hưng,
Tiền Hải.
Quan sát các đội tế Nữ quan thực hiện nghi lễ tế Thánh ở chùa Keo (Thái
Bình) trong mùa lễ hội năm 2018, có sự biến tướng trong nội dung thực hành nghi
lễ. Gọi là nghi lễ tế Thánh nhưng không diễn ra các nghi lễ thượng hương, dâng trà,
dâng tửu theo đúng các nghi thức tế Thánh thông thường mà toà Giá Roi biến thành
sân khấu biểu diễn các giá hầu đồng, có thể nhận thấy các giá đồng được thực hiện
chủ yếu như giá Cô Đôi Thượng Ngàn, Cô Bơ, Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng
Mười,… Những vị Chủ tế biến thành các bà đồng và có thêm từ 8 đến 10 thành viên
trong đội tế múa phụ hoạ theo mỗi giá, rất ít đội tế có cung văn theo hầu để thúc đẩy
cảm xúc mà âm nhạc phục vụ nghi lễ chủ yếu được thu âm và phát ra loa. Ấy vậy
mà thu hút rất đông người tham dự, chật kín toà Giá Roi và họ cũng lắc lư theo
tiếng nhạc. Mỗi lần "Thánh" ban lộc bằng các tờ tiền có mệnh giá 1.000đ, 2.000đ,
nhiều du khách tranh nhau nhặt gây nên sự huyên náo,… cho thấy toà Giá Roi ở
Điện Thánh vào dịp lễ hội đã biến thành sân khấu hầu đồng. Theo quan sát, mỗi đội
tế khi kết thúc nghi lễ đều thu về khá nhiều tiền do các khách thập phương tham dự
đặt lễ. Một số đội tế còn liều lĩnh hơn trong việc thu tiền của du khách bằng cách họ
đặt đài sen để nhận tiền ngay trước ban thờ Thánh ở toà Đại Bái, nhưng cũng chưa
ghi nhận thấy có sự nhắc nhở hoặc sự can thiệp nào từ Ban Tổ chức lễ hội cho hành
động này. Những biến tướng trong nghi lễ tế Thánh ở chùa Keo (Thái Bình) đã làm
giảm đi sự uy nghi và không gian linh thiêng nơi Điện Thánh trong dịp lễ hội.
3.3.2. Về thành phần đi lễ và mục đích đi lễ
Trước đây theo truyền thống chùa được coi là nơi sinh hoạt của người cao
tuổi đặc biệt là nữ giới vì thế có câu "trẻ vui nhà, già vui chùa". Trong cuốn Việt
Nam Phong Tục, Phan Kế Bính cho rằng:
làng đã có chùa, tất có hội chư bà. Hội chư bà là những đàn bà từ 50 tuổi
trở lên hoặc những người đã có tuổi mà goá chồng mượn cửa chùa làm nơi
101
vui thú,… Vào hội chư bà phần nhiều là đàn bà nhà tầm thường chứ nhà có
học thức và các nhà sang trọng không mấy người chịu vào [21, tr.228,229].
Tìm trong nhiều tư liệu hầu như không có thông tin đề cập đến người đi lễ
Thánh ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ trong giai đoạn trước đây, tuy nhiên có
thể nhìn nhận ở một vài khía cạnh để khẳng định người đi lễ trước đây phần lớn là
cư dân địa phương làng xã, mặc dù trong lịch sử các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ
đều là những đại danh lam xưa thu hút nhiều tầng lớp kể cả các vương hầu quý tộc,
tầng lớp quan lại nhưng các ngôi chùa này vẫn thuộc về một cộng đồng dân cư nhất
định, bởi vậy chủ yếu phục phụ nhu cầu tín ngưỡng của những người dân trong
cộng đồng làng xã. Sau năm 1954, một thời gian dài đất nước chia cắt bởi chiến
tranh, miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc, chi viện cho chiến trường miền
Nam cả về sức người và sức của, mục tiêu cao cả của thời kỳ này là chiến thắng
giặc Mỹ thống nhất đất nước nên đời sống tín ngưỡng có phần lãng quên. Hoà bình
lập lại, người dân thực hiện hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế và bắt
đầu quan tâm hơn đến đời sống tín ngưỡng. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế xã hội
phát triển chưa cao, giao thông đi lại còn khó khăn nên chưa nhiều người ở các địa
phương khác tìm đến các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ để lễ Thánh. Trong khoảng
20 năm trở lại đây khi quan niệm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo mở, kinh tế, giao
thông phát triển, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ cũng có phần phát triển sôi động, chủ
thể đi lễ Thánh đã có những thay đổi, không còn cảnh "Trống làng nào làng ấy
đánh/Thánh làng nào làng ấy thờ", người đi lễ Thánh đã được mở rộng không chỉ
trong làng, liên làng thậm chí liên tỉnh, đến từ nhiều địa phương khác nhau ở vùng
đồng bằng sông Hồng và nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước.
Theo kết quả phiếu khảo sát, trong số 457 người được hỏi, có 72,0% người
trả lời cho biết họ là người dân địa phương, còn 28,0% người trả lời cho biết họ đến
từ địa phương khác, cho thấy, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đã có sức lan toả nhất
định, không còn bó hẹp trong cộng đồng địa phương làng, xã nơi ngôi chùa hiện
diện mà đã mở rộng ra các cộng đồng địa phương bên ngoài.
Nghề nghiệp của người đi lễ cũng thay đổi, nếu trước đây nghề nghiệp của
người đi lễ chủ yếu làm nông nghiệp thì hiện nay nghề nghiệp đa dạng hơn, đủ các
thành phần, từ cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ hưu trí, người làm nghề kinh
doanh,…(xem Bảng 3.7). Nghề nghiệp của người đi lễ thay đổi dẫn đến mục đích
đến lễ Thánh cũng có sự thay đổi nhất định. Nếu như trước đây người đến lễ Thánh
là nông dân, nội dung cầu khấn cũng chỉ xoay quanh các vấn đề liên quan đến nông
nghiệp như xin Thánh ban cho sức khoẻ, mùa màng bội thu, chăn nuôi thuận lợi,
lợn đầy chuồng, gà đầy sân,… thì hiện nay họ cầu sức khoẻ, bình an, cầu tài, cầu
lộc, cầu công danh, sự nghiệp (xem Biểu đồ 3.3).
102
Có một nghịch lý, 30,8% số người trả lời cho biết nghề nghiệp của họ là làm
nông nghiệp nhưng hầu như số người cầu mong được mùa lại rất ít, chỉ chiếm 4,4%.
Do quá trình đô thị hoá nhanh, đất đai dành cho canh tác sản xuất nông nghiệp bị
thu hẹp, mặt khác, nguồn thu từ nông nghiệp không cao nên người dân không còn mấy
mặn mà với nghề này mà họ chuyển dần sang các ngành nghề khác như buôn bán, kinh
doanh, vì thế mặc dù là nông dân nhưng họ không còn cầu mong được mùa màng bội
thu, phong đăng hoà cốc mà họ cầu mong tài lộc, cầu buôn may, bán đắt.
3.3.3. Sự quay trở lại của các nghi lễ Phật giáo và nghi lễ theo nhu cầu tín đồ
3.3.3.1. Các nghi lễ Phật giáo
Các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ trước đây các nghi lễ Phật giáo thường ít
được thực hiện do không có sư trụ trì và mặc dù các ngôi chùa đều thờ Phật, thờ Thánh
nhưng yếu tố thờ Phật mờ nhạt. Vì thế, các nghi lễ Phật giáo ít được coi trọng, hoặc
nếu có tổ chức nhưng không bài bản, đầy đủ các nghi thức. Thực tế hiện nay chùa Keo
Hành Thiện (Nam Định) không có sư trụ trì, việc coi sóc ngôi chùa và thực hành nghi
lễ đều do các vị Pháp sự và Ban Bản tự do dòng họ Vũ là nòng cốt.
Trong các chùa thờ Tứ vị Thánh tổ, chùa Keo Hành Thiện (Nam Định) hàng
năm chùa có tổ chức các nghi lễ Phật giáo nhưng chỉ tổ chức duy nhất lễ Phật Đản,
nhưng nghi lễ này không được tổ chức quy mô, bài bản như các ngôi chùa thuần túy
thờ Phật, bởi bản thân các vị Pháp sự, hay dân làng đều không hiểu hết ý nghĩa của
nghi lễ và thường chỉ những người là tín đồ Phật giáo đến chùa dâng lễ lên Điện
Phật. Như vậy, không chỉ trước đây mà ngay thời điểm hiện tại ở ngôi chùa thờ Tứ
vị Thánh tổ không có sư trụ trì, việc thực hành nghi lễ Phật giáo cũng mờ nhạt.
Từ khi có sư trụ trì, các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ nghi lễ Phật giáo được
quan tâm, trong nhiều năm trở lại đây có sự thay đổi mạnh mẽ trong đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo do điều kiện kinh tế phát triển, sự quan tâm của các cấp uỷ chính
quyền, các nghi lễ Phật giáo được coi trọng, tổ chức mở rộng cả về hình thức và nội
dung. Những nghi lễ Phật giáo chính trong năm được tổ chức ở các ngôi chùa thờ
Tứ vị Thánh tổ gồm: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lễ vía Quan Âm, lễ Giỗ sư tổ, các
Khoá tu mùa hè, khoá An cư kiết hạ,…. Chùa Keo (Thái Bình) trở thành Tổ Đình
Phật giáo, chùa Thầy (Hà Nội), chùa Cổ Lễ, chùa Tây Lạc (Nam Định) là những
Trường Hạ lớn, cứ đến ba tháng hạ các Tăng, Ni tập trung về đây để dành trọn thời
gian cho việc tu học thúc liễm thân tâm, trau dồi Giới, Định, Tuệ, nghe thuyết giảng
giáo lý và nghi lễ Phật giáo. Trao đổi với các vị trụ trì tại một số ngôi chùa như sư
Thích Đạo Vĩnh, sư Thích Tâm Vượng được biết, Chùa Thầy, mùa an cư năm 2015
có 92 vị tu sĩ, năm 2018 có 112 vị tăng, ni Phật giáo về hành trì an cư, chùa Cổ Lễ
hàng năm đón khoảng hơn 60 tăng, ni của huyện Trực Ninh, Nam Định về hành trì
an cư.
103
Việc thực hành các nghi lễ Phật giáo ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ
không những đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng Phật giáo cho tín đồ, phật tử mà còn là cơ
hội để giới thiệu, quảng bá hình ảnh đến đông đảo du khách tham dự, khơi dậy
những tinh hoa, nét đẹp cổ truyền, bởi những ngôi chùa này đều là những ngôi chùa
lớn thờ Phật, thờ Thánh với những nét đặc trưng riêng có và không lặp lại, đồng
thời đều là những danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở vùng đồng bằng sông Hồng.
3.3.3.2. Các nghi lễ theo nhu cầu tín đồ
Hiện nay ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ các nghi lễ Phật giáo được quan
tâm coi trọng, bên cạnh việc duy trì nghi lễ truyền thống của Phật giáo đã xuất hiện
việc lạm dụng nghi lễ Phật giáo làm phức tạp hóa để tăng sự linh thiêng và một số
hoạt động tín ngưỡng nhưng lại do các vị sư thực hiện, phục vụ theo nhu cầu của
người dân như: lễ Cắt kết, Dâng sao giải hạn đầu năm, cắt giải tiền duyên, bắt ma
trừ tà,…, phần lớn những nghi lễ này vốn thuộc về tín ngưỡng dân gian chịu ảnh
hưởng của Đạo giáo và một số nghi lễ mới xuất hiện như nghi lễ Hằng Thuận, nghi
lễ Chúc Thọ.
Chỉ riêng chùa Keo (Thái Bình), trong các năm 2017, 2018, NCS đã chứng
kiến và tham dự các khoá lễ theo nhu cầu của tín đồ: Vào ngày 02/4/2017 (AL) diễn
ra khoá lễ Trai đàn cầu siêu chẩn tế bạt độ thai nhi. Đây là một pháp hội cúng chay,
cầu siêu cho những hài nhi do nhiều nguyên nhân mà không hiện hữu trên thế gian.
Nghi lễ này vốn không phải là nghi lễ truyền thống của Phật giáo mà mang yếu tố
dân gian. Với nhu cầu "phú quý sinh lễ nghĩa" hiện nay, nhiều gia đình tụ họp lại
thỉnh sư tổ chức trai đàn cầu siêu cho thai nhi nhằm mục đích tìm kiếm sự thanh thản
trong tâm hồn của những người làm cha, làm mẹ, mục đích tiếp theo là mong các
vong hồn được siêu thoát và hoá giải tai ương. Hay, ngày 5/8/2018 (AL) diễn ra khoá
lễ Giải oan cắt kết - đại trai đàn của dòng họ Nguyễn ở làng Giao Cù Hạ xã Đồng
Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Sau khoá lễ Giải oan cắt kết, dòng họ Nguyễn
tiếp tục thực hiện khoá lễ Cầu siêu phổ độ gia tiên cho gia tộc.
Vào dịp đầu năm, hầu hết các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ đều tổ chức nghi
lễ dâng sao giải hạn để hoá giải những tai ương do các sao xấu ứng chiếu, hướng
đến mục đích giải trừ tai ách, đây cũng không phải là nghi lễ của Phật giáo mà chịu
ảnh hưởng của Đạo giáo và Tín ngưỡng dân gian.
Các nghi lễ theo nhu cầu của tín đồ xuất hiện như một tất yếu, bởi trong nền
kinh tế thị trường có cầu ắt có cung. Việc thực hành các nghi lễ này đã trở nên phổ
biến và thành thông lệ hàng năm ở nhiều ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ. Các thực
hành nghi lễ theo nhu cầu có tính tích cực phần nào an ủi làm yên lòng một bộ phận
tín đồ và người dân, là chỗ dựa về mặt tâm linh đồng thời tăng thu nhập cho nhà
chùa, góp phần vào việc trùng tu, sửa chữa cơ sở thờ tự, có kinh phí cho hoạt động
104
từ thiện nhân đạo, tham gia các công việc an sinh xã hội, vì cộng đồng. Tuy nhiên
cũng tạo nhiều tiêu cực như trong thực hành nghi lễ theo nhu cầu tín đồ hiện nay
đang có những biến tướng mê tín dị đoan, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc
và không phù hợp với giáo lý Phật giáo.
3.3.4. Thay đổi trong lễ hội
3.3.4.1. Về chủ thể tổ chức lễ hội
Lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông
Hồng là lễ hội làng hoặc liên làng, gần đây là lễ hội của cả vùng, thể hiện những
sinh hoạt văn hoá truyền thống của cộng đồng. Lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
thuộc về cộng đồng làng xã, tác giả Lê Trung Vũ trong cuốn "Lễ hội cổ truyền" cho
rằng: "Cộng đồng làng xóm vừa là tác giả kịch bản của lễ hội, vừa là đạo diễn, vừa
là diễn viên, đồng thời lại là khán giả của hội làng" [167, tr.85].
Trước đây, lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa như chùa Thầy,
chùa Láng (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Đại Bi, chùa Cổ Lễ (Nam Định),…
từ khâu tổ chức, thực hiện và mọi chi tiết khác đều được đạo diễn bởi chính cộng đồng
dân làng. Trước khi lễ hội diễn ra luôn có một buổi họp làng để bàn bạc, giao công
việc, cách thức triển khai, nhiệm vụ cụ thể trong lễ hội. Những người trực tiếp thực
hiện đều là người của làng và được dân làng lựa chọn với nhiều tiêu chí khắt khe để
tham gia. Đặc biệt là việc lựa chọn Chủ hội, phải là người có uy tín cao đối với cộng
đồng. Tham gia các nghi lễ Tế, nghi lễ Rước, các trò diễn chầu Thánh, các trò chơi dân
gian,… là cộng đồng dân làng, họ vừa diễn vừa xem, vừa cổ vũ động viên, tán thưởng
lẫn nhau. Cộng đồng dân làng chính là chủ thể chính của lễ hội bởi họ không chỉ đóng
góp về mặt tinh thần mà còn về vật chất để lễ hội được diễn ra. Chùa Keo Hành Thiện
(Nam Định) đến nay vẫn giữ được truyền thống, lễ hội vẫn thuộc về cộng đồng dân
làng, họ vừa là đạo diễn, diễn viên, khán giả và kiêm luôn nhà tài trợ cho lễ hội. Cho
thấy vai trò tự quản của của cộng đồng đặc biệt vào dịp lễ hội.
Trong bối cảnh đổi mới đất nước, công nghiệp hoá, hiện đại hoá có sự
chuyên môn hoá cao trong nhiều lĩnh vực đã tác động làm thay đổi về chủ thể tổ
chức lễ hội ở một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ. Sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước đến đời sống tín ngưỡng của người dân, coi đó là "nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân; thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo; giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ
cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân",… các quan
điểm trên thể hiện rõ tại Nghị Quyết số 25/NQ-TW về công tác tôn giáo của Ban
Chấp hành Trung ương bảy khoá IX ngày 12/3/2003 là những yếu tố tác động đến sự
thay đổi của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Những biểu hiện của sự thay đổi đó có thể
nhận diện trên hai xu hướng sau:
105
* Quan phương hoá lễ hội.
Đây là sự thay đổi rõ nét nhất ở nhiều ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ, như lễ
hội chùa Thầy, chùa Láng (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Đại Bi, chùa Cổ
Lễ (Nam Định),... Các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ hiện nay phần lớn đều được
nhà nước xếp hạng di tích, trong đó có ba ngôi chùa được xếp hạng di tích cấp quốc
gia đặc biệt. Lễ hội ở các ngôi chùa này đều có sự tham gia của Ban Quản lý Di tích
và chính quyền địa phương, được thể chế bằng Thông tư số 15/2015/TT-
BVHTTDL của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, ban hành ngày 22/12/2015, quy
định về tổ chức lễ hội. Tại khoản 2 điều 6 quy định:
Thành phần Ban Tổ chức gồm đại diện chính quyền, ngành văn hóa thể thao
và du lịch, công an, y tế, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường, thông
tin và truyền thông, tôn giáo, mặt trận tổ quốc; đại diện ngành đoàn thể hoặc
cá nhân khác có liên quan đến việc tổ chức lễ hội [24].
Ở những ngôi chùa được công nhận di tích cấp quốc gia đặc biệt và di tích
cấp quốc gia như chùa Thầy (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Cổ Lễ (Nam
Định), công tác tổ chức lễ hội do UBND cấp huyện nơi ngôi chùa hiện diện chịu
trách nhiệm, các cơ quan chuyên môn cấp dưới là Phòng Văn hoá và Thông tin,
UBND cấp xã, Ban Quản lý di tích chịu trách nhiệm triển khai thực hiện nhiệm vụ.
Trưởng ban Tổ chức lễ hội ở các ngôi chùa này thường là một vị Phó Chủ tịch
UBND huyện. Hàng năm vào những ngày tổ chức lễ hội, Phòng Văn hoá và Thông
tin huyện cử cán bộ phối hợp với UBND xã, Ban Quản Lý di tích, sư trụ trì và đại
diện cộng đồng dân làng chịu trách nhiệm tổ chức lễ hội.
Ở những ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ khác như: chùa Láng (Hà Nội), chùa Đại
Bi, chùa Nghĩa Xá (Nam Định),… công tác tổ chức lễ hội do UBND xã phối hợp với sư
trụ trì và cộng đồng địa phương thực hiện, trong đó cơ quan chủ trì lễ hội thuộc về
UBND xã.
Sự tham gia của chính quyền biểu hiện trong lễ hội chùa Láng (Hà Nội) như
sau: Lễ hội chùa Láng năm 2018 diễn ra từ ngày 06-08/3 (AL), tức vào ngày 21-
23/4 dương lịch, ngay từ ngày 24/3/2018, UBND phường Láng Thượng đã ra Quyết
định số 49/QĐ-UBND thành lập Ban Tổ chức lễ hội, quyết định này do bà Phạm
Thị Hồng Hải chủ tịch phường ký ban hành. Thành viên trong Ban Tổ chức lễ hội
gồm 20 người, trong đó 16 người là cán bộ, công chức của các cơ quan, ban, ngành,
đoàn thể của phường Láng Hạ, Ni sư Thích Đàm Huyền trụ trì chùa Láng và 03
người đại diện cho cộng đồng dân làng, trong đó 02 người trong Ban Quản lý di tích
và 01 người là Trưởng ban bảo vệ chùa Láng. Trưởng Ban Tổ chức lễ hội là bà
Phạm Thị Hồng Hải - Chủ tịch UBND phường Láng Thượng. Ban Tổ chức lễ hội
có nhiệm vụ: Tổ chức các nghi lễ cúng tế, dâng hương, hoạt động văn hoá, văn nghệ
106
vui chơi truyền thống lành mạnh, chống hoạt động mê tín cờ bạc, bảo đảm an toàn
phục vụ nhân dân về dự lễ hội.
Tiếp đến, ngày 02/4/2018, UBND phường Láng Thượng đã có Kế hoạch số
31/KH-UBND về việc tổ chức lễ hội chùa Láng, trong đó có việc kiện toàn 10 tiểu
ban trực tiếp tham gia phục vụ lễ hội, mỗi tiểu ban gồm từ 3 đến 5 người, trưởng
các tiểu ban đều là thành viên của Ban Tổ chức. Trong đó, sư trụ trì và đại diện của
cộng đồng chịu trách nhiệm phần nghi lễ, kinh phí, hậu cần.
3.3.4.2. Thay đổi về quy mô và hình thức tổ chức lễ hội
Quy mô lễ hội của một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ đã vượt ra khỏi tầm
kiểm soát của cộng đồng cư dân địa phương bởi số lượng du khách đến lễ Thánh và
tham dự lễ hội hàng năm đều rất đông, các bãi gửi xe của Ban Tổ chức không đáp ứng
được nhu cầu của người dân đến tham dự lễ hội còn gửi tràn sang các nhà xe tự phát do
các hộ dân sống gần chùa tổ chức trông giữ, nhà xe nào cũng chật kín phương tiện
trong đó chủ yếu là xe máy, còn xe ô tô thì đỗ trên đê (chùa Keo Thái Bình, Nam
Định), đỗ trên cung đường vào chùa (chùa Thầy, chùa Cổ Lễ). Với số lượng du khách
đông đảo tham gia trẩy hội cùng với các loại phương tiện cá nhân như xe máy, xe ôtô
lớn nên việc kiểm soát, đảm bảo an ninh và vệ sinh môi trường là vô cùng cần thiết.
Chính quyền các địa phương đã thực hiện những nhiệm vụ như phân luồng giao thông,
bảo vệ an ninh trật tự để giảm bớt tệ nạn trộm cắp thường xuyên diễn ra, đảm bảo vệ
sinh môi trường cảnh quan quanh khu vực lễ hội. Tại lễ hội Chùa Thầy năm 2018, việc
đảm bảo an toàn và phân luồng giao thông trong các ngày lễ hội được UBND huyện
Quốc Oai giao nhiệm vụ cho các lực lượng: Thanh tra giao thông, Công an huyện,
Công an xã Sài Sơn, Đoàn Thanh niên xã Sài Sơn, trong đó lực lượng công an huyện là
nòng cốt, phối hợp với lực lượng công an xã Sài Sơn để xây dựng phương án bảo vệ
theo Kế hoạch số 50/KH-UBND, ngày 16/3/2018 [157].
Theo đánh giá của người đi lễ trong quá trình khảo sát, khi được hỏi về tình
hình an ninh trật tự và vệ sinh môi trường diễn ra trong lễ hội, phần lớn trong số họ đều
có nhận định tình hình an ninh trật tự và vệ sinh môi trường tốt. Trong tổng số 457
phiếu khảo sát, có 346/457 người trả lời cho biết họ tham dự lễ hội và có những đánh
giá về tình hình an ninh và vệ sinh môi trường tại cơ sở thờ tự dịp lễ hội như sau:
Bảng 3.9: Đánh giá về tình hình an ninh trật tự và vệ sinh môi trường
Đơn vị tính: phiếu
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH AN NINH TRẬT TỰ TỐT
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH MÔI TRƯỜNG SẠCH SẼ
Đúng Đúng 1phần Không đúng Đúng Đúng 1phần Không đúng
275 64 7 236 102 8 79,5% 18,5% 2,0% 68,2% 29,5% 2,3%
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
107
Với sự hỗ trợ nhiều mặt của chính quyền địa phương trong lễ hội ở một số
ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ cho thấy vai trò của chính quyền là hết sức quan
trọng, góp phần vào sự thành công của lễ hội, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng không
chỉ của người dân địa phương mà còn đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, nhu cầu tham
quan du lịch tâm linh trong mỗi dịp lễ hội của du khách đến từ nhiều địa phương
khác ở vùng đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, trong lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh
tổ chính quyền địa phương chỉ đóng vai trò quản lý, đảm bảo an ninh chịu trách
nhiệm ở vòng ngoài, còn các công việc thuộc về đời sống tín ngưỡng truyền thống
như việc thực hiện các nghi lễ Tế Thánh, lễ Rước, lễ Mộc dục,..., được thực hiện
bởi các vị sư trụ trì và cộng đồng địa phương. Sự tách bạch các nội dung công việc
trong công tác tổ chức lễ hội cho thấy cộng đồng vẫn đóng vai trò quan trọng, các
cá nhân trong cộng đồng đều tham gia và được phân công nhiệm vụ, trách nhiệm rõ
ràng, ai cũng có những phần việc của mình, họ cảm thấy được tôn trọng và không
đứng bên ngoài hay trở thành những nhân tố xa lạ ngay trong chính lễ hội của làng
mình. Mặt khác, sự tham gia của chính quyền trong công tác tổ chức lễ hội cho thấy
những thay đổi trong tư duy, nhận thức và thái độ ứng xử đối với tín ngưỡng, tôn
giáo theo đúng chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Quản lý công đức: Một vấn đề không thể không nhắc tới là chủ thể quản lý tiền
công đức. Ở một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ như chùa Keo Hành Thiện (Nam
Định), chùa Láng (Hà Nội), chùa Đại Bi, chùa Cổ Lễ (Nam Định),… trước đây và hiện
nay chủ thể quản lý nguồn công đức do cộng đồng hoặc sư trụ trì chịu trách nhiệm.
Khác với các ngôi chùa thờ Thánh tổ khác, hiện ở chùa Keo (Thái Bình) có
hai loại hòm công đức khác nhau đồng thời có hai chủ thể quản lý hòm công đức:
Trước đây, chùa Keo (Thái Bình) theo cổ lệ làng Keo được chia thành tám
giáp, gồm bốn giáp Đông là Đông Nhất, Đông Nhì, Đại Hữu và Vọng Đông, bốn
giáp Đoài là Đoài Nhất, Vọng Đoài, Hoàng Quý và Đường Thịnh. Mỗi một giáp có
một ông Trưởng giáp phụ trách về hộ khẩu, số đinh trong làng, kinh phí cho các
hoạt động tế tự và tổ chức lễ hội lấy từ nguồn thu chính là tiền công đức và do các
giáp đóng góp theo suất đinh hoặc do sự hảo tâm của cộng đồng địa phương. Khi có
sư về trụ trì việc quản lý tiền công đức do nhà sư chịu trách nhiệm.
Hiện nay, chùa Keo (Thái Bình) có hai loại hòm công đức, trong đó một hòm
công đức do sư trụ trì quản lý được đặt từ Gác Chuông trở vào đến khu nhà Tổ và
một loại hòm công đức chịu sự quản lý do Ban Quản lý di tích được đặt từ Gác
Chuông trở ra, "một thùng hai gáo". Đã có sự không thống nhất trong quản lý hòm
công đức ở chùa Keo (Thái Bình), điều này cũng đặt vấn đề cho việc quản lý và sử
dụng hòm công đức ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ bởicác ngôi chùa này đều đã
được xếp hạng và chịu sự quản lý của Ban Quản lý di tích theo Luật Di sản. Hiện nay,
108
chưa có sự thống nhất về chủ thể quản lý, chưa có quy định chung cho việc quản lý và
sử dụng tiền công đức ở các ngôi chùa này, mà tuỳ vào đặc thù và thực tế của từng cơ
sở thờ tự mà mỗi địa phương lại có phương án và cách thức quản lý khác nhau.
Vấn đề này không chỉ của riêng các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ mà còn là
vấn đề chung của hầu hết các ngôi chùa ở vùng đồng bằng sông Hồng. Đây là vấn
đề nóng, đang được bàn thảo và nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội với
nhiều ý kiến trái chiều. Để có thể giải quyết rốt ráo, cần có một nghiên cứu chuyên
sâu và sự tham gia của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, của chính quyền các cấp mới
có thể đưa ra phương án giải quyết phù hợp, thống nhất. Dẫu vậy, việc quản lý và
sử dụng tiền công đức phải công khai minh bạch và đúng mục đích, trên cơ sở đảm
bảo cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và trùng tu, tôn tạo cơ sở thờ tự.
* Sân khấu hoá và thương mại hoá không gian lễ hội
Sân khấu hoá và thương mại hoá không gian lễ hội không phải là những thay
đổi mang tính phổ biến hiện nay trong lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, nhưng
những thay đổi này là tất yếu trong quá trình đổi mới. Sự phát triển kinh tế dẫn đến
chuyển đổi nghề nghiệp và sự phát triển của các ngành nghề dịch vụ, sự thay đổi
trong cách nhìn nhận của người dân về lễ hội. Lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
hiện nay không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần mà còn là địa điểm hành
hương, tham quan du lịch, đã làm biến đổi lễ hội từ truyền thống trở nên hiện đại.
Hoạt động văn hoá, văn nghệ: Ở một số lễ hội như lễ hội chùa Thầy, chùa
Láng (Hà Nội) chùa Keo (Thái Bình),… trong quá trình điền dã cho thấy, để phong
phú thêm nội dung chương trình và tạo không khí vui tươi của ngày hội, thu hút
đông đảo du khách tham dự, Ban Tổ chức đã mời các đoàn nghệ thuật về để góp
vui. Lễ hội chùa Thầy (Hà Nội) năm 2017, Ban Tổ chức đã đưa vào chương trình
của lễ hội một số loại hình văn hoá nghệ thuật của các đoàn nghệ thuật không
chuyên trên địa bàn huyện như: trình diễn Hát Dô của xã Liệp Tuyết, trình diễn Hát
Ví Hàm Rồng của xã Tuyết Nghĩa, trình diễn Hát Chèo của xã Đại Thanh và biểu
diễn Tuồng của xã Dương Cốc, hay biểu diễn hát Quan họ trên những chiếc thuyền
diễn ra tại hồ Long Trì. Tại lễ hội chùa Láng (Hà Nội) năm 2018 trong chương trình
của lễ hội, ngoài các nghi lễ truyền thống, các trò chơi dân gian như thổi cơm thi,
bịt mắt bắt dê, cờ tướng, thì có một nội dung không thể thiếu đó là biểu diễn nghệ
thuật phục vụ dân làng và du khách. Vào các buổi tối của các ngày hội đều có sự
tham gia biểu diễn phục vụ của các đoàn nghệ thuật, như vào 20h00’ ngày 06/3
(AL) là buổi biểu diễn văn nghệ ngoài trời của Câu Lạc Bộ phường Láng Trung và
20h00’ ngày 07/3 (AL) là buổi diễn cải lương của Đoàn Cải lương Trung ương. Lễ
hội chùa Keo (Thái Bình) trong khoảng 03 năm trở lại đây vào chiều ngày 13/9
(AL) tại Tam Quan ngoại diễn ra sân khấu biểu diễn chèo một loại hình nghệ thuật
109
đặc sắc của vùng đồng bằng sông Hồng, thu hút không chỉ nghệ sỹ chuyên nghiệp
như nghệ sỹ nhân dân Văn Mỡi của đoàn chèo Thái Bình mà còn thu hút nhiều nghệ
sỹ không chuyên trong các Câu lạc bộ Bạn yêu Chèo của tỉnh Hoà Bình, Hà Nội,
Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng tham dự, ngoài ra còn có các tiết mục văn nghệ
hát giao duyên của các liền anh liền chị.
Hoạt động của các cửa hàng cung cấp dịch vụ: Nắm bắt được nhu cầu của
người đi lễ, không chỉ trong những ngày diễn ra lễ hội mà quanh năm đều có các
cửa hàng cung cấp dịch vụ cho người đi lễ. Tuy nhiên, vào thời điểm lễ hội có nhiều
hơn các cửa hàng cung cấp dịch vụ như cửa hàng bán đồ lễ, viết sớ, trông xe, dịch
vụ ăn uống, dịch vụ đổi tiền lẻ,… rất nhiều cửa hàng được dựng lên tìm kiếm cơ hội
buôn bán và họ bán những gì có thể để đáp ứng nhu cầu của người đi lễ, đây chính
là biểu hiện của mối quan hệ cung cầu trong nền kinh tế thị trường.
Các cửa hàng cung cấp dịch vụ chính thức: Là những quầy hàng có vị trí cố
định, kinh doanh nhiều mặt hàng phục vụ nhu cầu của người đi lễ quanh năm. Tại
chùa Keo (Thái Bình) ngay lối đi vào chùa, giáp bãi để xe, Ban Quản lý di tích xây
một dãy kiôt cho thuê gồm 20 gian, mỗi gian có diện tích vào khoảng 8m2 đó là
những gian hàng cung cấp dịch vụ chính thức. Ở chùa Thầy (Hà Nội) mặc dù không
có dãy kiôt được xây để cho thuê một cách bài bản như ở chùa Keo (Thái Bình),
nhưng xung quanh chùa luôn hiện diện 28 quầy hàng chính thức cung cấp dịch vụ
cho người đi lễ và chịu sự quản lý của Ban Quản lý di tích, chùa Cổ Lễ (Nam Định)
là 10 quầy hàng và hàng năm người thuê phải trả chi phí chỗ ngồi. Trao đổi với
người bán hàng tại chùa Cổ Lễ (Nam Định) được biết giá thuê địa điểm chỗ ngồi là
700.000đ/quầy và số tiền này được trả cho Ban Quản lý Di tích chùa Cổ Lễ.
Các cửa hàng cung cấp dịch vụ không chính thức: Đây là những quầy hàng
dịch vụ có vị trí không cố định, xuất hiện quanh khu vực chùa và chỉ phục vụ vào
thời điểm lễ hội, khi có đông người đi lễ nhất.
Quan sát thực địa, vào dịp lễ hội các quầy dịch vụ này tăng nhanh, ở chùa
Keo Hành Thiện (Nam Định) vào mùa lễ hội năm 2018 có khoảng hơn 50 quầy
hàng phi chính thức vây kín lối vào chùa, xung quanh hồ nước và trước khu vực
Tam quan nội. Chùa Keo (Thái Bình) cũng có đến hàng trăm người bày hàng bán ở
hai bên đường ngay sát chân đê lối dẫn vào chùa, khu Tam quan ngoại. Chùa Thầy
(Hà Nội), chùa Cổ Lễ (Nam Định) và nhiều ngôi chùa khác cũng không tránh khỏi
việc xuất hiện của các quầy hàng phi chính thức kiểu này.
Như vậy, lễ hội ở một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ một phần nào đó đã có
sự chuyên môn hoá cao do sự phát triển của các ngành nghề dịch vụ đáp ứng nhu cầu
về mọi mặt của người dân trong thời kỳ kinh tế thị trường và có những tác động
không nhỏ đến khâu tổ chức lễ hội hiện nay. Sự thay đổi đó mang hơi thở của cuộc
110
sống hiện đại là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thị trường nhưng ít nhiều đã làm
giảm đi ý nghĩa và giá trị tâm linh, ảnh hưởng đến không gian thiêng và môi trường
xung quanh ngôi chùa.
3.3.4.3. Thay đổi về thời gian, không gian tổ chức lễ hội
Nhìn một cách khách quan và tổng quát, thời gian, phạm vi tổ chức lễ hội ở
các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ vùng đồng bằng sông Hồng ngày càng có xu
hướng mở rộng. Hầu hết lễ hội liên quan đến Tứ vị Thánh tổ hiện nay không còn bó
hẹp trong phạm vi làng mà đang trở thành lễ hội liên làng, lễ hội của cả huyện, thậm
chí là lễ hội của cả vùng.
- Về thời gian tổ chức lễ hội: Ở một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ như
chùa Láng (Hà Nội), chùa Nghĩa Xá (Nam Định) trước đây lễ hội không được tổ
chức thường xuyên. Theo cổ lệ, lễ hội chùa Láng được tổ chức vào những năm mưa
thuận, gió hoà, mọi gia đình trong làng được ấm no khi ấy làng mới mở hội và cứ 12
năm một lần làng mở hội lớn, hay chùa Nghĩa Xá (Nam Định) vào các năm Tý, Ngọ,
Mão, Dậu lễ hội mới diễn ra nghi lễ rước kiệu các Thánh ra toà Giải Vũ. Ở một số ngôi
chùa khác như chùa Thầy (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Cổ Lễ, chùa Keo
Hành Thiện (Nam Định), lễ hội thường được tổ chức từ 3 ngày đến 5 ngày.
Từ những năm 2003 trở lại đây, có nhiều lễ hội ở vùng đồng bằng sông Hồng
thay đổi theo xu hướng rút ngắn thời gian tổ chức, nếu như trước đây các lễ hội này
thường tổ chức từ 2 đến 5 ngày, cá biệt có lễ hội kéo dài đến 15 ngày như lễ hội tại
Đền Đức Lý Thái Hậu Ỷ Lan ở thôn Phú Thị (Phú Diễn, Hà Nội), hiện nay rút ngắn
lại chỉ còn tổ chức trong 3 ngày, từ ngày 01 đến 03/3 (AL) [144, tr.149], hay lễ hội ở
Đình Kim Ngân phố Hàng Bạc trước đây lễ hội mùa xuân thường tổ chức trong 12
ngày, từ ngày 01-12/2 (AL), hiện nay lễ hội rút ngắn thời gian tổ chức xuống còn 5
ngày, từ ngày 01- 05/2 (AL) [123]. Lý do rút ngắn thời gian bởi sự chi phối của nhịp
sống công nghiệp, do sự chuyển đổi nghề nghiệp, người dân rời quê hương đi làm ăn
xa ở các địa phương khác, hoặc trở thành công nhân ở các công ty, xí nghiệp quy
định nghiêm ngặt về thời gian làm việc. Phần lớn người tham dự các lễ hội trên chủ
yếu vẫn là cộng đồng địa phương chưa có sự mở rộng thu hút đông người dân ở các
khu vực khác đến tham dự lễ hội, vì thế việc rút ngắn thời gian lễ hội nhằm phù hợp
với điều kiện thực tiễn.
Ngược lại với một số lễ hội nêu trên, lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở các
ngôi chùa được tổ chức thường xuyên hàng năm, thời gian tổ chức có xu hướng kéo
dài như: Lễ hội chùa Láng từ năm 1993 trở lại đây đã tổ chức hàng năm, thời gian
mở hội trong ba ngày từ ngày 06/3 đến 08/3 (AL) trong đó mùng 7/3 là ngày hội
chính. Lễ hội ở các ngôi chùa khác đều có xu hướng kéo dài thời gian tổ chức lễ hội
như lễ hội chùa Keo (Thái Bình), lễ hội chùa Keo Hành Thiện (Nam Định) được tổ
111
chức từ ngày 10/9 đến ngày 16/9 (AL) hàng năm nhưng dư âm của phần lễ vẫn còn
kéo dài đến tận 20/9 (AL), trong những ngày này vẫn có đông du khách về tham
quan, lễ Thánh. Đặc biệt, từ năm 2017, lễ hội chùa Thầy (Hà Nội) được nâng cấp
thành mùa Lễ hội, kéo dài từ tháng 1 (AL) đến tháng 3 (AL), trong đó chính hội vẫn
là các ngày 05-07/3 (AL). Việc nâng cấp lễ hội chùa Thầy không chỉ phục vụ nhu
cầu tín ngưỡng của người dân trên địa bàn và du khách mà còn hướng tới mục đích
đưa chùa Thầy trở thành điểm đến của tour du lịch tâm linh của huyện Quốc Oai,
kết nối với các điểm đến khác trong quần thể di tích quốc gia đặc biệt chùa Thầy.
Việc kéo dài thời gian tổ chức lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ mang tính
hai mặt: Mặt tích cực, đáp ứng và thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng cho người dân và
du khách, là môi trường giáo dục truyền thống và văn hoá dân tộc cho thế hệ trẻ
đồng thời cũng là môi trường gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá tín ngưỡng, tôn
giáo tích cực, thu hút đông đảo du khách tới tham quan chiếm bái, tăng nguồn thu
cho địa phương. Tuy nhiên cũng có những hạn chế nhất định, như sự xô bồ ở chốn
tâm linh, nhiều dịch vụ ăn theo làm dung tục, tầm thường hoá lễ hội, sự hao tốn về
tiền bạc và thời gian của xã hội.
- Thay đổi về phạm vi không gian tổ chức lễ hội: Trước đây, các ngôi chùa thờ
Tứ vị Thánh tổ đều là những chốn tâm linh thanh tịnh, tĩnh mịch, được dựng ở ngoài
làng xa khu dân cư và có diện tích lớn. Nay, do quá trình đô thị hoá nhanh khiến
không gian tổ chức lễ hội, cảnh quan nhiều ngôi chùa bị thay đổi. Chùa Láng (Hà
Nội) vốn là ngôi chùa được coi là đệ nhất tùng lâm của chốn kinh kỳ, có cảnh quan
kiến trúc đẹp nằm ẩn mình trong những lùm cây cổ thụ lớn, không gian tĩnh mịch, tạo
cho ngôi chùa vẻ đẹp thâm nghiêm và tĩnh lặng, đến nay do quá trình đô thị hoá
nhanh ngôi chùa từ chốn tĩnh lặng ra "mặt tiền" của phố Chùa Láng, một trục đường
giao thông khá đông đúc và sầm uất của quận Đống Đa, Hà Nội. Quá trình đô thị hoá
đã không chỉ làm giảm đi sự tôn nghiêm, làm cho ngôi chùa trở nên lạc lõng giữa các
công trình dân dụng được xây dựng với kiến trúc hiện đại, mà còn làm mất đi nhiều
giá trị văn hoá.
Nếu như trước đây, lễ hội chùa Láng (Hà Nội) tổ chức nghi lễ rước Thánh từ
chùa Láng sang chùa Hoa Lăng để thăm thân phụ và thân mẫu, trong lễ rước còn có
nghi thức "độ hà", đó là người rước kiệu Thánh phải lội qua sông Tô, đoạn cống
Cót, bởi theo truyền thuyết đây là chỗ Pháp sư Đại Điên ném xác Thân phụ Từ Vinh,
vì thế đức Thánh không được bước qua mộ cha mà phải lội xuống sông. Ngoài ra,
còn có trò "đấu pháo" giữa làng Láng (nơi thờ Thánh Từ) và làng Vòng Tiền (nơi thờ
pháp sư Đại Điên),.., nhưng nhiều năm trở lại đây, nghi lễ này đã không còn được
diễn ra. Có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính vẫn là quá trình đô thị hoá
đã thu hẹp không gian lễ hội, đường xá đi lại đông đúc, chật hẹp nên không thể tổ
112
chức nghi lễ một cách bài bản và trang nghiêm. Hiện nay, vào mỗi dịp lễ hội dân làng
cắt cử người bưng lễ sang dâng lên thân phụ và thân mẫu của Thánh Từ đang được
thờ tự ở chùa Hoa Lăng.
Chùa Keo (Thái Bình) trước đây được dựng trên khu đất rộng 58.000m2 gồm
21 công trình, 154 gian, không gian thờ tự được hạn định bằng những hàng cây gạo,
đến nay chùa Keo (Thái Bình) chỉ còn 17 công trình với diện tích 2022m2, hàng cây
gạo là ranh giới của không gian thờ tự cũng đang dần mất đi.
Mặt khác, sự gia tăng dân số cũng là một nguyên nhân dẫn đến không gian lễ
hội, cảnh quan ngôi chùa bị thu hẹp, làm thay đổi không gian thiêng, ở nhiều ngôi
chùa sự lấn chiếm của nhà dân vào không gian tâm linh rất thô bạo như ở chùa
Láng, chùa Lý Quốc sư (Hà Nội), ngoài ra các hàng quán mọc lên xâm lấn không
gian thiêng như ở chùa Thầy (Hà Nội), chùa Keo Hành Thiện (Nam Định),….
Sự thay đổi không gian thiêng theo hướng thu hẹp là điều tất yếu hiện nay
bởi quá trình đô thị hoá, song sự thay đổi này đã ảnh hưởng đến việc thực hành tín
ngưỡng của người dân nhất là vào dịp lễ hội, làm giảm giá trị văn hoá. Ở một số lễ
hội đã biến mất một số nghi thức đặc sắc thể hiện bản sắc văn hoá truyền thống
không chỉ của người dân địa phương mà là bản sắc văn hoá của vùng đồng bằng
sông Hồng như lễ hội chùa Láng (Hà Nội) mà luận án đã trình bày ở trên.
3.3.5. Thay đổi lễ vật dâng cúng
Có lẽ thay đổi dễ dàng nhìn nhận nhất là lễ vật dâng cúng Tứ vị Thánh tổ, sự
thay đổi trong lễ vật dâng cúng diễn ra theo hai xu hướng:
Thứ nhất, xu hướng đa dạng về vật phẩm: Nếu như trước đây lễ vật dâng
cúng Thánh là những sản vật địa phương truyền thống như: hoa quả, xôi, oản, lễ
mã,… hiện nay trong nhiều mâm lễ dâng Thánh của cả cộng đồng và cá nhân thực
hành nghi lễ đều còn có thêm những lễ vật mang hơi thở của cuộc sống đương đại.
Có thể dễ dàng tìm thấy các lễ vật hiện đại trong các mâm lễ vật như: lễ quả mầu
sắc và đa dạng hơn, nhiều loại quả có xuất xứ từ nhiều vùng, miền trong cả nước,
nhiều loại quả được du nhập từ nước ngoài như quả táo úc, lê hàn quốc, nho mỹ,
xoài thái. Các chủng loại bánh kẹo cũng phong phú và đa dạng có xuất xứ từ trong
nước đến ngoài nước đều được đưa vào mâm lễ để dâng Thánh. Trong nhiều mâm
lễ dâng Thánh còn có các lon nước uống - một sản phẩm của thời kỳ hiện đại như
Coca, bò húc, bia Heniken,..., mọi người đều muốn soạn sửa lễ vật sao cho chu đáo
nhất phù hợp với điều kiện kinh tế của từng người đi lễ theo quan niệm "Trần sao
âm vậy".
Ngoài ra, xu hướng đa dạng về vật phẩm còn thể hiện trong cách bài trí lễ
vật, nếu như trước đây, người dân thường đặt lễ vật của mình vào các đĩa, hoặc
mâm để dâng Thánh thì hiện nay, việc bài trí đó còn được bổ sung thêm bằng những
113
giỏ lễ, đó là những giỏ tre được đan lát thành các hình vuông, tròn, bầu dục có quai
xách, được bọc giấy bóng kính cầu kỳ, cẩn thận và rất đẹp, bên trong đặt nhiều loại
vật phẩm dâng cúng từ hoa quả, bánh kẹo, hộp trà, hộp cà phê Trung Nguyên,...
Thứ hai, xu hướng đơn giản và tiện dụng: thể hiện ở việc mua sẵn hay đặt
làm sẵn các lễ vật dâng Thánh kể cả các lễ vật dâng cúng chính như bánh chưng,
bánh dầy. Không thể không nhắc đến những cửa hàng chuyên biệt, cung cấp lễ vật
để dâng Thánh. Trong lễ hội chùa Keo Hành Thiện (Nam Định), lễ vật dâng Thánh
không thể thiếu bánh dầy được làm từ những hạt xôi dẻo, thơm, trước đây, mỗi khi
làng vào hội, người dân đều tự tay chuẩn bị lễ vật, nhưng hiện nay đã có những cơ
sở chuyên làm bánh dầy xôi cung cấp cho lễ hội. Ông Vũ Văn Hưng, Ban Bản tự
chùa Keo Hành Thiện (Nam Định) cho biết, từ nhiều năm nay lễ vật bánh dầy xôi
dâng Thánh không còn do người dân làng Keo tự làm mà thường được đặt ở các cửa
hàng cung cấp dịch vụ. Do điều kiện thời gian hạn hẹp, lớp trẻ hiện nay không quan
tâm nhiều đến việc chuẩn bị lễ vật, ngại làm, làm lại không được đẹp, không được
ngon như các cửa hàng chuyên nghiệp. Tại chùa Thầy (Hà Nội), lễ vật dâng Thánh
của các thôn như Thuỵ Khuê, Đa Phúc, Khánh Tân, cũng không thể thiếu bánh dầy
và hầu hết lễ vật này đều được đặt bởi các cửa hàng chuyên cung cấp. Vì thế các
cửa hàng cung cấp đồ lễ dâng Thánh có mặt trong khâu tổ chức lễ hội như một tất
yếu trong bối cảnh hiện nay.
Có thể nhận thấy những thay đổi của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là một điều
tất yếu. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là một thực thể, tồn tại và chịu sự tác động, chi
phối của các thực thể khác và ngược lại nó cũng tác động chi phối các thực thể khác
trong xã hội. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ không bất biến mà luôn có sự vận động thay
đổi qua từng giai đoạn lịch sử với những sắc thái mới để phù hợp hơn với hiện thực
xã hội và đời sống tín ngưỡng của người dân vùng đồng bằng sông Hồng.
Có một nhà nghiên cứu đã viết, trong tâm thức dân gian Thánh luôn được đặt
ngang hàng với Phật, hai thế lực Phật - Thánh có tác động sâu sắc đến đời sống tín
ngưỡng của người Việt, Phật giải quyết những vấn đề của con người sau khi chết, còn
Thánh giải quyết những vấn đề của con người khi sống. Sống - Chết là hai vấn đề
luôn được quan tâm của mỗi con người [95, tr.98]. Nhận thức Phật - Thánh là hai đối
tượng thiêng và ngang hàng nhau trong tâm thức dân gian là không sai, bởi dân gian
quan niệm Phật và Thánh đều là những vị Thần. Tuy nhiên, dưới góc nhìn tôn giáo
học, trong quan hệ của Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong trường hợp Tứ vị
Thánh tổ thì Phật và Thánh lại không thể ngang hàng, bởi Phật là bậc giác ngộ cao
nhất, Thánh có vị thế thấp hơn Phật và thực tế việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ ở các
ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng cũng thể hiện rõ điều đó là "tiền Phật, hậu
Thánh". Nếu Phật chỉ giải quyết vấn đề sau khi chết thì không đúng với tư tưởng Phật
114
giáo, bởi Phật giáo với tư tưởng "Phật pháp bất ly thế gian" nên Phật giáo quan tâm
giải quyết vấn đề của con người ngay cả lúc sống và lúc chết có nghĩa ngay cả hiện
tại và tương lai. Thuyết nhân quả của Phật giáo cho chúng ta biết rõ điều đó.
Tiểu kết chương 3
Chương 3 của luận án đã chỉ ra thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một
số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng, do giới hạn của phạm vi nghiên cứu, luận
án không tìm hiểu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở Đình, Đền dưới góc độ là Thành
Hoàng hoặc Tổ nghề mà chỉ nghiên cứu ở một số ngôi chùa tiêu biểu. Từ phương
pháp luận của tôn giáo học cho thấy tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là sự pha trộn, tiếp
biến của nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, trải qua thời gian gần một nghìn
năm đã hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản sắc văn hóa riêng của Phật giáo kết
hợp với Tín ngưỡng dân gian bản địa.
Luận án đã làm rõ niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ, thực hành và biến đổi của tín
ngưỡng trong bối cảnh hiện nay. Phần nghiên cứu về niềm tin của người dân đối với
tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ hết sức mới mẻ, mang tính mở đầu. Niềm tin vào Tứ vị
Thánh tổ của người dân vùng đồng bằng sông Hồng là những định hướng giá trị
vững chắc được biểu hiện qua nhận thức, qua sự tự thừa nhận, qua những trải
nghiệm linh thiêng và qua thực hành nghi lễ của cộng đồng và cá nhân tại các ngôi
chùa thờ Tứ vị Thánh tổ. Đặc điểm nổi bật trong niềm tin đối với Tứ vị Thánh tổ là
tính ổn định và chịu ảnh hưởng của các yếu tố như phong tục thờ cúng, truyền
thống địa phương.
Đối với những thực hành tín ngưỡng, luận án không chỉ nghiên cứu những
thực hành nghi lễ của cộng đồng đã trở thành truyền thống được lưu truyền qua
nhiều thế hệ và trở thành những khuôn mẫu được thực hiện vào lễ hội hàng năm, mà
còn nghiên cứu những thực hành nghi lễ của các cá nhân, đó là những người dân họ
không chỉ đến từ ngay chính địa phương nơi hiện diện ngôi chùa mà họ còn đến từ
các tỉnh, thành khác ở vùng đồng bằng sông Hồng và từ nhiều tỉnh, thành phố khác
trong cả nước. Các cá nhân có những thực hành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ theo
cách riêng, nhằm phục vụ nhu cầu tinh thần của chính bản thân họ và những thực
hành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một khía cạnh nào đó có thể coi là sự "bảo hiểm"
cho cuộc sống.
Đất nước đã có những chuyển mình đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đã làm
thay đổi sâu sắc đời sống của người dân trên cả hai khía cạnh vật chất và tinh thần,
bản thân những thực hành của cộng đồng vốn đã là những giá trị văn hoá được định
hình và tồn tại từ nhiều thế kỷ cũng phải đối diện với những thách thức và có những
thay đổi cho phù hợp với điều kiện thực tiễn, đã làm cho tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
có những biến đổi, trở nên thích hợp hơn đối với đời sống đương đại.
115
Chương 4
ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY
4.1. MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM CỦA TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ
4.1.1. Tạo lập vùng địa lý
Hơn 50 ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ, được phân bố: Hà Nội có 17 chùa, Thái
Bình có 7 chùa, Nam Định có 16 chùa, Ninh Bình có 7 chùa, ngoài ra còn 7 ngôi chùa
phân bố ở các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, Bắc Giang, Hà Nam. Như vậy, địa
bàn phân bố trải khắp vùng đồng bằng sông Hồng. So sánh chung trong cả nước, tín
ngưỡng Tứ vị Thánh tổ chỉ hình thành và phát triển trong môi trường văn hoá-lịch
sử của vùng đồng bằng sông Hồng, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Hà Nội, Thái Bình,
Nam Định, Ninh Bình, tạo nên vùng tín ngưỡng độc đáo, bởi:
Thứ nhất, đồng bằng sông Hồng là cái nôi của người Việt cổ, nơi hình thành,
nuôi dưỡng tâm hồn và văn hoá Việt, chịu sự chi phối bởi các yếu tố về tự nhiên và
văn hoá xã hội, đồng thời đây cũng là nôi Phật giáo truyền vào Việt Nam từ xa xưa.
Xét về mặt tự nhiên, nơi đây hội tụ những yếu tố thuận lợi cho việc canh tác, phát
triển nền nông nghiệp, người dân nơi đây chính là những cư dân nông nghiệp trồng
lúa nước. Với điều kiện sản xuất họ phụ thuộc vào tự nhiên, thời tiết, trong bối cảnh
điều kiện khoa học chưa phát triển, tự nhiên chính là yếu tố quan trọng để đảm bảo
cho mùa màng được tươi tốt, cuộc sống được ấm no, sung túc. Chính vì vậy, trong
tâm thức dân gian họ thờ phụng các vị Thánh để cầu cho mưa thuận, gió hoà, mùa
màng được bội thu. Mặt khác, ngoài những lúc nông nhàn người dân nơi đây còn
làm các ngành nghề thủ công, chính các vị Thánh là những ông tổ nghề, khai sáng
và truyền dạy nghề cho cư dân vùng đồng bằng sông Hồng như nghề múa rối, nghề
đúc đồng, nghề đánh cá (Từ Đạo Hạnh là ông tổ nghề múa rối; Nguyễn Minh
Không là ông tổ của nghề đúc đồng). Trên cơ sở đó từ những vị thiền sư của Phật
giáo, các vị đã trở thành những vị Thánh trong tín ngưỡng dân gian, những vị Thành
Hoàng hoặc những ông Tổ nghề, phù trợ cho đời sống tâm linh của cư dân vùng
đồng bằng sông Hồng.
Xét về phương diện lịch sử - xã hội, vùng đồng bằng sông Hồng là cái nôi
của văn minh Đại Việt, là nơi hình thành và nuôi dưỡng văn hoá Việt, nhưng đây
cũng là vùng đất luôn chịu sự nhòm ngó của các thế lực phương Bắc, luôn phải
đương đầu với các âm mưu đồng hoá về mặt văn hoá, chính trị, trên cảm quan đó cư
dân nơi đây luôn có nhu cầu sáng tạo nên những giá trị, bản sắc văn hoá riêng, tất cả
đều được thể hiện qua đời sống tinh thần và sinh hoạt văn hoá của cộng đồng. Các
116
ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ tạo nên nét bản sắc văn hoá truyền thống riêng biệt
của người Việt ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Thứ hai, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là sản phẩm của sự kết hợp giữa các hình
thức tín ngưỡng dân gian của người Việt và Phật giáo ra đời dưới thời nhà Lý, có
mặt ở nhiều tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng nhưng có sự đậm, nhạt khác
nhau, trong đó vùng đậm đặc tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ tập trung ở 4 tỉnh Hà Nội,
Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình là nơi các vị sinh, hóa, tu hành thành đạo, sự ảnh
hưởng của mỗi vị Thánh dừng lại ở một không gian nhất định, gắn bó với các yếu tố
lịch sử, văn hoá và sự phát triển của vùng đất và nhóm cư dân tại đây, trở thành một
hiện tượng tín ngưỡng địa phương.
Nhìn về lịch sử, trước khi hình thành nên tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở vùng
đồng bằng sông Hồng đã tồn tại nhiều dạng tín ngưỡng khác được xác lập vị trí như
tín ngưỡng thờ Tứ Pháp với những ngôi chùa thờ Pháp Vũ, Pháp Vân, Pháp Lôi,
Pháp Điện được phân bố ở vùng Thuận Thành, Bắc Ninh và kéo dài thành một vệt
từ Bắc Ninh sang Hưng Yên, Hà Nội (một số huyện ngoại thành như Gia Lâm,
Thanh Trì, Thường Tín). Tiếp đến các tỉnh thành khác như Hưng Yên lại là trung
tâm của tín ngưỡng thờ Chử Đồng Tử - một hình thức thờ thủy thần, cốt lõi là tín
ngưỡng ngư nghiệp với ảnh hưởng từ yếu tố văn hoá vùng cửa sông, phù hợp với
môi trường sông nước. Tương tự như vậy, ở Hải Dương là dải đất của thần Đông
Hải Đại Vương được hội nhập vào một vị tướng giỏi thời Lý là Đoàn Thượng, lên
đến vùng Sơn Tây, Ba Vì lại là nơi ngự trị của đức Thánh Tản Viên, với một vùng
ảnh hưởng rộng và lâu đời, phản ánh tâm thức về sự hình thành lãnh thổ của người
Việt lúc bắt đầu khai phá vùng đồng bằng sông Hồng. Các vùng đất như Thái Bình,
Nam Định, Ninh Bình và một số huyện đồng bằng như Quốc Oai của Hà Nội chưa
thấy xuất hiện các vị Thánh có quyền năng tối thượng ngự trị, vì thế Tứ vị Thánh tổ
được thờ chủ yếu ở các địa bàn này và đã tạo lập được vùng địa lý riêng, có sức ảnh
hưởng và vai trò lớn đối với người dân nơi đây.
Thứ ba, việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ mang nét riêng và riêng rẽ, mỗi vị
Thánh có một vùng ảnh hưởng riêng của mình. Từ Đạo Hạnh với vùng ảnh hưởng
từ chùa Thầy qua xã Ngãi Cầu về chùa Láng (Hà Nội) sang đến Như Quỳnh của
tỉnh Hưng Yên, đây được coi là địa bàn của Thánh Từ bởi các ngôi chùa như chùa
Thầy, chùa Láng (Hà Nội), chùa Ông (Hưng Yên) đều lấy việc thờ thánh Từ Đạo
Hạnh làm trung tâm, dù thờ Thánh Từ Đạo Hạnh độc lập hay phối thờ với Dương
Không Lộ và Nguyễn Giác Hải như chùa Tổng (La Phù, Hoài Đức), Chùa Múa
(Dương Nội, Hà Đông),… thì tượng Thánh Từ Đạo Hạnh bao giờ cũng được đặt ở
chính giữa. Với người dân các vùng này khi được hỏi về tiểu sử của các vị Thánh
được thờ phụng thì họ thường có hiểu biết cụ thể, chi tiết về Thánh Từ Đạo Hạnh
117
còn hai vị Thánh là Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải thì sự hiểu biết rất sơ
lược, chỉ biết là ba người kết bạn và cùng vân du Tây trúc cầu đạo. Trên dải đất
Thái Bình, Nam Định người dân nơi đây lại truyền tụng công lao to lớn của Thánh
Không Lộ, trong tâm thức của họ Thánh Không Lộ là người anh hùng, đã dậy dân
nghề chài lưới, đánh cá trên sông nước, để lại những dấu chân khổng lồ qua những
ngày đi đơm đó, những ngày gánh nước bằng đôi giành khổng lồ để tưới cho ruộng
đồng giúp dân khắp vùng Trấn Sơn Nam Hạ chống hạn. Vì thế với người dân vùng
Thái Bình, Nam Định, tất cả những gì tốt đẹp nhất, kính trọng nhất đều dành cho
Thánh, với họThánh Không Lộ là người giỏi nhất.
Sự thờ phụng mang tính riêng rẽ được thể hiện qua sự phân bố của các ngôi
chùa thờ các Thánh như: Hà Nội (bao gồm cả Hà Tây cũ) có 17 ngôi chùa đối tượng
thờ chính là Từ Đạo Hạnh (có 8 ngôi chùa thờ sư độc lập và 9 ngôi chùa phối thờ
với Dương Không Lộ và Nguyễn Giác Hải, và Từ Đạo Hạnh luôn ở vị trí thờ chính
giữa bởi sư được suy tôn là người anh cả). Mặc dù có nhiều ngôi chùa thờ Từ Đạo
Hạnh nhưng việc thờ phụng Thánh được quy tụ về hai ngôi chùa chính là chùa Láng
(nơi sinh) và chùa Thầy (nơi hoá). Dương Không Lộ được thờ chủ yếu ở các tỉnh
Thái Bình và Nam Định, tại hai tỉnh này có 10 ngôi chùa thờ sư một cách độc lập và
2 ngôi chùa phối thờ với Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Giác Hải. Nguyễn Minh Không
được thờ ở nhiều ngôi chùa trải rộng trên khắp các tỉnh, phần lớn các ngôi chùa đều
thờ sư độc lập: Hà Nội: 2 ngôi, Thái Bình 5 ngôi, Nam Định 4 ngôi, Ninh Bình 5
ngôi, còn ở các tỉnh khác như: Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nam có 7 ngôi
chùa. Nguyễn Giác Hải chủ yếu được phối thờ với các vị Từ Đạo Hạnh và Dương
Không Lộ, chưa khảo sát thấy có ngôi chùa nào thờ sư độc lập nhưng nơi thờ sư chủ
yếu vẫn ở hai tỉnh Nam Định và Ninh Bình. Có thể nhận thấy, Hà Nội (thờ Từ Đạo
Hạnh), Nam Định, Thái Bình (thờ Dương Không Lộ và Nguyễn (Lý) Giác Hải), Nam
Định, Ninh Bình (thờ Nguyễn Minh Không), bởi đây là quê hương, đồng thời cũng là
nơi các sư tu hành thành đạo, mỗi vị Thánh đã tạo ra một vùng quang phổ văn hoá
khá rộng lớn (Xem phụ lục 1).
Từ việc thờ riêng rẽ Tứ vị Thánh tổ như vậy dẫn đến lễ hội tín ngưỡng tại
các ngôi chùa cũng có những đặc trưng riêng, biểu hiện cho riêng vị Thánh được
thờ phụng. Ví như các ngôi chùa thờ Từ Đạo Hạnh riêng hay phối thờ với cả hai vị
Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải thì lễ hội của tất cả các ngôi chùa này đều diễn
ra vào tháng 3 (AL), trong đó chính hội phần lớn rơi vào ngày mùng 7 (AL) vì
tương truyền đây là ngày sinh của Thánh Từ Đạo Hạnh. Trong ngày hội luôn diễn ra
các trò múa rối mà không thấy sự có mặt của trò bơi chải như các ngôi chùa thờ
Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không, điều này chứng tỏ sự ảnh hưởng mạnh
mẽ của Từ Đạo Hạnh đối với người dân địa phương. Tương tự như vậy, trên vùng
118
đất Nam Định và Thái Bình lại truyền tụng công lao to lớn của Thánh Dương
Không Lộ, trong tâm thức của họ, Thánh đã dậy cho dân đánh cá, trồng lúa, đem lại
cuộc sống ấm no hạnh phúc. Ở những ngôi chùa thờ Thánh Không Lộ, lễ hội
thường được tổ chức vào tháng 9 (AL) hàng năm, tuy có sự khác nhau về quy mô tổ
chức hay nghi thức nhưng không thể thiếu trò đua chải nét đặc trưng của các ngôi
chùa thờ Thánh Dương Không Lộ. Còn đối với Thánh Giác Hải, ở những ngôi chùa
thờ Thánh lễ hội cũng thường được tổ chức vào cuối tháng 2 hoặc đầu tháng 3 (AL)
hàng năm (Chùa Nghĩa Xá, chùa Tây Lạc) và ở các ngôi chùa thờ Thánh khi lễ hội
diễn ra đều không thể thiếu trò Vật chầu Thánh. Còn trên vùng đất Nam Định, Ninh
Bình lại truyền tụng công lao của Nguyễn Minh Không với việc dạy dân nghề đúc
đồng, đồng thời là một vị thần y chữa bệnh cho dân. Qua lễ hội cũng thể hiện những
phong tục liên quan hoặc gắn bó với vị Thánh được thờ phụng, điều này giúp hiểu
rõ hơn về sự hình thành cư dân, vai trò, vị trí của các Thánh trong đời sống tinh thần
của người dân địa phương. Mặc dù việc thờ phụng các vị Thánh khác nhau, thời
gian mở hội, hình thức biểu hiện của nghi thức, nghi lễ cũng không giống nhau
nhưng có sự đồng nhất về bản chất và mục đích của các nghi thức, nghi lễ, trò diễn
trong lễ hội, liên quan mật thiết tới đời sống của cư dân nông nghiệp, thể hiện sự
mong ước, sự cầu xin của con người tới vị Thánh mà họ thờ phụng như cầu mưa,
cầu tạnh, cầu cho mùa màng được phong đăng hoà cốc, nhân khang, vật thịnhvà thể
hiện sự biết ơn của dân làng đối với vị Thánh bảo trợ cho cộng đồng.
4.1.2. Hình thành hệ thống cơ sở thờ tự độc đáo ở vùng đồng bằng sông Hồng
4.1.2.1. Về kiến trúc, bố cục mặt bằng
Hầu hết các ngôi chùa đều nằm cạnh các con sông lớn như sông Hồng, sông
Thái Bình, sông Ninh Cơ như chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành Thiện (Nam
Định,) chùa Ông (Hưng Yên),…, đều hướng mặt ra sông, hoặc soi mình xuống hồ
nước rộng như Chùa Thầy (Hà Nội), đây cũng là nét đặc trưng của các ngôi chùa
thờ Thánh và có thể coi đó chính là nét "phong thuỷ" Việt [151, tr.28-29].
Một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ được quay về hướng Nam như chùa Đại
Bi (Nam Định), chùa Keo (Thái Bình), chùa Thầy (Hà Nội),…, đối với Phật giáo
hướng Nam được coi là hướng Bát Nhã, hướng của trí tuệ phát triển thiện toàn, còn
trong dân gian cho rằng hướng Nam là hướng tốt "lấy vợ hiền hoà, làm nhà hướng
Nam", đây cũng là hướng đề cao và là hướng để người dân cầu viện đến sức mạnh
của các Thánh.
Đa phần các ngôi chùa này đều có quy mô kiến trúc khá lớn, trong khuôn
viên có nhiều hạng mục công trình đảm nhận các chức năng khác nhau, tiêu biểu
hơn cả là bố cục mặt bằng theo kiểu "nội Công ngoại Quốc", với hai hạng mục thờ
tự chính là Điện Phật và Điện Thánh, về kiến trúc thì hai hạng mục công trình này
119
liên kết với nhau thành một thể, còn về chức năng tôn giáo lại là hai cụm khác nhau
bởi nếu tách hẳn Điện Thánh với Điện Phật bản thân nó đã hội đủ các yếu tố của
một ngôi Đền hay một ngôi Đình, tuy nhiên sự kết hợp Điện Phật và Điện Thánh
trong một không gian thờ tự đã hình thành nên loại chùa độc đáo ở khu vực đồng
bằng sông Hồng đó là dạng chùa tiền Phật, hậu Thánh. Bố cục này phản ánh quan
niệm Phật Điện giản dị, Thánh Điện linh thiêng, huyền bí tạo ra một cõi tiên giới
trên phàm trần và thể hiện sự uy nghi, tôn nghiêm của tín ngưỡng thờ Thánh. Loại
hình chùa tiền Phật, hậu Thánh khác biệt so với loại hình chùa chỉ thuần tuý thờ
Phật, loại hình chùa tiền Phật, hậu Mẫu (chùa Chuông) hoặc loại hình chùa tiền
Thần hậu Phật (chùa Dâu, chùa Đậu). TS Nguyễn Văn Tiến có lý khi cho rằng kiến
trúc của ngôi chùa dạng"tiền Phật, hậu Thánh" là sản phẩm của Mật giáo, bởi các
ngôi chùa này phần lớn thờ những vị trong hoạt động tôn giáo thường sử dụng pháp
thuật như phù chú, gọi gió, cầu đảo, chữa bệnh [136]. Mặc dù hiện nay vẫn chưa có
tài liệu khảo cổ hay một công trình nghiên cứu nào chỉ rõ hoặc xác định chính xác
về niên đại khởi dựng loại hình chùa "tiền Phật, hậu Thánh" nhưng trong tư liệu thư
tịch văn bia và những dấu tích vật chất còn lưu giữ ở các ngôi chùa và trong nhiều
tư liệu gián tiếp cho biết các ngôi chùa dạng này được khởi nguồn từ thời Lý và
chùa Thầy là ngôi chùa đầu tiên của loại chùa này, các nhân vật được thờ phụng
chính là các vị sư thời Lý như Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải,
Nguyễn Minh Không, sau này đến thời Trần loại hình chùa này tiếp tục phát triển
với việc thờ Thánh Bối Nguyễn Bình An ở chùa Bối Khê. Có thể ngay từ lúc ban
đầu quy mô Điện Thánh không hiện hữu như hiện nay nhưng chắc chắn việc thờ
Thánh đã được chú trọng.
Thế kỷ XVII, Nho giáo ngày càng đi vào giáo điều, chế độ phong kiến Việt
Nam bước vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, nội chiến liên miên, đời sống tinh
thần bị khủng hoảng, Chúa Trịnh - Nguyễn đều không phải là những người uyên
thâm Phật học nhưng cũng đã quy hướng về Phật giáo và lấy Phật giáo làm điểm
tựa tinh thần. Mặt khác, nhờ có sự thay đổi về mặt xã hội, quyền tự chủ của các làng
quê mạnh mẽ, đây là thời kỳ nghệ thuật kiến trúc điêu khắc phát triển với nhiều
công trình có giá trị, có thể coi là thời kỳ phục hưng của các giá trị văn hoá dân
gian. Trong bối cảnh đó, triều đình tạo điều kiện cho thân vương, quý tộc, tầng lớp
quan lại các ông hoàng, bà chúa tìm về với Phật giáo, bỏ tiền hoặc kêu gọi hưng
công tín thí để xây dựng, tu bổ chùa chiền, nhiều vị đặt niềm tin tâm linh vào các
ngôi chùa lớn nên đã lựa chọn nhiều ngôi lớn nổi tiếng để tu bổ như chùa Thầy,
chùa Keo Thái Bình, Keo Hành Thiện, chùa Bối Khê, chùa Mía và một loạt các
ngôi chùa khác được khởi dựng. Kết quả là nhiều ngôi chùa mới với kiến trúc trăm
gian được mọc lên, nhiều ngôi chùa cũ được trùng tu xây dựng, mở mang kiến trúc
120
khiến cho mặt bằng nhiều ngôi chùa thay đổi theo hướng mở rộng và quy mô hơn
trước. Phần lớn các ngôi chùa "tiền Phật, hậu Thánh" thờ Tứ vị Thành tổ đều được
trùng tu lại để mang dáng dấp như hiện tại với hai đơn nguyên kiến trúc Điện Phật
và Điện Thánh.
Điện Thánh biểu hiện rõ tính chất là ngôi Đền thờ, bởi ngay khi bước vào
không gian ngôi chùa phải qua hai lớp cổng đó là Tam Quan Nội và Tam Quan
Ngoại, hai lớp cổng thể hiện cho hai đối tượng thờ khác nhau. Trong bố cục mặt
bằng đó Tam Quan Ngoại mang tính chất là một Nghi Môn, kiến trúc này như ở
chùa Keo (Thái Bình), Keo Hành Thiện (Nam Định), chùa Láng, chùa Lý Quốc Sư
(Hà Nội), chùa Đại Bi (Nam Định). GS. Chu Quang Trứ cho rằng: "Toà Tam Quan
- Nghi Môn gắn bó chặt chẽ với vườn cây, hồ nước, ngay từ đầu đã tạo vẻ thiêng
liêng đến huyền bí cho tổng thể ngôi chùa, nó vươn lên, tự khẳng định như muốn
thay thế cho cả Đình và Đền ở địa phương" [141, tr.94]. Ở một vài ngôi chùa như
chùa Đại Bi (Nam Định), Tam Quan không được xây ở chính giữa mà thẳng với
Điện Thánh và đây là trục thần đạo của chùa, thể hiện vai trò tối linh của các vị
Thánh được thờ phụng, cho thấy ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ việc thờ Thánh
được coi trọng. Vai trò trọng yếu của vị Thánh được thờ phụng còn thể hiện qua
việc các ngôi chùa này hầu như không có tháp mộ sư như chùa Thầy, chùa Keo
Thái Bình, Keo Hành Thiện Nam Định,…, bởi truyền thống trước đây không có sư
trụ trì vì thế cũng không có tháp mộ mà việc đèn hương thờ phụng ông Thống, Bà
Tự, những người làm nghề thầy cúng trong làng. Hiện nay, một số ngôi chùa đã có
tháp mộ sư nhưng chủ yếu mới được xây dựng trong thời gian gần đây. Chùa Keo
Thái Bình có 05 tháp mộ sư, ngôi tháp mới nhất được xây dựng vào năm 1999, chùa
Thầy cũng có một ngôi tháp được xây dựng vào những năm 80 của thế kỷ XX
nhưng là tháp Phật chứ không phải tháp mộ sư.
Mặt khác, không khó để nhận ra kiến trúc của toà Tam Bảo và bài trí trên
Phật điện thường đơn giản hơn các ngôi chùa thuần tuý thờ Phật. Ví như chùa Thầy,
cụm kiến trúc Điện Thánh được bố trí trên nền cao hơn so với Điện Phật đến 0,96m
và cao hơn khu thờ Tổ ở phía sau là 1,85m, bao quanh Điện Thánh là ván gỗ bịt kín
khiến cho ánh sáng ít lọt đến, tạo ra sự linh thiêng, thâm nghiêm cho nơi thờ Thánh,
tiếp nữa công lao của Thánh Từ đối với người dân quanh vùng là rất lớn, đức Thánh
Từ Đạo Hạnh rất linh thiêng, mọi lời cầu khấn của người dân được linh nghiệm nên
họ sùng kính Thánh. Các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ trong một giai đoạn dài
không có sư về trụ trì nên yếu tố tín ngưỡng dân gian trở nên đậm nét (hiện nay
ngôi chùa Keo Hành Thiện Nam Định vẫn giữ truyền thống không có sư trụ trì) việc
coi sóc đèn hương thờ phụng thường là những ông Thống, bà Tự, hoặc những vị
pháp sự trong làng, những ông Thống này kế tục công việc của Thánh thoả mãn nhu
121
cầu tín ngưỡng cho nhân dân, vì thế yếu tố thờ Phật có chiều mờ nhạt, việc thực
hành các nghi lễ Phật giáo ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ không có sư trụ trì ít
được coi trọng.
Yếu tố Đền thờ còn thể hiện ở hệ thống các di vật được lưu giữ trong Điện
Thánh như kiệu thờ, khám thờ, bát bửu, lỗ bộ, ngựa thờ,…đặc biệt ở nhiều ngôi
chùa như chùa Keo (Thái Bình), Keo Hành Thiện (Nam Định), chùa Điềm Giang
(Ninh Bình), còn lưu giữ được các sắc phong của triều đình phong kiến phong Thần
cho các thiền sư. Sự có mặt của sắc phong trong các ngôi chùa cũng là một biểu
hiện cho sự dung hợp của Phật giáo với Tín ngưỡng dân gian bởi sẽ không tìm thấy
những sắc phong ở các ngôi chùa chỉ thuần tuý thờ Phật.
Có thể thấy các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ đều có sự tương đồng về nội dung
tôn giáo, đó là sự dung hợp giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian, bởi các vị vốn là tu
sĩ Phật giáo trở thành những vị Thánh trong Tín ngưỡng dân gian. Tôn thờ các vị
Thánh này vẫn mang nội dung của Tín ngưỡng dân gian nhưng biểu hiện dưới hình
thức tôn giáo hết sức độc đáo "vi Tiên, vi Phật". Dưới góc độ Phật giáo có thể coi các
sư chính là những vị Bồ tát thị hiện để gần dân, giúp dân, dưới góc độ Tín ngưỡng dân
gian các vị chính là Thánh, Thần, biểu tượng của sức mạnh có khả năng siêu phàm. Sự
kết hợp này cho thấy sự hoà nhập giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian, sự hoà nhập
đó được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng như sữa tan vào nước. Tứ vị Thánh tổ mang
tính lưỡng hợp vừa là Thánh, vừa là Phật và các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ trở nên
gần gũi trong đời sống tín ngưỡng của người Việt ở vùng đồng bằng sông Hồng.
4.1.2.2. Về bài trí không gian thờ tự ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ
Các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ hiện nay theo Phật giáo Đại Thừa (Bắc
Tông). Ở mỗi ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ có cách bài trí riêng, dẫu vậy, cách thức
bài trí chủ đạo ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ vẫn là tiền Phật, hậu Thánh.
Trên cơ sở nghiên cứu điền dã, NCS tạm chia thành hai nhóm bài trí thờ tự:
- Nhóm ngôi chùa bài trí Điện Phật và Điện Thánh là hai đơn nguyên kiến
trúc riêng biệt theo kiểu tiền Phật, hậu Thánh: Tiêu biểu cho dạng thức này có chùa
Thầy, chùa Láng (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành Thiện (Nam
Định). Ở dạng bài trí thờ tự này Điện Phật và Điện Thánh có mặt bằng kiểu chữ
Công, bao gồm các toà Tiền Đường, Thiêu Hương và Thượng Điện.
Điện Phật, bài trí thờ tự theo trục dọc, với nhiều lớp tượng, phần lớn bài trí
giống như các ngôi chùa ở miền Bắc tuy nhiên cũng có những nét khác biệt đó là ở
chùa Thầy bộ tượng Di Đà Tam Tôn không bày trên Phật Điện mà được bày ở Điện
Thánh, theo NCS thì bộ Di Đà Tam Tôn với phong cách tạo hình chú trọng yếu tố
trang trí bằng hệ thống chuỗi anh lạc và các biểu tượng "bát cát tường" của Mật
tông, vì thế được đặt ở Điện Thánh phù hợp với việc tu hành theo Mật giáo của
122
Thánh Từ Đạo Hạnh. Hay ở chùa Keo (Thái Bình), chùa Tây Lạc (Nam Định) trên
Phật điện không bài trí bộ tượng Ngọc Hoàng Thượng đế - Nam Tào - Bắc Đẩu
(một bộ tượng của Đạo giáo) như hầu hết các ngôi chùa ở miền Bắc.
Điện Thánh bài trí trang nghiêm, tượng Thánh đặt trong một khám kín ở Hậu
Cung, thể hiện tính chất linh thiêng, không lộ diện. Nếu ở Điện Phật người ta có thể
đến cúng lễ bất cứ lúc nào thì Điện Thánh, đặc biệt là Hậu Cung luôn đóng kín quanh
năm, chỉ mở vào dịp lễ hội, khi thực hiện nghi lễ Mộc dục cho các Thánh và chỉ có
những người được lựa chọn trực tiếp thực hành nghi lễ này mới được vào chiêm
ngưỡng các Thánh.
Trong nhóm này có biến thể của hai đơn nguyên kiến trúc, mặc dù Điện Phật
và Điện Thánh vẫn là hai đơn nguyên kiến trúc riêng biệt nhưng không theo kiểu
tiền Phật, hậu Thánh như chùa Bái Đính cổ, chùa Địch Lộng (Ninh Bình). Theo tư
liệu, trước đây nơi thờ tự Phật, Thánh được đặt ở trong các hang đá, nhưng do điều
kiện hiện nay, đời sống kinh tế, xã hội đi lên, người dân xây dựng thêm các khu thờ
tự, tách riêng nơi thờ Phật, Thánh ra bên ngoài hang. Tuy nhiên biến thể này rất ít,
qua điền dã chỉ bắt gặp ở hai ngôi chùa nêu trên.
- Nhóm ngôi chùa bài trí Điện Phật và Điện Thánh cùng chung trong một kiến trúc:
Các ngôi chùa này bài trí thờ tự Điện Phật và Điện Thánh cùng chung trong
một kiến trúc phần lớn vẫn theo kiểu tiền Phật, hậu Thánh, tiêu biểu có chùa Cổ Lễ,
chùa Nghĩa Xá, chùa Đại Bi (Nam Định), chùa Viên Quang (Đền Thánh Nguyễn)
(Ninh Bình) cũng được kết cấu theo kiểu chữ Công, bao gồm các toà, Tiền Đường,
Thiêu Hương và Thượng Điện. Thượng Điện được chia làm hai phần tách biệt rõ
ràng, phía trước thờ Phật, phía sau có một Hậu Cung thờ Thánh. Hậu Cung cũng
được "thưng" kín lại thể hiện tính chất thâm nghiêm, không lộ diện.
Tuy nhiên, cũng có một số ngôi chùa bài trí Điện Phật và Điện Thánh cùng
chung trong một kiến trúc nhưng không theo kiểu tiền Phật, hậu Thánh mà việc bố trí
không gian thờ tự có điểm khác biệt như: Nơi thờ Thánh không được "thưng" kín mà
được thờ ngay trên Phật Điện như chùa Tổng (Hà Nội), Cung Thánh được thờ ở toà
Tiền Đường như chùa Dị Nậu (Hà Nội), chùa Nam Hà (Nam Định), mặc dù được thờ
trong khám riêng nhưng cửa khám không đóng kín mà tín đồ, phật tử khi hành lễ có thể
chiêm bái Thánh. Cũng được thờ ở toà Tiền Đường nhưng chùa Tây Lạc (Nam Định)
các Thánh lại được thờ trong khám kín và mỗi năm cửa khám chỉ mở một lần khi thực
hiện nghi lễ Mộc dục cho Thánh trước ngày diễn ra lễ hội chính.
Việc bài trí thờ tự ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ được thực hiện một
cách linh hoạt, phù hợp với đời sống tín ngưỡng, điều kiện kinh tế và mặt bằng xây
dựng của từng địa phương. Bài trí thờ tự như trên biểu hiện sự đa dạng các sắc thái
trong việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ, đó chính là kết quả của sự tương tác giữa môi
123
trường sinh thái của vùng đất với quá trình hình thành và phát triển kinh tế, xã hội
cùng đời sống văn hoá của các nhóm cư dân vùng đồng bằng sông Hồng.
Một điểm lưu ý, mặc dù Tứ vị Thánh tổ lúc các vị còn tại thế trong hoạt động
tôn giáo mang đậm yếu tố Mật nhưng đến hiện nay, yếu tố Mật ở các ngôi chùa thờ
các vị đều khá mờ nhạt, chủ yếu là yếu tố Thiền, Tịnh, NCS cho rằng: Thứ nhất,
trong các tài liệu đều thể hiện ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ chỉ có duy nhất
các nhà sư Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn
Minh Không tu hành ở đây, sau khi các vị viên tịch đều không có đệ tử để truyền
thừa bởi sau khi các vị viên tịch việc trông coi chùa và chăm sóc đèn hương thờ tự
do người dân trong làng cắt cử, hơn nữa bản thân yếu tố Mật và Tín ngưỡng dân
gian có nhiều nét tương thích, hoà quyện vào nhau nên khó có thể rạch ròi, với
trường hợp Tứ vị Thánh tổ yếu tố dân gian mang tính trội. Thứ hai, yếu tố Mật
trong Phật giáo Việt Nam chưa bao giờ được coi là một tông phái [55, tr.434] mà
được kết hợp trong việc tu học của các phái Thiền được sử dụng trong từng giai
đoạn nhất định nhằm lan tỏa Phật giáo sâu rộng hơn đến các tầng lớp nhân dân. Thứ
ba, với sự ra đời của Thiên phái Trúc Lâm Yên Tử vào thời Trần vào sau này là sự
du nhập của các phái thiền Tào Động, Lâm Tế từ Trung Quốc vào nước ta, đồng
thời là sự phát triển của Tịnh độ tông phù hợp với đời sống tín ngưỡng, thu hút
đông đảo quần chúng. Thứ tư, các chùa thờ Tứ vị Thánh tổ phần lớn mới có sư về
trụ trì, các vị sư về trụ trì lại không tu hành thiên về Mật mà chỉ thiên tu hành theo
Thiền, Tịnh. Mặt khác, một số chùa như chùa Thầy có một số nhà sư tu hành theo
Mật nhưng không phải là dạng Mật giáo của các Thánh tổ xưa mà là tu theo dòng
truyền thừa Drukpa, dạng Mật tông Tây Tạng.
4.1.3. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ - dạng thức tín ngưỡng phức hợp
4.1.3.1. Dưới góc độ tín ngưỡng dân gian
* Tứ vị Thánh tổ là những vị phúc thần
Người Việt với tín ngưỡng thờ đa thần đã trở thành truyền thống, tâm linh
đại chúng là hướng về con người thực rồi từ những con người thực được nâng lên
thành bậc Thánh. GS Vũ Ngọc Khánh đã nêu quan điểm của mình trong tác phẩm
Đạo Thánh ở Việt Nam "Tâm linh đại chúng là hướng về con người thực, rồi từ con
người thực ấy được nâng lên thành thần thánh. Họ được tôn lên làm thần bởi họ
xứng đáng nêu gương cho đất nước, họ có công với dân tộc, có những đức tính quý
báu, cao cả, giáo dục cho thế hệ mai sau" [78, tr.39]. Thực tế đã chứng minh phần
lớn các ngôi đền, miếu đều được lập nên để tôn vinh và ngưỡng vọng những người
có công với đất nước, với cộng đồng làng xã nhất định, dân gian có câu "chuông
làng nào làng ấy đánh/ Thánh làng nào làng ấy thờ" cho thấy ý thức tôn vinh Thần,
Thánh của cộng đồng làng xã, chính lòng yêu nước và tính tự tôn đã trở thành cốt
124
lõi cho tín ngưỡng thờ Thánh, đồng thời thể hiện nét văn hoá làng chỉ có riêng của
người Việt. Những vị Thánh trở thành biểu tượng thiêng liêng và là niềm tự hào của
mỗi làng xã.
Trong dân gian, một vị Thánh được tôn vinh phải có gương mặt đa diện để
đáp ứng nhiều nhu cầu cụ thể khác nhau tại những thời điểm không giống nhau
trong đời sống hàng ngày. Bốn vị thiền sư của Phật giáo Từ Đạo Hạnh, Dương
Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không vốn là những con người thật
trong lịch sử, đã được dân gian thần thánh hoá để từ con người thực trở thành những
vị nhân thần, những vị Thánh của cư dân vùng đồng bằng sông Hồng, bởi sự tương
tác hài hoà giữa những mong muốn khác nhau của các lực lượng trong xã hội nhưng
cùng gặp nhau ở một điểm chung đó là mong cầu hạnh phúc đồng thời cũng thể
hiện ước nguyện, mong muốn về những nhân vật có sức mạnh phi thường, thần kỳ,
tài cao, đức trọng để giúp đỡ người dân và bảo vệ quê hương đất nước. Dưới sự
khúc xạ của tư duy cảm thụ dân dã, hình ảnh Tứ vị Thánh tổ hiện ra với diện mạo là
những bậc tài năng xuất chúng, gây dựng sự nghiệp thành công, khi còn tại thế giúp
người, giúp đời, khi đi vào cõi vĩnh hằng vẫn không quên "âm phù" cho thế giới
trần tục và trở thành thần linh muôn đời của người dân.
Tín ngưỡngTứ vị Thánh tổ mang những nét chung của các hình thức tín
ngưỡng dân gian của người Việt, đối tượng thờ phụng là những nhân vật lịch sử có
thật và được bồi đắp bằng những hào quang thần thánh thông qua trí tưởng tượng
phong phú của nhiều thế hệ. Sự tôn kính của nhân dân đối với Tứ vị Thánh tổ hàm
chứa cả hai yếu tố, kính vì ơn và kính vì sợ. Kính vì biết ơn bởi những công lao to
lớn mà các vị đã thể hiện đối với triều đình và nhân dân trong suốt thời gian các
ngài tại thế đó là công lao chữa bệnh cứu người, đó công lao truyền nghề cho nhân
dân quanh vùng. Sợ vì những sức mạnh huyền diệu mà các ngài có được. Dường
như trong mối quan tâm của người dân đối với Tứ vị Thánh tổ chỉ tập trung vào
những mong ước cụ thể, bình dị chứ không biết đến những lý luận cao siêu. Ngay
cả những người hiểu biết đến lễ Thánh thì họ cũng chỉ biết tên của các Thánh, biết
đó là những vị thiền sư tu hành dưới thời Lý, còn hiểu biết sâu hơn về hành trạng của
các vị hầu như rất hiếm, chính sự ít hiểu hiết về hành trạng của các Thánh đã làm cho
thần tích của các ngài càng trở nên huyền ảo, khiến cho trí tưởng tượng của dân gian
càng được chắp cánh và càng huyền ảo thì độ "thiêng" của thần lại càng lớn.
* Tứ vị Thánh tổ được thờ với tư cách là Tổ nghề
Tứ vị Thánh tổ, mỗi vị có một tài năng riêng, đáp ứng nhu cầu của đất nước và
của người dân. Hành trạng các vị hiện lên là những vị thiền sư của Phật giáo nhưng
trong truyền thuyết và thần tích các vị là những kỳ nhân, nổi lên đặc điểm và quyền
năng thiêng của các Thánh.
125
Trong tâm thức dân gian, Tứ vị Thánh tổ với chức năng là những vị Tổ nghề
được thể hiện rõ nét, có thể căn cứ vào "hình dáng" được thể hiện ở tượng thờ, bởi ý
tưởng dân gian nhiều khi được gửi gắm vào các di vật này. Tại chùa Thầy trong Điện
Thánh (chùa Thượng) ta thấy có ba pho tượng của Thánh Từ Đạo Hạnh, thứ nhất là
pho tượng Thánh ở kiếp vi Phật đầu đội mũ thất Phật, ngồi trong tư thế kiết già, một
pho tượng thờ ở kiếp vua trong hình hài của vua Lý Thần Tông và pho tượng được
quan tâm nhất đó là pho tượng thờ ngài ở kiếp Thánh được đặt trong khám kín ở gian
bên phải. Tượng được tạc theo phong cách tượng rối có các khớp chân, khớp tay, trước
đây pho tượng có thể cử động được chân tay, đứng lên ngồi xuống, nhưng đến thế kỷ
XIX tuần phủ Sơn Tây Cao Xuân Dục trong lần về thăm chùa Thầy thấy vậy bèn bàn
với bô lão trong xã: "Thánh thì không phải chào người phàm để ngài đứng dậy mỗi lần
mở cửa là thất lễ", từ đó cho cắt hệ thống lò so nên tượng không cử động được nữa mà
ngồi trên ngai đặt trong khám thờ. Với việc tạc tượng Thánh Từ theo phong cách tượng
rối cho thấy vai trò khác của Thánh đối với dân gian và trong tâm thức dân gian, người
dân cũng khẳng định việc thờ Ngài với tư cách là Tổ nghề múa rối. Trong mỗi dịp lễ
hội chùa Thầy, một trò diễn không thể thiếu đó là trò múa rối nước được trình diễn ở
toà Thuỷ Đình, người dân nơi đây tổ chức diễn trò để tỏ lòng biết ơn thánh Từ đã
truyền nghề cho dân chúng vùng này.
Hình ảnh thiền sư Dương Không Lộ ở chùa Thần Quang Tây Tự (Nam Định)
tượng Thánh Không Lộ được thể hiện như một người dân chài: cởi trần, đóng khố.
Có thể thấy lại hình ảnh này được mô phỏng ở những chân kiệu khiêng chiếc
thuyền của Thánh trong lễ hội chùa Keo (Thái Bình), những chân kiệu dùng tấm vải
đỏ vắt qua một vai rồi để buông xuống thân, vai kia để trần như tái hiện lại hình ảnh
của Thánh Không Lộ. Ở chùa Keo (Thái Bình) và chùa Keo Hành Thiện (Nam
Định) hiện còn di vật đó là chiếc thuyền làm bằng gỗ trên thuyền có treo những vật
dụng quen thuộc của Thánh Không Lộ lúc sinh thời như nón tu lờ, cây gậy, vỏ
trấu,… những di vật đó cho thấy con thuyền là phương tiện đi lại trên sông nước, là
vật đảm bảo cho cuộc sống hàng ngày của người dân khi mới chinh phục vùng đồng
bằng ven biển (Thái Bình và Nam Định hiện nay). Sự chinh phục vùng đất mới còn
được người dân nơi đây kể lại lúc sinh thời Thánh Không Lộ thường giúp dân khai
phá vùng đất hoang trồng lúa, nhiều nơi trên vùng đất này còn in những "dấu chân"
của Thánh khi đi tát nước, đắp bờ,… Việc thờ Thánh Không Lộ với các dẫn chứng
ở trên cho thấy trong tâm thức dân gian Thánh Không Lộ hiện lên với hình ảnh của
một vị Tổ nghề chài lưới của cư dân vùng cửa sông, cửa biển trong những buổi đầu
chinh phục vùng ven biển, trước khi có sự bồi đắp phù sa để biến đổi địa hình từ
vùng đất trũng thành vùng đồng bằng mầu mỡ như ngày nay.
126
Với Thánh Nguyễn Minh Không được tôn xưng và thờ là Tổ nghề đúc đồng
vô cùng rõ nét ở nhiều nơi trong vùng đồng bằng sông Hồng. Làng Đức Thắng (Hiệp
Hoà - Bắc Giang), đây là làng rèn nổi tiếng, làng có lệ vào tháng chín (AL) hàng năm
là tháng mở hội, từ ngày mồng 7 đến ngày mồng 10 làng tổ chức một "hội chợ thủ
công" để bán sản phẩm làng ra, mở đầu hội chợ không thể thiếu nghi thức tế Thánh
Minh Không rất long trọng bởi đó là vị tổ nghề và được làng thờ phụng. Làng Ngũ
Xá, làng Mai Lâm ở Hà Nội thờ Thánh Nguyễn Minh Không với tư cách là tổ nghề
và được thờ ở Đình làng.
Thánh Nguyễn Minh Không còn là ông tổ của nghề y và Đại danh y thiền sư
Tuệ Tĩnh phải chăng còn là học trò sau này bởi, tính theo năm sinh, năm mất, Nguyễn
Minh Không sinh năm 1066, mất năm 1141 vào thời vua Lý Anh Tông sống cách danh
y Tuệ Tĩnh gần hai thế kỷ (danh y Tuệ Tĩnh sinh năm 1330 [82, tr.17]). Khi còn tại thế
Nguyễn Minh Không, không chỉ nổi danh qua việc chữa bệnh hoá hổ cho vua Lý
Thần Tông mà sư còn chữa bệnh cho nhân dân khắp vùng Nam Định, Ninh Bình, sư
thường đi tìm thuốc nam trên các đỉnh núi, minh chứng ngày nay vẫn còn làng Sinh
Dược (Ninh Bình) tương truyền là nơi Nguyễn Minh Không tìm các bài thuốc nam
để chữa bệnh cho dân, đồng thời đây cũng là vườn ươm thuốc của thần y Nguyễn
Minh Không. Tháng 9/2019, UBND tỉnh Ninh Bình phối hợp với Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam tổ chức Hội thảo "Thân thế, sự nghiệp Thiền sư Nguyễn Minh
Không" đã có những bài viết thể hiện quan điểm cho rằng thiền sư Nguyễn Minh
Không là ông tổ của nghề y dược cổ truyền, mặc dù đó là những giả thiết ban đầu
nhưng cũng là những gợi mở cho việ nghiên cứu về Nguyễn Minh Không với vai
trò là ông tổ của nghành y dược học cổ truyền Việt Nam.
Như vậy, trong quá trình dân gian hoá, hình ảnh gốc là một vị sư của Phật
giáo đã nhạt dần để nhường chỗ cho yếu tố dân gian thông qua sự "thần thánh hóa"
đó chính là những yếu tố kỳ bí thể hiện khí chất hơn người của các vị Thánh để đi
vào đời sống tín ngưỡng của người dân. Việc gạt bỏ dần yếu tố thiền sư của Phật
giáo và trở thành những vị Tổ nghề cho thấy người Việt muốn có một vị Thánh gần
gũi hơn với đời sống của họ, có thể giúp họ giải quyết những khó khăn mang tính
cấp thiết trong cuộc sống thực tại, phù hợp với môi trường, đời sống xã hội, văn hoá
của người dân vùng đồng bằng sông Hồng từ bấy tới nay.
* Tứ vị Thánh tổ được thờ với tư cách là Thành Hoàng
Thành Hoàng làng của người Việt là những vị thần bảo hộ cho một cộng
đồng làng, xã, vốn là người có công lập làng, hoặc có công trạng, ảnh hưởng lớn tới
đời sống của làng, có vị được vua phong tước với chức danh Thành Hoàng. Theo
Nguyễn Duy Hinh, Thành Hoàng là một loại thần trong hệ thống thần linh (Bách
thần) vô cùng phong phú và đa dạng của người Việt, qua sự công nhận và sắc phong
127
của triều đình phong kiến (Nhà nước) các Thành Hoàng luôn có hai tư cách, thứ
nhất là vị Thần của làng, thứ hai là đại diện cho nhà nước và chịu trách nhiệm trước
nhà nước.
Dưới tác động của các vương triều phong kiến đặc biệt là các vương triều
phong kiến mà Nho giáo chiếm vị trí chủ lưu, Tứ vị Thánh tổ được thần thánh hoá
qua các bản thần tích. Trên cơ sở các truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian,
các nhà nho như Nguyễn Bính, Nguyễn Hiền hoặc Lê Tung,… đã nhào nặn, ghi chép
thành văn, để các nhân vật lịch sử có sự kết hợp của hai yếu tố thực và ảo. Chính sự
kết hợp của hai yếu tố thực và ảo đó đã làm cho Tứ vị Thánh tổ trở nên linh thiêng
hơn, uy lực hơn, gắn bó với đời sống của nhân dân, trở thành biểu tượng văn hóa của
cộng đồng. Song song với việc văn bản hoá công đức, triều đình phong kiến đã sắc
phong các vị thiền sư của Phật giáo Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác
Hải, Nguyễn Minh Không là "Thượng đẳng thần" (Xem phụ lục số 8). Dưới góc nhìn
dân gian, việc sắc phong của triều đình cho Tứ vị Thánh tổ đã làm cho hình ảnh thiền
sư Phật giáo ẩn để nhường chỗ cho những yếu tố đậm chất dân gian như phép thuật,
thần thông hình ảnh của vị Thánh hiện hữu sinh động. Bốn vị thiền sư trở thành
những vị Thành Hoàng gần gũi với đời sống người Việt sau luỹ tre làng. Quá trình
Thành Hoàng hoá cũng là để người dân tự hào và thờ phụng, tế lễ theo nhịp xuân thu
nhị kỳ theo quy định và thể hiện sự tôn nghiêm trong thờ cúng. Bằng cách đi vào thiết
chế linh thiêng với tư cách là những vị Thành Hoàng bảo trợ cho cộng đồng làng xã
với những nghi lễ và sự kiêng kỵ lặp lại trong dân gian làm cho Tứ vị Thánh tổ ngày
càng trở nên thiêng liêng hơn.
Chùa Láng còn lưu giữ một bản thần phả ghi chép về sự tích Thành Hoàng
làng Yên Lãng là thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chùa Keo Thái Bình, chùa Keo Hành
Thiện Nam Định thờ Dương Không Lộ với tư cách là một vị Thành Hoàng. Theo
sách Ninh Bình địa chí khảo biên cho biết trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có 7 làng thờ sư
Giác Hải là Thành Hoàng làng, có 14 nơi thờ sư Nguyễn Minh Không là Thành Hoàng
làng trong đó nổi bật nhất phải kể đến Đền Thánh Nguyễn tại xã Gia Thắng, huyện Gia
Viễn. Tại những nơi này, Thánh được thờ với tư cách Thành Hoàng ngay trong đình làng
hoặc làng không có đình thì Thánh được thờ trong chùa với tư cách là vị thần chung của
cả làng. Thêm một minh chứng khẳng định vai trò quan trọng của các vị Thánh trong
đời sống tín ngưỡng của cư dân địa phương vùng đồng bằng sông Hồng.
Thành Hoàng là vị thần đại diện cho một cộng đồng có sứ mệnh bảo hộ và
trách nhiệm với đời sống thịnh, suy của cộng đồng ấy, để được suy tôn là Thành
Hoàng luôn là những người có công với cộng đồng. Tứ vị Thánh tổ được suy tôn là
Thành Hoàng làng cho thấy công lao to lớn của các ngài đối với cộng đồng dân cư
vùng đồng bằng sông Hồng, chi tiết này đã khẳng định vai trò quan trọng của các vị
128
Thánh trong đời sống tâm linh của người dân địa phương. Bố cục Điện Thánh và
cách thức bài trí thờ tự ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng đã được trình
bày ở trên thể hiện rõ tính chất của một ngôi Đền thờ Thành Hoàng làng. Ngoài ra
không chỉ được thờ ở chùa, Tứ vị Thánh tổ còn được thờ ở các ngôi Đình, Đền với tư
cách là những vị Thành Hoàng như Đình Lại Trì (Thái Bình), Đình La Vân (Thái
Bình), Đình Yên Vệ (Ninh Bình), Đình Cổ Hương (Nam Định), Đình Ngũ Xá (Hà
Nội),… Thực tế việc thờ Từ Đạo Hạnh ở chùa Thầy - cụm di tích chính không phải là
hình thức thờ Thành Hoàng của một làng, một xã mà là vị Thành Hoàng của cả tổng
điều đó được thể hiện qua các nghi lễ và lễ hội chùa Thầy, vào dịp lễ hội các làng như
Đa Phúc, Sài Sơn, Khánh Tân đều rước Thành hoàng của làng mình về "bái yết"
Thánh Từ. Hiện tượng Thành Hoàng hoá đối với Thánh Dương Không Lộ có nét khá
đặc biệt, làng Keo Thái Bình cho đến cuối thế kỷ XIX không có Đình làng, mọi công
việc chung của làng như xử kiện, phạt vạ, ăn khao, bổ bán, công điền, công thổ,…
của làng Keo đều được diễn ra tại toà Giá Roi ngay trước Điện Thánh của chùa Keo
(Thái Bình). Với chức năng đó chứng tỏ Điện Thánh trở thành trung tâm văn hoá,
hành chính của làng và có chức năng tương tự như ngôi Đình làng. Mãi đến đầu thế
kỷ XX, dân làng Keo mới dựng Đình làng, nhưng sự có mặt của ngôi Đình làng là
theo sự bắt buộc của triều đình chứ không phải xuất phát từ tình cảm của người dân
với vị Thành Hoàng của làng. Và một điều thú vị, mặc dù Đình làng đã có từ thế kỷ
XIX nhưng đến nay nhiều người dân làng Keo đều không biết tên vị Thành Hoàng
của làng mình, có người khi được hỏi trả lời rằng vị Thành Hoàng làng là Không Lộ
[71], từ thực tế trên cho thấy, Thánh Không Lộ giữ vai trò quan trọng đối với người
dân làng Keo và là vị Thành Hoàng bảo trợ cho cộng đồng. Hiện nay, với những sinh
hoạt văn hoá tại chùa Keo (Thái Bình) biểu hiện trong lễ hội truyền thống hàng năm
cũng thể hiện sự lấn át vai trò của Đình làng một cách rõ nét.
4.1.3.2. Dưới góc độ tôn giáo
Nếu nhìn một cách hệ thống và xem xét tổng thể hiện tượng tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ, dưới lớp phủ của tín ngưỡng dân gian thì yếu tố tôn giáo trong việc thờ
phụng Tứ vị Thánh tổ mặc dù mờ nhạt hơn nhưng vẫn hiện hữu và mang sắc thái biểu
hiện riêng, làm cho tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trở nên đặc biệt trong đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo. Dưới góc nhìn tôn giáo học, Tứ vị Thánh tổ được thờ phụng ở một
số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng với tư cách là những vị Tổ sư, vì:
Thứ nhất, nguồn gốc của Tứ vị Thánh tổ vốn là các nhà sư của Phật giáo, là
tổ của hai thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Từ Đạo Hạnh là vị sư tổ
đời thứ mười hai, Nguyễn Minh Không là vị sư tổ đời thứ mười ba của thiền phái Tì
Ni Đa Lưu Chi; Dương Không Lộ và vị sư tổ đời thứ chín và Nguyễn Giác Hải là sư
tổ đời thứ mười của thiền phái Vô Ngôn Thông.
129
Thứ hai, công trạng của các Thánh khi thực hiện giúp dân, giúp nước trên
cương vị là các nhà sư, bởi vậy khi các ngài viên tịch vua mới cho miễn thuế, cho
ruộng phước để nhân dân đèn nhang thờ phụng. Nơi thờ các vị là ngôi chùa thờ
Phật, việc bài trí, tôn thờ Tứ vị Thánh tổ có thể khác nhau, có thể là "tiền Phật hậu
thánh" hoặc "Thánh Tổ sư" hoặc là hai tính cách tôn giáo trong một chùa để nói lên
rằng các vị đều có nguồn gốc từ Phật giáo là và tu sĩ của Phật giáo.
Mặt khác, các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ như chùa Thầy, chùa Keo, chùa
Nghĩa Xá đều là nơi các vị trụ trì, tu học, hoằng pháp và viên tịch. Thiền sư Từ Đạo
Hạnh mặc dù không phải là vị sư khai phá núi Phật Tích song lại là vị sư có công
lao trong việc xây dựng, mở rộng quy mô cũng như tầm ảnh hưởng của chùa Thầy,
biến nơi đây trở thành một trung tâm quan trọng của Phật giáo đương thời. Hiện
nay, ở chùa Thầy, Từ Đạo Hạnh vừa được thờ với tư cách là vị Thánh tại Điện
Thánh nhưng cũng đồng thời được thờ với tư cách là vị Tổ sư, người đã xây dựng
nên chùa Thầy tại khu nhà Tổ. Đối với hai ngôi chùa đều mang tên Keo vốn trước
đây cùng một gốc với tên gọi là Nghiêm Quang Tự do thiền sư Dương Không Lộ
khởi dựng vào năm 1051 triều vua Lý Thánh Tông, ngôi chùa này là nơi sư tu hành,
hoằng pháp, giúp người, giúp đời. Chùa Nghĩa Xá (Nam Định) cũng là nơi Thánh
Nguyễn Giác Hải trụ trì, hoằng pháp và viên tịch. Vì thế các ngài không chỉ là sư tổ của
hai thiền phái mà còn là các vị sư tổ đã có công khai sáng, lập ra các ngôi chùa hiện tại.
Việc thờ phụng các ngài với tư cách là vị Tổ sư ở trong chùa mà các ngài đã xây dựng
và hoằng pháp là việc đương nhiên theo đúng truyền thống của Phật giáo.
Thứ ba, trong nghi lễ Tứ vị Thánh tổ được tổ chức ở chùa và dù nghi lễ có
nhuốm mầu nghi lễ dân gian thì việc niệm danh Phật, đọc kinh Phật và chú Đại bi
vẫn diễn ra, tiêu biểu như lễ Mộc dục Thánh Từ Đạo Hạnh ở chùa Thầy (Hà Nội)
trong mỗi dịp lễ hội khi các cụ cao niên trong làng làm nghi lễ Mộc dục cho Thánh
Từ ở trong cung cấm thì bên ngoài tín đồ phật tử và người dân niệm danh Phật,
niệm kinh Phật và đọc chú Đại Bi. Đặc biệt trong các ngày kỵ (ngày giỗ) của các
Thánh thì các ngôi chùa như chùa Keo (Thái Bình), chùa Láng, chùa Thầy (Hà Nội),
chùa Cổ Lễ (Nam Định) đều tổ chức giỗ theo lối giỗ Tổ sư để tưởng nhớ công đức
của các Ngài. Trong ngày giỗ các vị tăng, ni, Phật tử và người dân thành kính tưởng
niệm và ghi nhớ công ơn của các ngài đối với Phật pháp và đối với nhân dân. Nghi lễ
được diễn ra trên tinh thần tri ân và báo ân đối với bậc Tổ sư đã có công khai sáng,
mở mang kiến tạo nên cảnh già lam trang nghiêm, thanh tịnh. Trong lễ giỗ tăng, ni,
phật tử làm lễ cúng Phật cầu an, tụng kinh niệm Phật, đọc kệ chầu Thánh.
Như vậy, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là sự pha trộn giữa tín ngưỡng Phật giáo
và tín ngưỡng dân gian, trải qua thời gian tín ngưỡng dân gian đã phủ lớp dầy làm
mờ nhạt đi tín ngưỡng Phật giáo, nhưng tìm hiểu và nghiên cứu kỹ cho thấy yếu tố
130
Phật giáo vẫn là cốt lõi của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, đây chính là nét độc đáo, sự
khác biệt thể hiện đa dạng của tín ngưỡng, tôn giáo và văn hóa Việt Nam trong một
loại hình tín ngưỡng cụ thể ở vùng đồng bằng sông Hồng- tín ngưỡng Tứ vị Thánh
tổ, qua đó cũng cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống tín ngưỡng của
người Việt.
4.2. VAI TRÒ CỦA TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ TRONG ĐỜI SỐNG
XÃ HỘI HIỆN NAY
4.2.1. Đối với cộng đồng và cá nhân
4.2.1.1. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ góp phần liên kết cộng đồng
Quá trình đổi mới đất nước bên cạnh những thành tựu đáng tự hào thì cũng
có những vấn đề cần quan tâm, giá trị truyền thống đang dần bị mờ nhạt bởi sự du
nhập, ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, đã xuất hiện các biểu hiện tiêu cực, nguy cơ
tan rã các mối quan hệ truyền thống luôn hiển hiện. Đồng tiền trong thời mở cửa có
vai trò vạn năng chi phối xã hội, xã hội lưu truyền câu nói "có tiền mua tiên cũng
được", để thấy uy lực và sức mạnh của nó. Đồng tiền cũng chi phối những mối quan
hệ cộng đồng, làng xóm, đã có nhiều rạn nứt trong tình làng nghĩa xóm, thậm chí có
sự rạn nứt ngay cả trong tình thân tộc, trong quan hệ anh em ruột rà - một mối liên kết
tưởng chừng như bền vững nhất. Với lối sống thực dụng con người dần quên đi
những giá trị nhân bản, người ta thờ ơ trước những hoạn nạn của người khác, quan hệ
tình làng nghĩa xóm bị mai một, cộng đồng nhỏ hẹp làng, xã bỗng chốc trở nên ồn ào,
náo nhiệt, tâm lý và lối sống thị dân xuất hiện ở chốn thôn quê. Có nhiều nhà nghiên
cứu tỏ quan điểm lo lắng khi xã hội đi vào hiện đại hoá, đặc biệt là sự tác động của
nền kinh tế thị trường sẽ làm cho các giá trị truyền thống, các mối quan hệ truyền
thống, sự liên kết trong cộng đồng bị phai nhạt, thậm chí bị phá vỡ. Tuy nhiên, thực
tiễn ở đồng bằng sông Hồng qua nghiên cứu tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ lại cho thấy
tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đã và đang tham gia góp phần giữ gìn và củng cố tính liên
kết gia đình, họ tộc, làng xóm, liên kết cộng đồng làng, xã và rộng hơn là liên kết
người dân ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Những ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ được xem là sức mạnh, biểu tượng của
mối liên kết ràng buộc cộng đồng với nhau. Ngôi chùa là không gian địa lý linh
thiêng liên kết các thành viên trong làng, là trung tâm sinh hoạt tâm linh của cộng
đồng để mỗi khi đến dịp huý kỵ Thánh, hay lễ hội diễn ra người dân trong làng đều
ra chùa, cùng nhau dọn dẹp bao sái tượng thờ, trang trí nơi thờ cúng Phật, Thánh
cho lộng lẫy uy nghi, họ coi đó là công việc chung của cả làng, là "việc làng".
Trước khi vào hội, bao giờ cũng tổ chức một buổi họp toàn thể nhân dân trong làng
để bàn thảo về các công việc diễn ra trong lễ hội, phân công nhiệm vụ cho từng
giáp, từng cá nhân cụ thể. Mỗi người đều có vai trò, trách nhiệm nhất định trong
131
quá trình giúp việc cho "nhà Thánh", tất cả đều thể hiện tinh thần thành kính với
Thánh thần, bởi với họ cơ hội để "làm việc Thánh" chính là sự vinh dự và thiêng
liêng nhất cho bản thân và gia đình trước cộng đồng. Thời điểm này tinh thần liên
kết cộng đồng được thể hiện rõ nét, thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc, trở thành điểm
sáng trong điều kiện kinh tế thị trường với sự chế ngự của đồng tiền có thể làm tha
hoá tình cảm giữa những người thân thuộc.
Trong quá trình điền dã, tham dự các lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ cho
thấy, gần như đây là cuộc tổng động viên toàn thể các gia đình của các thôn trong
xã, mỗi người đều có một vai trò và với mỗi cá nhân thì những vai trò đó thay đổi
theo sự phát triển của một vòng đời từ khi còn trẻ cho đến khi về già. Khi còn trẻ
tham gia vào các đội rước kiệu, múa sinh tiền, chuẩn bị lễ vật dâng Thánh,… đến
khi 50 tuổi tham gia túc trực để thực hiện các nghi lễ tế tự, người già lên lão thì
tham gia đội tế, các cụ cao niên hơn nữa đức cao vọng trọng thì được bầu làm Chủ
hội, như vậy mọi thành viên trong thôn, làng trong cả đời người, kể cả những người
xa quê, khi tới lễ hội về và tham gia thì đều có cơ hội làm việc Thánh.
Những thực hành tín ngưỡng thông qua các nghi thức, nghi lễ của cộng đồng
biểu hiện trong lễ hội truyền thống bao giờ cũng gắn bó với một cộng đồng người
nhất định, là sợi dây liên kết những người có chung niềm tin một cách chặt chẽ và
hữu hiệu nhất, liên kết các đơn vị cộng đồng truyền thống như gia đình, dòng họ,
làng, xã. Đây chính là thời điểm hiện thực hoá vai trò liên kết cộng đồng giữa
những người có chung niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ, là môi trường nuôi dưỡng, gắn
kết, thống nhất giữa các thành viên và biểu dương sức mạnh cộng đồng, thể hiện
mối giao tiếp ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng. Cộng
đồng ở đây được hiểu là cộng đồng không chỉ trong làng xã mà còn là liên làng, liên
xã, thậm chí là cộng đồng của cả vùng. Mặc dù không đồng nhất về lứa tuổi, nghề
nghiệp, nhưng điều quan trọng nhất là họ cùng có chung niềm tin vào vị Thánh mà
họ tôn thờ.
Tính liên kết cộng đồng thể hiện trên các phương diện cộng cư, cộng cảm,
cộng mệnh. Đối với phương diện cộng cư, đó là sự liên kết của người dân ở các xã,
huyện, cùng cư trú trên một phạm vi lãnh thổ, như sự gắn kết những thành viên của
cộng đồng xã Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Nội hay sự liên kết của những người dân của
phường Láng, Đống Đa, Hà Nội nơi diễn ra lễ hội thờ Thánh Từ Đạo Hạnh ở chùa
Thầy, chùa Láng; sự gắn kết không chỉ những người dân ở xã Duy Nhất mà còn là sự
gắn kết liên xã như Dũng Nghĩa, Vũ Tiến, Vũ Đoài, nơi hiện diện của ngôi chùa Keo
Thượng hay là sự gắn kết những người con của xã Hành Thiện nơi hiện diện của ngôi
chùa Keo Hạ cùng thờ Thánh Dương Không Lộ,… Với người dân nơi đây, họ có
chung niềm tin vào Thánh, chung không gian thiêng là các ngôi chùa thờ Thánh,
132
chung thời gian thiêng là hội làng. Khi dịp làng vào hội, mọi người trong làng, trong
xã, trong huyện tạm gác lại công việc của cá nhân, của gia đình, tất cả tập trung vào
công việc phụng sự đức Thánh. Đây là thời điểm mỗi cá nhân được sống và được hoà
nhập thật sự trong một cộng đồng, bởi ai cũng thấy những phần việc của mình, ai
cũng trở thành một phần không thể thiếu trong lễ hội tôn vinh và tưởng nhớ Thánh.
Mỗi người một vị trí, một nhiệm vụ khác nhau nhưng đều chung một mục đích lớn
lao là tôn vinh, biểu dương công trạng và cầu mong nhận được sự che chở của Thánh
cho bản thân, gia đình và cả cộng đồng.
Đối với phương diện cộng mệnh, việc phụng thờ Tứ vị Thánh tổ là Từ Đạo
Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không, trong những
ngày lễ hội, người dân tuy ở các địa phương khác nhau nhưng cùng niềm tin hướng
về Thánh và tin tưởng sâu sắc biểu hiện thông qua các nghi thức, nghi lễ như lễ Tế,
lễ Rước, lễ Mộc dục,… đó chính là những nghi lễ để kết nối giữa thế giới con người
với thế giới thần linh, giữa thế giới trần tục và thế giới thiêng. Các nghi lễ này đều
có sự tham gia của người dân trong làng, trong xã. Ví như lễ Tế Thánh ở chùa Thầy
(Hà Nội) năm 2018, trực tiếp thực hiện nghi lễ là đội tế Nam quan gồm gần 20 cụ
ông tuổi từ 60 trở trên của thôn Đa Phúc. Để thực hiện được nghi lễ không chỉ có
gần 20 cụ mà còn có đội bát âm phục vụ lễ nhạc và những người chuẩn bị lễ vật
dâng Thánh. Riêng lễ Phụng nghinh ở chùa Keo (Thái Bình) có sự tham gia của
không chỉ 475 người dân làng Keo và các làng khác trong xã Duy Nhất trực tiếp
thực hiện mà còn là sự tham gia của nhiều thành phần dân cư đến từ nhiều xã, tỉnh,
thành khác ở vùng đồng bằng sông Hồng. Vì thế lễ Rước hay còn gọi lễ phụng
nghinh ở chùa Keo (Thái Bình) luôn thu hút đông đảo người dân tham gia. Hay lễ
Rước ở chùa Thầy (Hà Nội), với sự tham gia của người dân ở bốn thôn trên địa
phận xã Sài Sơn như thôn Thuỵ Khuê (thôn anh cả), thôn Đa phúc (thôn anh hai),
thôn Sài Khê và thôn Khánh Tân,… bao giờ đoàn người cuối cùng của đám rước
cũng là nhân dân trong xã, trong huyện và những người dân đến từ các nơi khác của
vùng đồng bằng sông Hồng, họ đi theo đám rước để thể hiện tấm lòng thành kính và
cùng chung niềm tin hướng về Thánh, qua đám rước mỗi cá nhân đều có những cảm
nhận riêng của bản thân về trách nhiệm của cá nhân trong cộng đồng.
Ở phương diện cộng cảm, cứ đến mùa lễ hội khi tiếng trống khai hội cất lên,
tiếng trống hội cũng được xem là sức mạnh của mối liên kết cộng đồng và có ý
nghĩa hơn bao giờ hết. Tiếng trống hội là sự hiệu triệu, thông báo với nhân dân
tham gia vào các hoạt động diễn ra trong lễ hội. Khi người dân được tham gia vào
các hoạt động đó nhiều cung bậc tình cảm được thể hiện như tình làng nghĩa xóm,
tình thân tộc, tình anh em, những mối quan hệ tưởng chừng như đã cũ nhưng trong
lễ hội các mối quan hệ này được làm mới bởi nó xoá đi sự lạnh lùng, trơ mòn trong
133
đời sống thường nhật và nhờ vào không khí của lễ hội những quan hệ này có thêm
sắc thái mới để người dân nơi đây càng thêm gần gũi, vui vẻ, hoà nhã, gắn bó. Họ
dường như thấy quá khứ đang giao hoà với hiện tại, vừa thực, vừa hư, càng làm cho
lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ mang màu sắc riêng và chỉ khi nào thực sự hoà
mình vào không khí của những ngày hội mới cảm nhận được những điều thiêng
liêng đó.
Sự cộng cư, cộng mệnh, cộng cảm đã làm cho người dân nhiều địa phương
vùng đồng bằng sông Hồng nô nức tham gia lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ hàng
năm, họ được trở về cội nguồn với bản sắc văn hoá dân tộc, với truyền thống gắn bó
quê hương và hơn nữa là họ cầu mong những điều tốt đẹp nhất đến với cộng đồng
và mong cho cuộc sống của họ luôn gặp nhiều may mắn.
Vai trò liên kết cộng đồng của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đã tác động sâu sắc
tới cộng đồng, họ chia sẻ với nhau và cùng chung một niềm tin tâm linh, gắn bó với
nhau vì mục đích tốt đẹp đó cũng chính là tiền đề cho nhiều hoạt động khác của cộng
đồng, cùng nhau xây dựng một cộng đồng dân cư ngày càng tốt đẹp.
4.2.1.2. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là điểm tựa tinh thần và giúp cân bằng
đời sống tâm linh của người dân
Tín ngưỡng, tôn giáo trong tâm thức con người là nhu cầu tất yếu. Ngay từ buổi
ban đầu người Việt đã tin vào thuyết vạn vật hữu linh, thế giới tinh thần là vô hình
nhưng lại được biểu hiện qua những hoạt động hữu hình hàng ngày. Con người còn,
niềm tin vào thế giới thiêng cũng vẫn còn tồn tại.
Quá trình đổi mới và phát triển đất nước về nhiều mặt đã giúp cho đời sống
vật chất của nhân dân ngày càng được cải thiện theo chiều hướng tích cực. Đúng
như dân gian thường nói "phú quý sinh lễ nghĩa", cùng với sự sung túc của đời sống
kinh tế, người ta quan tâm hơn tới đời sống tinh thần vì thế nhu cầu về đời sống tín
ngưỡng cũng tăng lên. Từ những năm 1990 đời sống tín ngưỡng đã được quan tâm
với việc phục hồi nhiều lễ hội tín ngưỡng, trong đó có lễ hội tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ, đặc biệt từ năm 2003, sau khi nghị quyết số 25/NQ-TW về công tác tôn
giáo của Ban Chấp hành Trung ương ra đời cho đến nay, các ngôi chùa và lễ hội tín
ngưỡng Tứ vị Thánh tổhoạt động càng phong phú hơn, tạo sức hút lớn đối với
người dân.
Mặt khác, cuộc sống con người với vô vàn những biến đổi, ngày nay khi
khoa học phát triển hiện đại và văn minh nhưng trong thực tế vẫn còn những vấn đề
khó lý giải bằng khoa học, khoảng cách giầu, nghèo ngày càng lớn, tình trạng thất
nghiệp, tệ nạn xã hội gia tăng… làm cho cuộc sống của người dân luôn tiềm ẩn
những nguy cơ bất ổn, mỗi cá nhân luôn tìm cho mình một chỗ dựa về mặt tinh
thần, họ tìm đến với các cơ sở thờ tự, lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ để cầu Phật,
134
khấn Thánh gia độ cho họ trong cuộc sống nơi trần thế, giúp họ cân bằng đời sống
tâm linh, giải toả những uẩn khúc nẩy sinh trong cuộc sống thường nhật đầy phức
tạp. Có những người điều kiện kinh tế khá giả, họ sẵn sàng bỏ ra một phần lợi ích
kinh tế qua việc cung tiến đồ thờ cúng hay công đức tiền để phục vụ nghi lễ, sinh
hoạt tín ngưỡng, trùng tu cơ sở thờ tự. Với họ đây là "công đức" cần thiết để đảm
bảo cho đời sống tinh thần, giúp họ vững tâm trong cuộc sống hiện thực đầy biến
động. Nhiều người còn tin rằng, sự thành công trong sự nghiệp, hay sự thành công
trong lĩnh vực mà họ kinh doanh buôn bán, những lợi nhuận mà họ thu được có sự
hỗ trợ của Phật, Thánh.
Với niềm tin tâm linh, Tứ vị Thánh tổ là điểm tựa tinh thần đáp ứng nhu cầu
tâm linh của người dân, họ luôn đặt niềm tin vào các Thánh, thể hiện cảm xúc đặc
biệt, dành sự tôn kính, ngưỡng mộ đối với những vị Thánh của cộng đồng, bằng
chứng là trong dân gian vẫn lưu truyền những truyền thuyết về các Thánh với tài
năng xuất chúng, chữa bệnh cứu người, cứu đời bằng những phép thuật, cầu đảo để
cho mưa thuận, gió hoà, giúp cho mùa màng của dân chúng được tốt tươi. Mặt khác,
người dân dành không gian linh thiêng trong ngôi chùa để tôn vinh và thờ phụng
các ngài và tưởng nhớ các Thánh thông qua những nghi thức, nghi lễ, tổ chức lễ hội
hàng năm.
Tứ vị Thánh tổ là điểm tựa tinh thần còn biểu hiện qua niềm tin của người
dân vào sự linh thiêng của các Thánh, họ đều tin tưởng rằng Thánh rất thiêng liêng
và tin vào sự chứng nghiệm, mỗi khi gặp bế tắc trong cuộc sống họ đều đến chùa để
cầu xin Thánh gia độ và họ cảm thấy bình an hơn khi nghĩ rằng Thánh dõi theo và
phù hộ cho họ. Trong phiếu khảo sát, với câu hỏi: Ông/Bà thường đến lễ Thánh vào
những thời điểm nào trong năm?. Có 30,2% số người trả lời cho biết họ đến lễ
Thánh khi gặp những khó khăn vướng mắc trong cuộc sống.
Trong quá trình điền dã, NCS phỏng vấn một số người dân tham gia thực
hành tín ngưỡng ở một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thanh tổ để biết họ thường thực hành
tín ngưỡng vào những thời điểm nào, kết quả như sau:
Bác Nguyễn Văn D, tại chùa Láng (Hà Nội) cho biết: "…lần nào nhà tôi có
việc lớn là bà tôi sắm lễ ra chùa để nhờ sư kêu cầu để đức Thánh độ cho mọi việc
được suôn sẻ, như lần tôi ốm nặng vì viêm màng não, bà nhà tôi cũng kêu cầu ở cửa
nhà ngài, nhờ ngài độ cho mà tôi mới khoẻ mạnh trở lại" [Phụ lục 7, BBPV số 13].
Cô Nguyễn Thị L, tại chùa Cổ Lễ (Nam Định) cho biết: "Mỗi khi gia đình có
việc hệ trọng là cô lại đến chùa dâng lễ và nhờ sư Thầy kêu thay lạy đỡ ở cửa Thánh
để ngài độ cho mọi việc được thuận lợi" [Phụ lục 7, BBPV số 11].
Cô Nguyễn Thị N, trông coi điện Thánh tại chùa Keo (Thái Bình) cho biết:
"Mỗi khi gia đình có việc lớn tôi cũng đến chùa kêu ở cửa nhà Ngài để Ngài độ cho,
135
như mới đây cô con gái nhà tôi lấy chồng, tôi cũng kêu ở cửa nhà Ngài để ngài độ
cho mọi việc được hanh thông, không gặp trắc trở" [Phụ lục 7, BBPV số 10].
Để khẳng định vai trò là điểm tựa tinh thần trong đời sống tín ngưỡng của
người dân, trong phiếu khảo sát thiết kế câu hỏi: Thánh có vị trí như thế nào trong
đời sống tín ngưỡng của Ông/Bà?, kết quả thu được như sau:
Bảng 4.1. Vị trí của Tứ vị Thánh tổ trong đời sống tín ngưỡng của người dân
Đơn vị tính: % CÁC CƠ SỞ THỜ TỰ
Chùa Thày
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa
Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Vị trí của các Thánh
trong đời sống tín
ngưỡng Thánh
Từ Đạo Hạnh
Thánh
Dương Không Lộ
Thánh
Nguyễn Giác Hải
Thánh
Ng. Minh Không
Vị trí quan rất quan trọng 22,5 22,7 11,3 11,1
Vị trí quan trọng 59,8 49,3 59,1 68,5
Có vị trí bình thường 15,7 13,6 18,3 11,1
Không có vị trí gì 2,0 0,8 2,6 0,0
Không có ý kiến 0,0 13,6 8,7 9,3
Nguồn: Kết quả tổng hợp khảo sát của NCS.
Như vậy, đối với người dân Tứ vị Thánh tổ có vị trí quan trọng trong đời
sống tín ngưỡng của họ, bởi nếu nhìn chỉ số đánh giá ở hai mức độ Rất quan trọng
và Quan trọng thì trong tổng số phiếu trả lời có đến 75,7% số người trả lời khẳng định
Thánh có vị trí quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của họ. Thêm một minh chứng
nữa để chứng tỏ Tứ vị Thánh tổ là điểm tựa tinh thần của người dân vùng đồng bằng
sông Hồng.
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ xuất phát từ truyền thống đạo lý uống nước nhớ
nguồn, tôn vinh người có công với cộng đồng. Trong đời sống tín ngưỡng của người
dân vùng đồng bằng sông Hồng, Tứ vị Thánh tổ vừa là những vị Bồ Tát của Phật
giáo thị hiện để giúp dân, vừa là những vị Thánh trong Tín ngưỡng dân gian với
những tha lực có thể ban phúc, ban tài, lộc, được nhân dân tin kính và phụng thờ với
tâm thức hướng về cội nguồn đồng thời cũng để tiếp thêm nội lực để hướng tới
những điều tốt đẹp trong cuộc sống, hướng đến chân, thiện, mỹ.
Có thể thấy rằng, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đã tác động vào đời sống tinh
thần thông qua các sinh hoạt văn hoá tâm linh để thoả mãn nhu cầu chủ quan của
mỗi cá nhân và cộng đồng, họ thực hành tín ngưỡng để thoả mãn nhu cầu tâm linh,
để cầu an, cầu yên, cầu sức khoẻ, cầu tài, cầu lộc,… Người dân vùng đồng bằng
sông Hồng với căn tính tin vào tha lực của các đấng siêu nhiên vì thế Tứ vị Thánh
tổ chính là vị thần bảo trợ cho cộng đồng và cá nhân, họ tin tưởng rằng với lòng
thành của mình, các Thánh sẽ giúp họ vượt qua mọi bất trắc trong cuộc sống.
136
Đến với những thực hành tín ngưỡng, đến với lễ hội, người dân không chỉ
sống trong mối giao hoà với các vị Thánh mà còn được thưởng thức các loại hình
nghệ thuật dân gian đặc sắc mang tính thiêng thông qua các tích diễn, trò diễn diễn
tả lại cuộc đời và hàng trạng của các Thánh như múa ếch vồ, múa rối ổi lỗi chầu
Thánh, các trò diễn này chỉ có trong lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Qua đó,
người dân được sống trong không gian văn hoá cổ truyền từ ngàn xưa mà cha ông
để lại, giúp họ có những giây phút thăng hoa, thoả mãn nhu cầu văn hoá tinh thần,
củng cố thêm niềm tin vào vị Thánh mà họ tôn thờ. Niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ
tiếp tục được trao truyền qua nhiều thế hệ làm cho tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ càng
có sức sống lâu bền và là điểm tựa trong đời sống tinh thần của người dân.
4.2.1.3. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ góp phần giáo dục thể hệ trẻ và bảo
lưu các giá trị truyền thống thông qua các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể
Không thể phủ nhận các giá trị về mặt đạo đức, văn hoá của tôn giáo, tín
ngưỡng trong đời sống xã hội, thậm chí các giá trị đó còn là hằng số bất biến trong
sự biến đổi của xã hội ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
cũng thể hiện những giá trị như thế, bởi phần lớn các nội dung của tín ngưỡng đều
thể hiện các đặc tính như: tính hướng thiện, đề cao lòng biết ơn, thể hiện tinh thần
uống nước nhớ nguồn, sự tri ân của thế hệ hôm nay với những bậc tiền nhân đã
được họ ngưỡng mộ và thờ kính. Từ những sự tri ân đó sẽ hướng dẫn người ta suy
nghĩ về chính bản thân, hướng bản thân học tập theo tấm gương của các bậc tiền
nhân đó là rèn luyện ý chí, lối sống, thái độ ứng sử đối với người thân trong gia
đình, đối với những người trong cùng một cộng đồng, với thế giới xung quanh theo
những quy tắc thiêng liêng vừa mang tính ràng buộc, vừa mang tính răn đe.
Trong bối cảnh đổi mới đất nước, nhất là sự tác động của nền kinh tế thị
trường, xã hội đồng tiền, nền tảng đạo đức xã hội đang bị xuống cấp bởi những đảo
lộn giá trị trong xã hội, cũng không thể phủ nhận đạo đức tôn giáo cũng đang phải
đối mặt với những đe doạ của khủng hoảng đạo đức xã hội. Tình trạng suy thoái đạo
đức ở một bộ phận người dân nhất là thế hệ trẻ được biểu hiện thông qua hành vi
ứng xử, lối sống, phong cách, nhận thức sai lầm và có những biểu hiện lệnh lạc
trong nhận thức tư duy, chạy theo đồng tiền, sống thực dụng, chú ý đến những hào
nhoáng bề ngoài đã làm suy thoái giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp.
Gạt qua những biểu hiện hành vi của người dân mang tính thực dụng khi họ
đến thực hành tín ngưỡng, đó là sự cầu xin ban ân, gia độ của Phật, Thánh, họ cầu
xin cho cái hàng ngày và họ cầu xin bất cứ điều gì còn chưa đạt được trong cuộc
sống đời thường, thì ở mức độ nào đó cho thấy, người ta có tin thì mới có thờ, mà
có thờ ắt có thiêng, có kiêng ắt có lành thể hiện trong triết lý dân gian dù đây là triết
lý dân gian đơn giản nhưng đã cho thấy quy luật nhân - quả và ở mức độ nào đó đã
giúp con người hoàn thiện các phẩm chất tâm linh.
137
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là một bộ phận quan trọng trong các giá trị mang
tầm vóc di sản văn hoá truyền thống của người Việt. Các ngôi chùa như chùa Thầy,
chùa Láng (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Đại Bi, chùa Cổ Lễ, chùa Nghĩa
Xá (Nam Định),…, đều là những di tích lịch sử văn hoá đã được nhà nước xếp
hạng, như: chùa Thầy, chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành Thiện (Nam Định) đã
được xếp hạng di tích quốc gia hạng đặc biệt, chùa Nghĩa Xá, chùa Đại Bi (Nam
định) là di tích quốc gia. Những ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ đều là những di sản
văn hoá vật thể mà cha ông đã để lại đó là những di tích có kiến trúc nghệ thuật độc
đáo mang đậm dấu ấn kiến trúc truyền thống của người Việt gắn liền với đời sống
tâm linh và mang giá trị lịch sử văn hoá sâu sắc.
Lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là sản phẩm văn hoá tinh thần của người
dân vùng đồng bằng sông Hồng, là sản phẩm văn hoá phi vật thể trên nền tảng văn
hóa vật thể là kiến trúc, là không gian tâm linh cha ông xây dựng bao đời để lại. Lễ
hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh Tổ vừa có nét chung lại vừa có những nét độc đáo riêng
và được tổ chức hàng năm, đã khai thác các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc
phục vụ nhu cầu văn hoá tín ngưỡng, nhu cầu tâm linh của người dân. Hiện nay lễ
hội chùa Keo (Thái Bình) đã được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể cấp quốc
gia theo quyết định số 217/QĐ-BVHTTDL, ngày 23/01/2017 của Bộ Văn hoá Thể
thao và Du lịch, cho thấy giá trị và vai trò của lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
trong nền văn hoá chung của dân tộc. Bản thân các nội dung, tinh thần như niềm tin
của người dân vào Tứ vị Thánh tổ, hành trạng của Thánh, nghi lễ, trò diễn dân gian
diễn ra trong lễ hội không những phản ánh về một thế giới siêu nhiên mà còn hàm
chứa những giá trị văn hóa, đạo đức kết tinh suốt chiều dài lịch sử. Chính sự hiện
diện sống động đó trong đời sống hiện thực đã góp phần giáo dục con người hướng
về quá khứ, hiểu biết, trân trọng lịch sử của cha ông.
Trải qua bao biến đổi, thăng trầm nhưng người dân vùng đồng bằng sông
Hồng vẫn luôn gìn giữ và trân trọng những giá trị văn hoá lịch sử mà cha ông để lại.
Sự trân trọng đối với lịch sử, đối với những người có công với cộng đồng được
Thánh hoá thể hiện thông qua các thực hành, sinh hoạt tín ngưỡng, nhằm tái tạo lại
những giá trị của lịch sử và tái tạo lại các biểu tượng tinh thần độc đáo của chính
họ. Mặc dù, những thực hành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ít chú trọng đến giáo lý
cao siêu nhưng luôn thể hiện tinh thần "uống nước nhớ nguồn", nhớ ơn những
người có công và cầu mong những điều tốt đẹp, những điều chân thiện sẽ đến trong
cuộc sống. Chính vì thế, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ luôn dung dị và thể hiện giá trị
lịch sử, giá trị nhân văn sâu sắc, góp phần giáo dục giá trị truyền thống cho thế hệ
trẻ hôm nay và mai sau.
138
4.2.2. Đối với Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian ở vùng đồng bằng sông Hồng
4.2.2.1. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ tạo nên thế dung hợp, giao thoa giữa
văn hoá Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian
Trong suốt tiến trình lịch sử, vùng đồng bằng sông Hồng luôn là "mảnh đất
lành" cho các đợt thiên di của các tộc người khác nhau, đáng kể nhất là tộc người
Hán từ phương Bắc di cư xuống. Sự hội tụ của nhiều sắc tộc đã tạo nên một sự đông
đúc về dân cư, sự hỗn dung về nhân chủng và là điều kiện thuận lợi cho những cuộc
giao lưu, tiếp biến văn hóa, tín ngưỡng trên cơ sở nền tảng cơ bản và sự tự chủ của
cư dân tại chỗ (chủ nhân văn hóa bản địa).
Các nghiên cứu trước đều cho thấy, cư dân bản địa/tại chỗ ở vùng đồng bằng
sông Hồng đã có hai lối ứng xử trái chiều với các tôn giáo ngoại nhập, đó là, vừa khoan
dung, cởi mở vừa bảo thủ, khép kín. Trên cái nền sẵn có của tín ngưỡng đa thần, người
dân nơi đây vừa bị động, vừa chủ động tiếp nhận các tôn giáo ngoại lai từ Trung Hoa
và Ấn Độ như Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Các tôn giáo ban đầu du nhập vào
được tiếp nhận và "sống" chủ yếu từ tầng lớp trên và giới trí thức trong xã hội, còn hệ
thống tín ngưỡng có sẵn của người dân vẫn bám rễ sâu trong phong tục tập quán dân
gian. Sau này, trong quá trình khai hóa về dân trí, trong quá trình giáo dưỡng, hai luồng
văn hóa (ngoại lai và bản địa) bắt đầu đan xen, trộn lẫn.
Trong thực tiễn, xu hướng đan xen, dung hợp giữa Phật giáo với Tín ngưỡng
dân gian đã trở thành đặc điểm của đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng của người
Việt nói chung và cư dân đồng bằng sông Hồng nói riêng. Giữa Phật giáo và Tín
ngưỡng dân gian có nhiều mối quan hệ giao lưu, tiếp biến để hình thành nên các
loại hình tín ngưỡng thờ Anh hùng dân tộc, thờ Thành Hoàng làng, đan xen với
Phật giáo, Đạo giáo làm cho bức tranh tôn giáo, tín ngưỡng trở nên đa sắc màu.
Trong ngôi đền thờ thần chủ là Thánh, Thần, Tiên, Mẫu còn có mặt cả Phật, trong
ngôi chùa thờ Phật, Bồ Tát, La Hán cũng có mặt cả Thần, Thánh, Mẫu và người có
công với làng, với nước.
Việc tôn các vị thiền sư Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải,
Nguyễn Minh Không trở thành những bậc Thánh và thờ phụng họ ở một số ngôi
chùa của người dân đồng bằng sông Hồng đã tạo nên thế dung hợp, giao thoa giữa
văn hóa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian người Việt. Các ngôi chùa thờ Tứ vị
Thánh tổ còn kiêm thêm chức năng Đình làng và đã trở thành "bùa làng" nơi thờ
cúng các vị Thánh của họ, trở thành trung tâm tụ họp, sinh hoạt văn hóa, tinh thần
và điểm tựa tâm linh rộng rãi của cộng đồng, được cộng đồng dân cư gìn giữ, bảo
vệ. Văn hóa Phật giáo được bảo tồn cùng văn hóa, tín ngưỡng dân gian.
Sự giao thoa giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian được chép lại trong các
tài liệu như Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam Chích Quái, với những câu chuyện ly kỳ
139
đầy tính huyền thoại về các vị thiền sư của Phật giáo được tôn thành các vị Thánh
trong Tín ngưỡng dân gian, sự giao thoa đó còn được thể hiện ở cơ sở thờ tự, những
ngôi chùa ngoài không gian thờ tự là Điện Phật còn có thêm một không gian thiêng
nữa là Điện Thánh và trong đời sống tín ngưỡng của người dân Điện Thánh thể hiện
sự linh thiêng, huyền bí và vai trò tối linh của vị Thánh được thờ.
4.2.2.2. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ tạo nên nét mới cho cả Phật giáo và
Tín ngưỡng dân gian
Sự dung hợp giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian biểu hiện trong các ngôi
chùa thờ Tứ vị Thánh tổ ở vùng đồng bằng sông Hồng đã tạo nên một sự thay đổi cho
cả Phật giáo từ lối kiến trúc chùa, điện thờ, ngai thờ, tượng thờ, bài vị, nghi lễ, lễ hội
của Phật giáo, hình thành loại hình chùa tiền Phật, hậu Thánh, nghi lễ và lễ hội là sự
đan xen giữa nghi lễ Phật giáo và nghi lễ dành cho các vị Thánh theo quan niệm tín
ngưỡng tâm linh của cư dân nông nghiệp. Từ biểu tượng, hình ảnh và thông qua
những nghi lễ trang nghiêm để diễn tả khát vọng của cư dân nông nghiệp trồng lúa
nước với việc cầu mong mưa thuận gió hoà, đảm bảo cho mùa màng được bội thu.
Những khát vọng đó được thể hiện qua nghi lễ Mộc dục, hay qua các trò diễn như
Vật cầu ở chùa Đại Bi (Nam Định), hay như trò đấu pháo trong lễ hội chùa Láng (Hà
Nội), tiếng pháo nổ rền liên tưởng như tiếng sấm gọi mưa về. Những nghi lễ, lễ hội
này không thể nào có được trong các ngôi chùa thuần tuý chỉ thờ Phật hay những
ngôi chùa tiền Phật, hậu Mẫu ở vùng đồng bằng sông Hồng. Chính những khác biệt
đó đã tạo nên những sắc diện mới cho Tín ngưỡng dân gian của người Việt ở vùng
đồng bằng sông Hồng.
Khi đó, Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian sẽ biến đổi theo trạng thái: (i) Phật
giáo trở nên đại chúng hơn, trở nên thân quen gần gũi, dễ dàng gia nhập vào đời sống
người dân vùng đồng bằng sông Hồng, (ii) Tín ngưỡng dân gian trở nên mới mẻ hơn,
phong phú hơn, sâu sắc hơn và có mặt trong không gian thờ tự của Phật giáo. Phật giáo
và Tín ngưỡng dân gian đều được đại chúng hóa, cùng thành một với nhau tạo nên Tín
ngưỡng Tứ vị Thánh tổ nhuốm mầu thần thiêng và tăng thêm sức mạnh.
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ tạo nên nét mới cho cả Phật giáo và Tín ngưỡng
dân gian, cụ thể:
* Gia tăng tính nhập thế của Phật giáo, làm phong phú đa dạng hơn Tín
ngưỡng dân gian của người Việt vùngđồng bằng sông Hồng.
Xu hướng nhập thế của Phật giáo là một thực tế đã tồn tại không chỉ trong lịch
sử mà ở cả hiện tại, ngay từ khi đức Phật còn tại thế Phật giáo đã thể hiện quan điểm
"Phật pháp bất ly thế gian pháp", ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ, tính nhập thế
của Phật giáo càng được biểu hiện rõ nét. Cùng với sự đa dạng của thành phần dân cư
và cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đô thị hóa, tín ngưỡng Tứ Thánh trong các ngôi chùa
140
càng trở nên phong phú hơn. Đến với lễ hội của các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ,
người dân thể hiện sự ngưỡng vọng của mình không chỉ đối với Phật mà còn đối với
các vị Thánh và họ đến thực hành tín ngưỡng để cầu xin sự gia độ từ Phật, Thánh, họ
không chỉ cầu siêu thoát vào cõi tịnh độ hay cầu xin cho quốc thái, dân an, cho mưa
thuận gió hòa, mùa màng bội thu mà họ cầu xin cho cái hàng ngày, những điều rất cụ
thể và thực tế như: cầu sức khỏe, cầu may mắn trong buôn bán làm ăn, cầu phát tài sai
lộc, cầu danh vọng đó là được thăng tiến trong nghề nghiệp, học hành thi cử đỗ đạt, gia
đình phú quý giàu sang….
Tứ vị Thánh tổ vốn là các thiền sư, là những con người thật, có công trạng với
nước và được triều đình sắc phong, có công với dân là những vị tổ nghề, người khai
làng lập ấp, dạy người dân đúc đồng, trồng lúa, múa rối. Khi họ qua đời, người dân
đã tôn vinh họ thành bậc Thánh trong Tín ngưỡng dân gian, những người có tha lực
để ban phúc, ban lộc cho người dân. Như vậy, Phật giáo khi thâm nhập vào cộng
đồng cư dân đồng bằng sông Hồng dù với một hệ thống giáo lý, lễ nghi, tổ chức bài
bản, chặt chẽ đã không đồng hóa các phong tục, tập quán, tín ngưỡng truyền thống
của người dân nơi đây mà nền tảng phong tục, lễ nghi bản địa hầu như không bị
biến dạng nhiều, thậm chí còn bản địa hóa chính Phật giáo và làm cho hệ thống tín
ngưỡng dân gian của mình phong phú và đa dạng hơn lên.
Phật giáo dung hợp với Tín ngưỡng dân gian làm cho hệ thống tín ngưỡng
của người Việt vùng đồng bằng sông Hồng được củng cố, sâu sắc thêm. Các tín
ngưỡng dân gian truyền thống tồn tại trong dân chúng vốn thiếu vắng sự thuyết
phục về một tín điều lớn lao, giàu ý nghĩa thì Phật giáo đã lấp đầy khoảng trống
thiếu vắng đó, làm cho tín ngưỡng dân gian trở nên sâu sắc và ý nghĩa khi triết lý
Phật giáo góp thêm vào triết lý dân gian bằng các nghi lễ nhuốm mầu huyền bí như
nghi lễ Rước, lễ Mộc dục, lễ Tế Thánh, các trò diễn chầu Thánh, các nghi thức, nghi
lễ này luôn thể hiện tính thiêng, thể hiện sự kết nối, mối liên hệ giữa thế giới tục và
thế giới thiêng.
Ở lễ hội chùa Keo (Thái Bình), trước khi bước vào lễ hội chính, dân làng
Keo đã bầu ra một ông Chủ hội và tám người đại diện của tám giáp để giúp ông
Chủ hội điều hành mọi công việc diễn ra trong lễ hội. Ông Chủ hội chọn ra trong
tám vị lấy bốn vị để cùng với mình thực hiện nghi lễ Mộc dục tượng Thánh. Cả năm
người phải ăn chay trong khoảng 10 ngày, tắm gội sạch sẽ trước khi vào Hậu Cung
làm các việc bao sái tượng thờ, thắp đèn hương và tắm Thánh. Những việc làm này
được diễn ra tỷ mẩn theo trình tự nghiêm ngặt đã được chép thành quy chế và
những người đảm nhiệm trong nghi lễ Mộc dục không được tiết lộ cho ai biết những
gì đã trông thấy, những chi tiết này đã thể hiện tính linh thiêng của nghi lễ.
141
Thêm nữa, người Việt vùng đồng bằng sông Hồng ưa lối sống dung dị nên
thực sự cảm hứng trước cách sống thanh tịnh, bình dị, không gợn chút ưu phiền của
các thiền sư Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh
Không, trước khi là những vị tu sĩ Phật giáo họ là những con người bình dị sống ở
vùng đồng bằng sông Hồng. Từ Đạo Hạnh khi còn nhỏ ngày thì đánh cầu, thổi sáo
làm vui, thường bị cha mắng là đồ rông dài hay Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải
làm nghề chài lưới theo nghiệp gia đình ở Trấn Sơn Nam Hạ,… Khi trở thành tu sĩ họ
cũng là những con người dung dị luôn thể hiện tinh thần nhập thế giúp người cứu đời
nên được người dân vùng đồng bằng sông Hồng tôn vinh thành Thánh của họ không
gợn chút dị biệt.
* Làm nên những nét đặc sắc cho các ngôi chùa của Phật giáo ở vùng đồng
bằng sông Hồng
Các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ vùng đồng bằng sông Hồng đều được
khoác lên mình một "bộ áo" mới, được hiện diện trong không gian tôn giáo, tín
ngưỡng mới mẻ.
Khi xây dựng các cơ sở thờ tự của Phật giáo, lối kiến trúc truyền thống của
người Việt được tiếp nhận, được mô phỏng, pha trộn kiến trúc Chùa và Đình làm nên
những kiệt tác, tôn vinh thêm nghệ thuật kiến trúc và mỹ thuật truyền thống của
người Việt, điển hình như chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành Thiện (Nam Định),
chùa Láng (Hà Nội),… khác hẳn với lối kiến trúc của những ngôi chùa Việt truyền
thống chỉ thờ Phật, bởi với các ngôi chùa thờ Tứ Thánh còn có thêm những hạng mục
kiến trúc như Tam Quan Ngoại, tả, hữu hành lang, nơi thờ Thánh thể hiện tính chất
của một ngôi Đền. Trong không gian ngôi chùa, nơi thờ Thánh (Điện Thánh) luôn
đóng kín, chỉ có ánh sáng của hương, nến đã tạo nên không khílinh thiêng, uy nghi,
huyền bí. Người dân khi bước vào Điện Thánh luôn cảm thấy nhỏ bé, sợ hãi trước
không gian thiêng và có cảm giác cần được sự che chở từ các Thánh.
* Hình thành hệ thống nghi lễ thờ cúng Thánh trong các ngôi chùa thờ Phật
Ở các ngôi chùa thuần tuý thờ Phật, ngoài lễ hội tôn giáo và hệ thống nghi lễ
hàng năm liên quan tới Phật giáo như: Lễ Khánh đản Đức Phật bà Quan âm, Lễ
Phật đản, Lễ Vu Lan,… thì ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ không chỉ có các
nghi lễ Phật giáo mà còn có nghi lễ thờ cúng Thánh. Nghi lễ thờ cúng Thánh không
đơn lẻ mà là một hệ thống có liên kết, theo trật tự, gồm: lễ Mộc dục, lễ Tế, lễ Rước,…
được thể hiện trong lễ hội làng, các nghi lễ này vốn chỉ diễn ra ở các ngôi Đình, Đền,
nơi thờ Thành Hoàng làng hoặc các vị Thần bảo trợ cho cộng đồng làng, như đã nêu ở
trên, trong trường hợp này ngôi chùa còn gánh thêm chức năng của ngôi Đình. Cho
thấy, Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian song hành ở cùng một cơ sở thờ tự.
142
Hệ thống nghi lễ thờ cúng Thánh chính là bộ phận quan trọng của văn hoá
dân gian chứa đựng những giá trị của lịch sử, được thực hành sống động trong thế
giới đương đại để cùng nhau hướng về quá khứ hào hùng của cha ông. Các thực
hành thờ cúng Thánh ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ thường không chú trọng
đến giáo lý cao siêu của nhà Phật mà chú trọng đến yếu tố tâm linh, thể hiện đạo lý
"uống nước nhớ nguồn", cầu mong những điều tốt đẹp, chân, thiện đến với cuộc
sống thực tại và mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã dung hợp với các phong tục tập
quán, tín ngưỡng của người Việt, nói như Nguyễn Lang trong tác phẩm "Việt Nam
Phật giáo sử luận", sự dung hợp đó như "nước thấm vào lòng đất", không gặp
những phản ứng hay trở ngại khốc liệt nào từ tín ngưỡng, bởi tôn giáo không chống
lại tín ngưỡng cũng như tín ngưỡng không chống lại tín điều của tôn giáo. Phật giáo
đã cố gắng gần gũi trong nếp ăn, thói ở của người Việt và hơn cả là phù hợp với tâm
can người Việt. Còn phong tục tập quán của người Việt vốn dĩ độc lập nhưng cởi mở,
thân thiện, không cố chấp để tìm kiếm một chỗ dựa tâm linh rộng rãi và hiệu quả nhất,
nên cũng dễ dàng dung hợp với Phật giáo tạo nên những nét đặc sắc của tín ngưỡng Tứ
vị Thánh tổ trong các ngôi chùa Phật giáo vùng đồng bằng sông Hồng.
4.3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA TÍN
NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY
4.3.1. Nâng cao nhận thức về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
Dưới sự tác động của điều kiện kinh tế, xã hội, đặc biệt là nền kinh tế thị
trường Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đã trở thành không gian văn hoá động và mở,
không còn là không gian văn hoá của một làng, xã nhất định mà đã có những sự
giao lưu, dung hợp với nhiều dấu ấn văn hoá khác nhau. Trong nhận thức của cư
dân vùng đồng bằng sông Hồng, Tứ vị Thánh tổ vẫn là những vị Thánh, vị Thành
Hoàng, vị Tổ nghề được nhân dân ngưỡng mộ và tôn thờ bởi những đóng góp lớn
lao của họ đối với cộng đồng và người dân nơi đây vẫn có niềm tin sâu sắc vào các
Thánh. Tuy nhiên, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng đang có nhiều xáo trộn, do
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đã tạo nên sự đa dạng và phức tạp hơn về
thành phần dân cư. Ngoài cư dân sở tại sống lâu đời trên vùng đất này thì nơi đây có
thêm những cư dân từ những vùng đất khác đến kinh doanh, phát triển các nghề
dịch vụ tại các địa phương vì thế số lượng và thành phần dân cư không ổn định, cơ
cấu ngành nghề có sự chuyển dịch, điều này tác động trực tiếp đến tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ, bởi đó chính là sự phân hoá, sự khác biệt trong nhận thức, niềm tin và
thực hành niềm tin đối với các Thánh.
Thực tế hiện nay, hiểu biết về Tứ vị Thánh tổ của một bộ phận người dân
nhất là giới trẻ ngày càng mờ nhạt, thậm chí chính những người lãnh đạo và người
143
công tác trong lĩnh vực văn hóa, quản lý tín ngưỡng, tôn giáo cũng không hiểu giá
trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Nhiều người đến lễ nhưng không biết vị Thánh được
thờ là ai? Hành trạng của Thánh như thế nào? Thánh có công lao gì đối với triều đình,
và nhân dân trong lịch sử? Người đến thực hành tín ngưỡng với họ chỉ cần nghe nói
rằng Thánh thiêng, sự phù hộ độ trì của Thánh đã được chứng nghiệm trong cuộc sống
và chỉ cần nghe kể lại từ những người đi lễ khác thì họ sẽ tìm đến dâng lễ và xin Thánh
ban tài phát lộc, cầu xin cho những mục đích của cuộc sống hàng ngày. Hay nhiều
người tham gia trong lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, họ đến với lễ hội không phải vì
sự tin tưởng, niềm tin thiêng liêng vào vị Thánh mà cộng đồng thờ phụng, họ đến
không phải nhằm mục đích tôn vinh công trạng của các Thánh, mà họ tham gia trong lễ
hội vì sự tò mò, vì tâm lý muốn tìm đến với những chỗ đông, vui, đến vì phần hội diễn
ra sôi nổi với những trò chơi mang mục đích giải trí.
Mặt khác, đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội ngày càng phát triển, các hình thức
văn hoá mới du nhập như làn sóng văn hoá Hàn Quốc, Trung Quốc các loại hình văn
hoá phương tây, các lễ hội fetival quốc tế,… Việc du nhập và tiếp nhận văn hoá và lễ
hội nước ngoài là nhu cầu trong việc giao lưu tiếp biến văn hoá, đặc biệt trong thế
giới phẳng và mở như hiện nay, nhưng chính những làn sóng văn hoá, lễ hội này đang
làm mờ đi những giá trị văn hoá truyền thống nhất là ở giới trẻ, họ dễ thích nghi và
tìm đến với những loại hình văn hoá quốc tế và bị những trào lưu văn hoá này lôi
cuốn mà không còn mấy mặn mà với các lễ hội truyền thống. Vì thế, phải nâng cao
nhận thức của người dân về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ nhằm phát huy những giá trị
tích cực của tín ngưỡng này trong đời sống xã hội, đồng thời nhằm lưu giữ và bảo tồn
giá trị văn hoá đích thực của loại hình tín ngưỡng này bằng nhiều cách thức khác
nhau nhưng đặc biệt chú ý đến công tác truyền thông như: tuyên truyền cho người
dân hiểu rõ thêm về tiểu sử, hành trạng của các Thánh, tuyên truyền về giá trị vật thể
và phi vật thể mà tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đã tạo nên, qua đó khơi dậy những nét
đẹp văn hoá, tôn vinh các Thánh đã có công với nhân dân với đất nước, thúc đẩy các
hoạt động trao truyền qua các thế hệ về giá trị văn hoá. Thực hiện truyền thông về lễ
hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ cho thấy không khí sôi nổi của ngày hội, phỏng vấn
người dân tham dự lễ hội nhằm thu hút nhiều hơn nữa người dân ở vùng đồng bằng
sông Hồng nói riêng và người dân trong khắp cả nước đến tham dự lễ hội, qua đó gìn
giữ và phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ.
4.3.2. Phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ thông qua bảo tồn
di sản văn hoá vật thể và phi vật thể
4.3.2.1. Đối với di sản văn hoá vật thể
Nói đến tín ngưỡng Tứ vị Thánh Tổ là nói đến sự gắn bó hữu cơ giữa yếu tố
vật chất và yếu tố tâm linh, yếu tố vật chất chính là những ngôi chùa, là nơi kết tinh
144
của nhiều giá trị lịch sử, văn hoá, kiến trúc, tôn giáo. Các ngôi chùa thờ Tứ vị
Thánh tổ đều là những di sản văn hoá vật thể vừa mang nét chung của kiến trúc Phật
giáo lại vừa pha trộn với kiến trúc dân gian, là nơi hội tụ, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng
của cộng đồng của người dân vào những vị Thánh mà họ tôn thờ, bởi vậy để phát
huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ không thể không gìn giữ và bảo tồn các
sản phẩm văn hoá vật thể.
Thứ nhất, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu về giá trị văn hóa vật thể đặc
sắc của các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh Tổ: Đây là một việc làm cần thiết để có
những đánh giá tổng thể về giá trị của di sản, có kế hoạch khảo sát, nghiên cứu chi
tiết hơn về những ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ, ngoài những ngôi chùa điển hình
như chùa Thầy, chùa Láng (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành Thiện,
chùa Cổ Lễ, chùa Nghĩa Xá, chùa Đại Bi (Nam Định) còn rất nhiều ngôi chùa khác
cần phải được lập hồ sơ, chỉ có lập hồ sơ khoa học đầy đủ mới có cơ sở phân loại,
đánh giá giá trị và định hướng bảo tồn.
Thứ hai, trùng tu, tôn tạo di tích: Cùng với việc lập hồ sơ và định hướng bảo
tồn di tích thì phải trùng tu, tôn tạo, đó là mới là việc làm thiết thực, trong quá trình
nghiên cứu một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ đã xuống cấp nghiêm trọng như
chùa Nghĩa Xá (Nam Định), một số di tích bị các hộ dân xâm lấn như: chùa Thầy,
chùa Láng, chùa Lý Quốc Sư (Hà Nội), vì vậy chính quyền địa phương và Ban
Quản lý di tích cần có phương án tôn tạo di tích trả lại không gian tâm linh của các
ngôi chùa để người dân có điểm sinh hoạt tín ngưỡng, tâm linh phù hợp, theo đúng
quy định của pháp luật hiện hành.
Công tác trùng tu, tôn tạo di tích phải được thực hiện bài bản khoa học, đảm
bảo giữ gìn tối đa những giá trị gốc, chính là những giá trị lịch sử, kiến trúc, nghệ
thuật mà cha ông để lại, tránh việc trùng tu tôn tạo làm mất đi giá trị của di tích. Đối
với những ngôi chùa đã được xếp hạng di tích (chùa Thầy, chùa Láng, chùa Lý Quốc
sư (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành Thiện, chùa Nghĩa Xá, chùa Cổ
Lễ, chùa Đại Bi (Nam Định),…) khi trùng tu tôn tạo phải đáp ứng theo đúng yêu cầu
của Luật Di sản văn hoá cũng như đáp ứng yêu cầu của quy trình trùng tu, tôn tạo, trên
cơ sở đảm bảo nguyên tắc đó là trùng tu, tôn tạo để di tích tồn tại lâu dài đồng thời giữ
nguyên giá trị về lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật, văn hoá của công trình.
Cần lưu ý đến những đặc thù của di sản bởi mỗi ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh
tổ chính là yếu tố vật chất của niềm tin là sợi dây liên kết giữa những người dân
trong cộng đồng, là nơi giao cảm giữa thế giới trần tục và thế giới thiêng, mọi việc
làm nếu đánh mất đi hình ảnh ngôi chùa, đánh mất đi tính truyền thống của ngôi
chùa sẽ đồng nghĩa với việc phá vỡ các mối quan hệ bền vững đó.
145
Thứ ba, phát huy giá trị của các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh Tổ: Chính quyền
địa phương, Giáo hội Phật giáo Việt Nam các cấp, Ban Quản lý di tích (đối với
những ngôi chùa đã được xếp hạng), cần thống nhất xây dựng một kế hoạch cụ thể
nhằm bảo tồn và khai thác tiềm năng của các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ. Vấn đề
phát triển du lịch sẽ ảnh hưởng tới các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của ngôi
chùa vì vậy đi đôi với việc khai thác tiềm năng du lịch của các ngôi chùa thờ Tứ vị
Thánh Tổ là việc bảo tồn các di sản đó.
Để phát triển văn hóa, đưa các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ trở thành điểm
đến tâm linh ở vùng đồng bằng sông Hồng cần phải có kế hoạch cụ thể để có thể thu
hút được du khách. Các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ đều là những ngôi chùa cổ, có
giá trị lịch sử, văn hoá, kiến trúc đặc trưng, đều là những địa điểm có thể thu hút
đông đảo du khách tới tham quan, hành hương và chiêm bái, tuy vậy hiện nay số
lượng du khách đến với các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ còn hạn chế, do vậy cần
xây dựng một kế hoạch quảng bá, truyên truyền, kết nối các địa điểm tham quan
trong vùng thành một chuỗi di tích danh thắng liên hoàn để thu hút du khách. Ngoài
ra, cần đầu tư về cảnh quan môi trường, hạ tầng cơ sở, đội ngũ hướng dẫn viên hiểu
biết về giá trị của di sản để thu hút du khách.
Tuy nhiên, nếu khai thác mà không bảo tồn, gìn giữ sẽ dẫn đến mai một và
biến mất hoàn toàn di sản của cha ông để lại, nhưng nếu bảo tồn, gìn giữ mà không
khai thác thì những ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ sẽ biến thành những di tích chết.
Vì vậy, công tác bảo vệ phát huy giá trị của các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh Tổ
không chỉ có sự tham gia của chính quyền, của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và của
Ban Quản lý di tích mà còn phải có sự tham gia của cộng đồng.
Trong bảo tồn, phát huy giá trị của các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ cần có
sự tham gia của cộng đồng (cả người đân địa phương và du khách), bởi vai trò của
cộng đồng trong công tác này rất lớn, các di tích này vốn thuộc về cộng đồng, họ là
những người trực tiếp thụ hưởng các lợi ích từ di tích nếu phát huy tốt vai trò của họ
sẽ giúp gìn giữ những ngôi chùa, góp phần quan trọng vào việc vun đắp truyền
thống, truyền bá các giá trị lịch sử văn hoá, là động lực để thúc đẩy việc bảo tồn và
phát huy giá trị của các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ.
4.3.2.2. Đối với di sản văn hoá phi vật thể
Trong mục này luận án chỉ đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy giá trị
của lễ hội - một loại hình di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu:
Thứ nhất, coi trọng tính đặc thù độc đáo riêng của lễ hội tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ
Do chức năng lưỡng hợp tôn giáo trong các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ đã
dẫn đến chức năng văn hoá của ngôi chùa cũng hỗn dung nhiều yếu tố của văn hoá
146
dân gian. Vì thế, lễ hội mặc dù diễn ra ở chùa nhưng lại không phải tôn vinh các vị
Phật mà tôn vinh các vị Thánh vốn là các nhà sư của Phật giáo tu hành đắc đạo. Các
lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đã góp phần hình thành những không gian văn hoá
đặc trưng của vùng đồng bằng sông Hồng, thể hiện những nét độc đáo theo mô hình
của lễ hội dân gian truyền thống với nội dung hết sức da dạng và phong phú, mang
đậm nét bản sắc văn hoá của dân tộc. Trong lễ hội, các nghi lễ, trò chơi dân gian đã
thể hiện phong tục, tập quán, nếp sống của người dân vùng đồng bằng sông Hồng.
Sự phong phú và giầu bản sắc trong lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đã góp phần
tạo nên nền văn hoá đa dạng của Việt Nam.
Tuy nhiên, lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ hiện nay đang bị pha tạp tích
hợp nhiều yếu tố tín ngưỡng khác như tín ngưỡng thờ Mẫu mà luận án đã trình bày
ở mục 3.3.1. Chính vì vậy, cần phát huy vai trò của cộng đồng, của mỗi cá nhân và
sự tham gia của chính quyền trong việc bảo vệ phát huy tính đặc thù, độc đáo, riêng
có của lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Chính quyền địa phương và Giáo hội Phật
giáo Việt Nam cần lập hồ sơ, đề nghị nhà nước công nhận một số lễ hội là di sản
văn hoá phi vật thể cấp quốc gia như lễ hội chùa Thầy (Hà Nội), lễ hội chùa Keo
Hành Thiện (Nam Định)… đây là việc làm cần thiết đối với việc bảo vệ di sản văn
hoá phi vật thể.
Tiếp đến, bản thân lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ vốn mang những nét độc
đáo khác với các lễ hội khác ở vùng đồng bằng sông Hồng, cần điều tra, sưu tầm,
ghi chép, ghi âm, thu hình trên cơ sở tôn trọng sự khách quan, tránh sự nguỵ tạo để
nhằm giữ nguyên những nét độc đáo trong lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ.
Thứ hai, phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng trong việc gìn giữ và phát
huy giá trị lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ mang tính dân tộc đậm nét, lưu giữ những giá trị
văn hoá truyền thống của dân tộc thông qua nghi lễ và lễ hội tưởng niệm và biểu dương
công trạng của các Thánh. Trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế hiện nay
muốn hoà nhập mà không hoà tan thì phải giữ vững những giá trị truyền thống đó là
cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc trong đó có tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Để giữ
vững giá trị văn hoá của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong mối quan hệ với giá trị truyền
thống cần có tinh thần đoàn kết, tinh thần cố kết cộng đồng của cư dân địa phương bởi
cộng đồng vừa là chủ thể sáng tạo văn hoá, vừa là chủ thể sở hữu văn hoá.
Để tạo cho các di sản văn hoá phi vật thể thực sự là những di sản "sống" thì
cộng đồng chính là môi trường hoàn hảo nhất để lưu giữ. Sự tham gia trực tiếp của
cộng đồng đóng vai trò quyết định trong việc gìn giữ và phát huy các giá trị của di
sản văn hoá phi vật thể, cần khuyến khích những người trẻ trong cộng đồng nhiệt
tâm hơn với văn hoá dân tộc.
147
Lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là di sản sống, không chỉ được gìn giữ mà
còn được sáng tạo, bồi đắp và trao truyền qua từng thế hệ, và nó chỉ thực sự có giá trị
khi được cộng đồng và mỗi cá nhân tiếp nhận, nuôi dưỡng đưa nó trở thành một bộ
phận không thể tách rời trong đời sống tinh thần của mỗi thành viên trong cộng đồng.
4.3.3. Hoàn thiện chính sách pháp luật trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo, văn hóa
Để tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ thực sự phát huy những nhân tố tích cực của
mình trong đời sống xã hội, trước hết cần có sự đảm bảo của Nhà nước về xây dựng
hành lang pháp lý cho tín ngưỡng, tôn giáo hoạt động. Mặc dù trong thời gian qua,
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo là
không thể phủ nhận và cũng đã không ngừng cải thiện những quy định của pháp
luật nhằm tạo điều kiện cho tín ngưỡng, tôn giáo được mở rộng, phát huy vai trò
trong đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu tâm linh của đông đảo người dân. Tuy
nhiên, thực tiễn cuộc sống luôn có những đổi thay cho thấy còn có nhiều bất cập
trong các văn bản pháp luật vì thế cần tiếp tục có sự điều chỉnh cho phù hợp với
thực tiễn cuộc sống. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo góp
phần tạo điều kiện cho các hoạt động tín ngưỡng, trong đó có tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định: "tiếp tục hoàn
thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của
Đảng, phát huy những giá trị văn hoá đạo đức tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp
tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [40].
Mặt khác, trong Nghị quyết 25/NQ-TW khẳng định "Giữ gìn và phát huy
những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có
công với Tổ quốc và nhân dân" [5], tuy nhiên quan điểm này của Đảng còn chậm
được thể chế hoá thành các quy phạm pháp luật nhằm giải quyết các nhu cầu chính
đáng của một bộ phận quần chúng nhân dân trong việc tôn vinh những người có
công với cộng đồng, làng, nước.
Việc hoàn thiện chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước
chính là yếu tố cơ bản và then chốt để tạo điều kiện cho tín ngưỡng, tôn giáo nói
chung và tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ nói riêng có một hành lang pháp lý đảm bảo
cho việc phát huy những nhân tố tích cực, giảm thiểu những tác động tiêu cực trong
đời sống xã hội hiện nay. Đó là tạo điều kiện cho công tác bảo tồn và tôn tạo các cơ
sở thờ tự, đó là loại bỏ các hiện tượng lệch chuẩn, những yếu tố mê tín dị đoan ra
khỏi các lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ như đốt vàng mã, xem bói, rút quẻ thẻ,
dâng sao giải hạn,…, các dịch vụ mang tính thương mại như buôn bán trong khuôn
viên cơ sở thờ tự, dịch vụ đổi tiền lẻ, việc rải tiền lẻ tràn lan lên các ban thờ, nhét
148
tiền vào tay tượng Phật, Thánh một dạng "trao đổi" với Phật, Thánh nhất là vào dịp
lễ hội. Các hoạt động trên đã làm mất đi tính linh thiêng của tín ngưỡng, làm méo
mó và xấu đi nét văn hoá truyền thống của dân tộc.
Tiếp đến cần có các văn bản quy định cụ thể về hoạt động của tín ngưỡng thờ
Mẫu để tránh những thực hành nghi lễ hầu đồng ảnh hưởng đến lễ hội tín ngưỡng
Tứ vị Thánh tổ nếu không kịp thời ngăn chặn sẽ làm cho các lễ hội truyền thống này
phát triển thiên lệch, xa rời bản chất tốt đẹp ban đầu.
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ chỉ được bảo tồn và phát huy các giá trị khi và chỉ
khi giải quyết được những hiện tượng tiêu cực nêu trên thì mới làm thanh sạch được
môi trường tín ngưỡng và phát huy được những giá trị truyền thống của tín ngưỡng Tứ
vị Thánh tổ trong đời sống tâm linh của người dân vùng đồng bằng sông Hồng.
Tiểu kết chương 4
Có thể thấy rằng, Tứ vị Thánh tổ được người dân tôn vinh và phụng thờ
trong các ngôi chùa ở vùng đồng bằng sông Hồng bởi các vị không chỉ là những
nhân vật nổi bật, ưu tú của Phật giáo mà còn bởi các vị là những vị Thánh có nhiều
công đức trong đời sống xã hội xưa và còn tác động đến đời sống của người dân
trong hiện tại, đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân, giúp họ vững tin hơn vào
một cuộc sống trước khó khăn và bất trắc.
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ có những đặc điểm khác biệt so với nhiều loại
hình tín ngưỡng khác ở vùng đồng bằng sông Hồng, dưới lớp phủ của tín ngưỡng
dân gian, căn cốt của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ hiện lên vẫn là yếu tố Phật giáo.
Việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ có nhiều giá trị và vai trò trong đời sống xã
hội. Đối với cộng đồng, đã góp liên kết cộng đồng, dựa vào các giá trị chung đó là
niềm tin và thực hành tín ngưỡng đã thúc đẩy tinh thần đoàn kết giữa các thành viên
trong cộng đồng cư dân làng, xã và rộng hơn đó là vùng đồng bằng sông Hồng. Đối
với cá nhân, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là điểm tựa tinh thần, tạo ra mục đích và ý
nghĩa cho đời sống của người dân trong xã hội hiện nay vốn nhiều những khó khăn.
Người dân tìm đến với tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, lấy đó là điểm tựa tinh thần tạo
ra cảm giác an ủi, xoa dịu những khổ đau và nâng đỡ, tiếp sức cho họ có thêm sức
mạnh để vượt qua những khó khăn tiếp tục hy vọng vào cuộc sống hiện tại, đó
chính là chức năng đền bù của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Mặt khác, tín ngưỡng Tứ
vị Thánh tổ còn thể hiện vai trò đối với Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian, bởi tín
ngưỡng Tứ vị Thánh tổ chính là "hợp chất mới" biểu hiện của sự giao thoa, dung
hợp giữa văn hoá Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian người Việt và tạo nên những
sắc diện mới cho cả Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian, làm cho Phật giáo từ một
tôn giáo với những triết lý cao siêu đã trở nên gần gũi thân thuộc với đời sống tín
ngưỡng của người dân, còn tín ngưỡng dân gian trở nên siêu việt hơn nhờ những vị
149
thiền sư được tôn xưng và được Thánh hoá trong tín ngưỡng dân gian và được đưa
vào thờ cúng trong các ngôi chùa của Phật giáo.
Đặc điểm, vai trò của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội là
điều không thể phủ nhận tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay với sự tác động bởi chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực văn hoá, tín ngưỡng, tôn
giáo và sự tác động của yếu tố kinh tế, nền kinh tế thị trường. Những tác động này
vừa mang đến những thuận lợi đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc
phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, đảm bảo vừa phát huy được những
giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc đồng thời phù hợp với bối cảnh đổi mới đất
nước. Vì thế cần nâng cao nhận thức về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, phát huy giá trị
của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ thông qua việc bảo tồn di sản văn hoá vật thể và phi
vật thể và tiếp tục hoàn thiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong
lĩnh vực văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, để tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ lưu giữ được
những bản sắc riêng không hoà tan với những loại hình tín ngưỡng khác và không
mất đi trong bối cảnh đa dạng về văn hoá, tín ngưỡng hiện nay. Việc phát huy giá trị
của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ chính là phát huy giá trị tích cực của văn hóa tâm
linh, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong hội nhập quốc tế hiện nay và
tương lai.
150
KẾT LUẬN
Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là sự thiêng hoá bốn vị thiền sư của Phật giáo
gồm Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không
thông qua việc tái hiện công đức, hàng trạng của các Thánh, cơ sở thờ tự, niềm tin,
thực hành tín ngưỡng của cộng đồng và của người đi lễ. Việc phân tích các thành tố
phác hoạ nên diện mạo của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ dưới góc nhìn tôn giáo học cho
thấy bản chất tín ngưỡng Phật giáo hòa quyện với tín ngưỡng dân gian có vai trò quan
trọng tạo nên nét độc đáo trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân ở nhiều
địa phương vùng đồng bằng sông Hồng.
1. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ chính là một "hợp chất mới" được hình thành
bởi sự dung hợp của hai yếu tố Mật giáo trong Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian của
người Việt ở vùng đồng bằng sông Hồng, có thể nhận diện sự dung hợp đó qua các
phương diện như trong hành trạng của các vị thiền sư đã được "thiêng hoá" trở thành
đối tượng thiêng để người dân thờ cúng và cầu đảo; thể hiện ở cơ sở thờ tự là sự kết
hợp giữa ngôi chùa thờ Phật với ngôi đền thờ Thần. Tuy nhiên, sự dung hợp giữa hai
yếu tố Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian để hình thành nên tín ngưỡng Tứ vị Thánh
tổ có biểu hiện khác so với loại hình tín ngưỡng Tứ Pháp, Thờ Mẫu. Nếu như ở giai
đoạn đầu khi Phật giáo mới du nhập vào nước ta, sự dung hợp của Phật giáo và Tín
ngưỡng dân gian được thể hiện qua câu chuyện giữa vị sư Khâu Đà La với cô dân nữ
Man Nương, giai đoạn này yếu tố Phật giáo có phần nổi trội đã "Phật hoá" các vị
Thần của tín ngưỡng dân gian và đưa vào thờ tự trong các ngôi chùa của Phật giáo.
Đến giai đoạn thời Lý, sự dung hợp giữa Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian vẫn tiếp
biến thể hiện qua câu chuyện của Tứ vị Thánh tổ thì yếu tố Tín ngưỡng dân gian lại
có phần nổi trội. Đã "Thánh hoá" các vị thiền sư của Phật giáo và đưa vào thờ tự
không chỉ trong các ngôi chùa của Phật giáo mà còn được thờ tự ở các ngôi đình
Đình, Đền với tư cách là những vị Thành Hoàng và những vị Thần với tha lực có thể
ban phúc giáng hoạ cho người dân. Đây đều là những cơ sở thờ tự tiêu biểu trong tín
ngưỡng dân gian người Việt, thể hiện sự sáng tạo và phong phú trong văn hóa, đồng
thời cũng thể hiện diện mạo độc đáo của tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt, từ đó
tạo ra những bản sắc văn hoá riêng của dân tộc nhằm phát huy nội lực, thể hiện thế
đứng văn hoá và tinh thần độc lập tự chủ của quốc gia Đại Việt độc lập.
2. Từ những vị thiền sư của Phật giáo, qua những câu chuyện truyền thuyết,
thần tích được lưu truyền trong dân gian những vị thiền sư đã được huyền thoại hoá
trở thành những vị Thánh hiện diện trong đời sống tín ngưỡng của người dân vùng
đồng bằng sông Hồng với sức mạnh thần bí của những đấng siêu nhiên có thể ban
phúc, giáng hoạ, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của người dân Việt luôn thích và tin
151
vào những điều linh dị. Tứ vị Thánh tổ chính là biểu hiện cho phương thức "tạo
thần" độc đáo của người Việt nhằm giáo dục cộng đồng hướng về quá khứ, về lịch sử,
gắn kết lịch sử với thế giới thiêng nhằm tỏ rõ sức mạnh của dân tộc qua việc tạo ra các
biểu tượng tinh thần. Hình ảnh Tứ vị Thánh tổ hiện lên vừa chân thực, vừa kỳ bí, vừa
phản ảnh tinh thần văn hoá Phật giáo vừa thể hiện đặc trưng văn hoá người Việt.
Việc "tạo thần" của người Việt không chỉ phù hợp với tâm thức dân gian, thể
hiện nhu cầu tâm linh tín ngưỡng mà còn thể hiện bản sắc văn hoá và giữ gìn nền độc
lập, bởi sau khi thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc nhà Lý rất cần đến một giá trị văn
hoá tinh thần để động viên vả cổ vũ nhân dân trong công cuộc bảo vệ và xây dựng
nền độc lập cho dân tộc. Nếu như trong quá khứ, giá trị tinh thần của dân tộc chính là
nền văn hoá Đông Sơn và chính nền văn hoá Đông Sơn đã giúp cho nước Việt ta
đứng vững để không bị Hán hoá, không bị đồng hoá về văn hoá thì đến thời Lý, đất
nước bước vào kỷ nguyên độc lập, Phật giáo được đề cao bởi Phật giáo phù hợp với
đời sống tinh thần của người Việt, vì thế không có gì thích hợp hơn khi đem giá trị tinh
thần của dân tộc tích hợp vào các vị sư của Phật giáo vốn là những người trí tuệ, uyên
thâm Phật, Lão, Nho, là những vị tri thức đương thời được nhân dân kính trọng trở
thành biểu tượng và chỗ dựa tâm linh của người Việt. Để rồi từ những vị thiền sư của
Phật giáo được tôn vinh thành những vị Thánh, những vị Tổ nghề và những vị Thành
Hoàng biểu tượng và chỗ dựa tâm linh của người Việt trong buổi đầu dựng nước.
3. Các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ trở thành một dạng chùa tiểu biểu đặc
sắc, một sản phẩm của văn hoá Việt, đó là dạng chùa với kiến trúc phối thờ "tiền
Phật hậu Thánh", luôn có hai khu thờ chính Điện Phật và Điện Thánh. Phật Điện thì
giản dị mà tôn nghiêm, Thánh Điện thì thâm cung mà linh thiêng, nơi thờ Thánh
luôn uy nghi, mang tính chất một ngôi Đền thờ, chứng tỏ vị thế nổi trội của vị
Thánh được thờ phụng, đồng thời thể hiện đặc trưng của yếu tố dân gian trong ngôi
chùa của Phật giáo. Mặt khác sự kết hợp thờ tự này cũng thể hiện tính thực dụng
của người Việt và cách họ "ứng xử" với các thế lực siêu nhiên vì mục đích của
chính họ, phục vụ cho nhu cầu tâm linh của họ. Họ "tạo thần" để chính các vị thần
trở thành đấng thiêng để chở che, để họ cầu đảo, vì cuộc sống của họ. Tứ vị Thánh
tổ không còn là những đối tượng thiêng xa vời mà trở nên gần gũi và là nguồn lực
tinh thần tin cậy đối với người dân.
4. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ là một thực thể tồn tại khách quan và chịu sự
tác động chi phối của các thực thể khác trong xã hội. Trong bối cảnh đổi mới đất
nước sự bày tỏ niềm tin và thực hành tín ngưỡng của cộng đồng và của mỗi cá
nhân người dân ở vùng đồng bằng sông Hồng được thể hiện qua việc tự nhận thức,
qua việc thờ cúng, nghi lễ, lời nguyện cầu, cảm xúc cá nhân vào các thời điểm
mạnh của đời sống tâm linh.
152
Nhận diện niềm tin của người dân vào Tứ vị Thánh tổ với những kết quả
mang tính khách quan, giúp cho những nhận định có luận cứ khoa học. Có thể thấy
rằng, niềm tin vào Tứ vị Thánh tổ là định hướng giá trị vững chắc được biểu hiện
qua nhận thức và mức độ tin, qua sự trải nghiệm linh thiêng và qua thực hành tín
ngưỡng. Đặc điểm nổi bật của niềm tin đối với Tứ vị Thánh tổ là tính ổn định, tính
bền vững và tính hành động.
Thực hành của cộng đồng và của mỗi cá nhân là những phản ánh chân thực
về niềm tin của họ vào Tứ vị Thánh tổ. Kết quả nghiên cứu cho thấy những thực
hành tín ngưỡng vừa thể hiện sự kính ngưỡng đối với Tứ vị Thánh tổ một mặt
hướng đến mục đích cần an, cầu yên ở thế giới trần tục, thể hiện tính thực dụng rõ
nét của người dân. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trở thành một sự "bảo hiểm" trong
đời sống tinh thần của đông đảo người dân vùng đồng bằng sông Hồng.
5. Cùng với sự biến đổi của đời sống xã hội, bản thân tín ngưỡng, tôn giáo
cũng có những sự biến đổi để phù hợp với điều kiện xã hội mới. Tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ cũng có những biến đổi để thích nghi và phát triển. Sự biến đổi đó chịu sự
tác động của quá trình đổi mới đất nước của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, đó
chính là quá trình "sáng tạo truyền thống". Quá trình sáng tạo đó đã mang đến những
mặt tích cực như không làm mất đi những giá trị nhân văn của tín ngưỡng Tứ vị Thánh
tổ, loại bỏ được những một số hủ tục lề thói, phù hợp với đời sống xã hội hiện thực,
làm sống dậy tinh thần cộng đồng và tiếp tục phát triển tín ngưỡng, nhưng cũng có
những mặt tiêu cực nhất định như tính thị trường hiển hiện trong không gian tâm linh,
làm mai một đi một số nghi lễ truyền thống đặc sắc trong lễ hội.
6. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ có vai trò nhất định trong đời sống tâm linh và
đời sống xã hội của số đông người dân vùng đồng bằng sông Hồng. Trong bối cảnh đất
nước đang trên đà đổi mới và hiện đại hoá, những đóng góp tích cực của tín ngưỡng Tứ
vị Thánh tổ trong lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội hiện đại là không thể phủ
nhận, đó chính là sự kết nối, đoàn kết, liên kết trong cộng đồng người có chung niềm
tin vào Tứ vị Thánh tổ, góp phần thúc đẩy, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đó còn
là vai trò đối với Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian là môi trường dung dưỡng các giá
trị văn hoá Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian người Việt, cần được phát huy nhằm góp
phần tạo nên sự đa dạng và phong phú cho bức tranh tín ngưỡng, tôn giáo đa sắc mầu
của Việt Nam.
7. Từ phương pháp tiếp cận Tôn giáo học đã giúp làm rõ những dấu hiệu đủ
khẳng định sự tồn tại của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ vốn đã có sức sống lâu bền, sẽ tiếp
tục tồn tại và phát triển. Những tiếp cận để phân tích các thành tố như đối tượng thờ
cúng, cơ sở thờ tự, niềm tin, thực hành tín ngưỡng của cá nhân, của cộng đồng và
những thay đổi trong thực hành đã phác hoạ diện mạo của tín ngưỡng Tứ vị Thánh Tổ,
153
đồng thời cũng cho thấy đặc điểm, vai trò của của tín ngưỡng trong bối cảnh xã hội
hiện nay.
Luận án áp dụng lý thuyết thực thể trong việc nghiên cứu một loại hình tín
ngưỡng dân gian của người Việt, trong một chừng mực nhất định, lý thuyết thực thể
tôn giáo có sự phù hợp, đã nhận diện được niềm tin, những thực hành của cộng đồng
và của cá nhân được thể hiện qua việc thờ cúng, nghi lễ, lời nguyện cầu, cảm xúc cá
nhân vào các thời điểm mạnh của đời sống tâm linh tôn giáo.
8. Những kết quả nghiên cứu trên đã chứng minh ở vùng đồng bằng sông
Hồng tồn tại một hiện tượng văn hoá đặc biệt và độc lập đó là tín ngưỡng Tứ vị
Thánh tổ với không gian thiêng là vùng đồng bằng sông Hồng và với thời gian
thiêng trải dài qua nhiều thế kỷ từ thời Lý cho đến tận ngày nay. Trải qua biến động,
thăng trầm của lịch sử tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ vẫn luôn vận động, tác động và
ảnh hưởng qua lại với nhiều loại hình tín ngưỡng dân gian khác và là một thành tố
của văn hoá Việt, cần phải có những chính sách và biện pháp quản lý để phát huy
những giá trị tốt đẹp của tín ngưỡng, nâng cao dân trí, loại bỏ những yếu tố tiêu cực,
những biểu hiện "ký sinh" buôn thần, bán thánh nhằm làm trong sạch môi trường tín
ngưỡng, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá nền tảng tinh thần của xã hội
nhằm đưa đất nước vững bước tới tương lai.
Trước sự khó khăn và phức tạp của đề tài, NCS cho rằng công trình này mới
chỉ là bước gợi mở ban đầu, chưa thể khép lại và vẫn còn nhiều khoảng trống cần phải
được bổ sung, không những bổ sung trong nội dung đã được luận án trình bày như niềm
tin và thực hành tín ngưỡng của cộng đồng, của cá nhân,… mà còn cần phải nghiên cứu
và làm rõ về niềm tin, nghi lễ và các hoạt động của cộng đồng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ
ở Đình, Đền và các không gian tôn giáo khác. Những vấn đề đó nếu có điều kiện NCS sẽ
tiếp tục quay trở lại làm rõ ở trong các nghiên cứu tiếp theo./.
154
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Đỗ Thị Thanh Hương (2018), "Vài nét về lễ hội mùa Thu chùa Keo Thái
Bình", Tạp chí Công tác Tôn giáo, (12), tr.35 - 40.
2. Đỗ Thị Thanh Hương, Tạ Quốc Khánh (2019), "Một vài đặc điểm của những ngôi
chùa thờ Từ Đạo Hạnh ở xứ Đoài". Tạp chí Công tác Tôn giáo (3), tr.41 - 47.
3. Đỗ Thị Thanh Hương (2019), "Lễ hội tín ngưỡng Tứ vị Thánh Tổ ở một số ngôi
chùa vùng đồng bằng sông Hồng: Những khía cạnh thay đổi trong bối cảnh
hiện nay". Tạp chí Công tác Tôn giáo, (4), tr.38 - 43.
4. Đỗ Thị Thanh Hương (2019), "Một vài đặc điểm về các ngôi chùa thờ Tứ vị
Thánh Tổ ở Đồng bằng sông Hồng". Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (3), tr.40 - 53.
155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1957), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, (tái
bản), NXB Văn học, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (2010), Việt Nam Văn hoá sử cương, NXB Văn học, Hà Nội.
3. Phạm Thị Lan Anh, Nguyễn Quốc Tuấn (2010), "Góp bàn vấn đề Mật giáo
thời Lý", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (9), tr.3 - 15.
4. Toan Ánh (1992), Nếp cũ - Hội hè đình đám (quyển thượng), NXB Thành phố
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2003), Nghị quyết số 25/NQ-TW ngày
12/3/2003 về công tác tôn giáo, Hà Nội.
6. Ban Chỉ đạo tổng kết nghị quyết số 25 về công tác tôn giáo (2017), Báo cáo
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban
Chấp hành Trung ương (khoá IX) về công tác tôn giáo, Hà Nội.
7. Ban Quản lý di tích Hà Nội (1997), Hồ sơ xếp hạng di tích chùa Thầy, Hà Nội.
8. Ban Quản lý di tích Hà Nội (1997), Hồ sơ xếp hạng di tích chùa Láng, Hà Nội.
9. Ban Quản lý di tích Thái Bình (1997), Hồ sơ xếp hạng di tích chùa Keo, Thái Bình.
10. Ban Quản lý di tích Nam Định (2000), Hồ sơ xếp hạng di tích chùa Keo Hành
Thiện, Nam Định.
11. Ban Quản lý di tích Nam Định (2000), Hồ sơ xếp hạng di tích chùa Cổ Lễ,
Nam Định.
12. Ban Quản lý di tích Nam Định (2001), Hồ sơ xếp hạng di tích chùa Nghĩa Xá,
Nam Định.
13. Ban Tôn giáo Chính phủ (2016), Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị
quyết số 25/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về công tác tôn
giáo, Hà Nội.
14. Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn
giáo (2013), Kỷ yếu hội thảo Chùa Thầy và Chư thánh Tổ sư, NXB Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
15. Lã Đăng Bật (2009), "Phật giáo ở Ninh Bình thời Đinh, Lê, Lý, Trần trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước", Tạp Chí Nghiên cứu Tôn giáo, (4), tr.27.
16. Nguyễn Chí Bền (2011), "Đặc điểm của tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở
Phú Thọ", Tạp chí Di Sản văn hoá, (2), tr.35 - 41.
17. Nguyễn Chí Bền (2015), Lễ hội cổ truyền của người Việt, Cấu trúc và Thành
tố, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
18. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
19. Trần Lâm Biền (2000), Bước đi của ngôi chùa Việt, một con đường tiếp cận
lịch sử, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
156
20. Phan Kế Bính (2002), Nam Hải Dị Nhân, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
21. Phan Kế Bính (2014), Việt Nam Phong tục, NXB Văn học, Hà Nội.
22. Trác Tân Bình (2007), Lý giải tôn giáo, NXB Hà Nội, Hà Nội.
23. Bộ Chính trị (2018), Chỉ thị số 18 - CT/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số
25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về công tác tôn giáo
trong tình hình mới, Hà Nội.
24. Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch (2015), Thông tư số 15/2015/TT-BVHTTDL
của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch, Hà Nội.
25. L.Cadiere (2010), Văn hoá tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, trọn
bộ 3 tập, (bản dịch Đỗ Huệ Trinh), NXB Thuận Hoá, Huế.
26. Tuệ Chân (biên dịch sách Bách khoa Phật giáo) (2008), Mật tông Phật
giáo,NXB Tôn giáo, Hà Nội.
27. Đặng Minh Châu (2016), Mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian
Việt Nam (Qua nghiên cứu một số ngôi chùa tiêu biểu của Phật giáo Bắc
Tông), Luận án tiến sĩ Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Hà Nội.
28. Đoàn Trung Còn (1995), Các tông phái đạo Phật, NXB Thuận Hoá, Huế.
29. Lê Cung (Chủ biên) (2018), Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam
(1945-1974), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
30. Nguyễn Mạnh Cường, Đinh Viết Lực, Nguyễn Đức Dũng (2011), Từ Đạo
Hạnh Trần Nhân Tôn những trái chiều lịch sử, NXB Văn hoá thông tin và
Viện Văn hoá, Hà Nội.
31. Trương Hải Cường (2012), Một số vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.
32. Ngô Văn Doanh (2010), "Chùa Một Cột thời Lý", in trong: Thăng Long - Hà
Nội, tuyển tập công trình nghiên cứu văn hoá, NXB Hà Nội, Hà Nội.
33. Vũ Dũng (2001), "Một số đặc điểm của niềm tin tôn giáo (từ kết quả cuả một
nghiên cứu thực tiễn)", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (1), tr.28 - 30.
34. Đăng Duy (1995), Văn hoá tâm linh, NXB Hà Nội, Hà Nội.
35. Nguyễn Hồng Dương (2004), Tôn giáo trong văn hoá Việt Nam, NXB Văn
hoá thông tin, Hà Nội.
36. Nguyễn Hồng Dương, Thích Thọ Lạc (Đồng chủ biên) (2010), Phật giáo thời
Đinh và Tiền Lê trong công cuộc dựng nước và giữ nước, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
37. Nguyễn Hồng Dương (2014), Tiếp tục đổi mới chính sách về tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận cơ bản, NXB Văn hoá thông tin và
Viện Văn hoá, Hà Nội.
157
38. Lê Tâm Đắc, Tạ Quốc Khánh (2003), "Tính hỗn dung của người Việt thể hiện
qua đối tượng thờ cúng trong các ngôi chùa ở Hà Nội", Tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo, (2), tr.39 - 48.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
42. Thích Quảng Đại, Nguyễn Quốc Thái (2009), Nghi lễ thờ cúng cổ truyền Việt
Nam, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
43. Phạm Trọng Điềm (người dịch), Đào Duy Anh (hiệu đính) (2006), Đại Nam
Nhất Thống chí, tập 4, tái bản lần hai, NXB Thuận Hoá, Huế.
44. Phạm Trọng Điềm (người dịch), Đào Duy Anh (hiệu đính) (2006), Đại Nam
Nhất Thống chí, tập 3, tái bản lần hai, NXB Thuận Hoá, Huế.
45. Hoàng Minh Đô, Lê Văn Lợi (Đồng chủ biên) (2014), 10 năm thực hiện Nghị
Quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá IX về công tác
dân tộc và tôn giáo một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội.
46. Lê Quý Đôn (1962), Kiến Văn Tiểu Lục, NXB Sử học, Hà Nội.
47. Nguyễn Đại Đồng, Nguyễn Hồng Dương, Nguyễn Phú Lợi (Đồng chủ biên)
(2017), Lịch sử Phật giáo Ninh Bình, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
48. Lê Thị Thu Hà (2012), Thánh Không Lộ trong đời sống văn hoá của cư dân
duyên hải Bắc Bộ, Luận án tiến sĩ văn hoá học, Trường Đại học Văn hoá Hà Nội.
49. Hoàng Xuân Hãn (2014), Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo
triều Lý, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
50. Mai Thanh Hải (2001), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam, NXB
Văn hoá thông tin, Hà Nội.
51. Mai Thanh Hải (2006), Từ Điển Tín ngưỡng, Tôn giáo Thế giới và Việt Nam,
NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
52. Đỗ Lan Hiền (2011), Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và đồng
thuận xã hội trường hợp Việt Nam, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
53. Đỗ Lan Hiền (2014), Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, một số vấn
đề trao đổi, bàn luận, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Viện Nghiên cứu Tôn giáo,
Hà Nội.
158
54. Đỗ Lan Hiền (Chủ biên) (2017), Những biến động trong đời sống tôn giáo
hiện nay và tác động của nói đến lối sống người Việt, NXB Chính trị quốc gia
- Sự thật, Hà Nội.
55. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
56. Nguyễn Duy Hinh (2007), Một số bài viết về tôn giáo học, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
57. Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử Đạo Phật, NXB Tôn giáo và NXB Từ điển
bách khoa, Hà Nội.
58. Nguyễn Duy Hinh, Lê Đức Hạnh (2011), Phật giáo trong văn hoá Việt Nam,
NXBVăn hoá thông tin và Viện Văn hoá, Hà Nội.
59. Nguyễn Duy Hinh, Lê Đức Hạnh (2012), Về hội nhập văn hoá trong lịch sử
Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin và Viện Văn hoá, Hà Nội.
60. Nguyễn Duy Hinh, Lê Đức Hạnh (2014), Giá trị tư tưởng tôn giáo phương
Đông và những ảnh hưởng ở Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin và Viện Văn
hoá, Hà Nội.
61. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Văn hoá tôn giáo với phát
triển bền vững ở Việt Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
62. Hội đồng Quốc gia (2002), Từ điển Bách Khoa, tập 2, NXB Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
63. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa (2005), Từ Điển
Bách khoa Việt Nam, tập 4, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
64. Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Những vấn đề nhân học tôn giáo,
NXB Đà Nẵng.
65. Hội Văn nghệ dân gian (2003), Lễ hội cổ truyền ở Nam Định, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
66. Đỗ Quang Hưng (2005), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận
và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Đỗ Quang Hưng (2009), "Tôn giáo và Văn hoá", Tạp chí Di sản Văn hoá, (2),
tr.10 - 18.
68. Đỗ Quang Hưng (2010), Nghiên cứu Tôn giáo nhân vật & sự kiện, NXB Tổng
hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
69. Nguyễn Quang Hưng (2015), Tôn giáo và văn hoá lý thuyết cơ bản và giải
pháp định hướng khai thác các giá trị văn hoá tôn giáo phục vụ phát triển xã
hội Việt Nam hiện nay, NXB Tri thức, Hà Nội.
70. Phạm Thị Thu Hương (2005), "Về các lớp văn hoá trong sự tích thánh Dương
Không Lộ", Tạp chí Di sản Văn hoá, (2), tr.76 - 80.
159
71. Phạm Thị Thu Hương (2007), Những ngôi chùa tiền phật hậu Thánh ở vùng
châu thổ Bắc Bộ, Luận án tiến sĩ văn hoá học chuyên ngành văn hoá dân gian,
Viện Văn hoá thông tin, Hà Nội.
72. Phạm Thị Thu Hương (2013), "Sự dung hợp tôn giáo và tín ngưỡng trong
thần tích một số nhân vật được thờ trong ngôi chùa Việt", Tạp chí Văn hoá -
Nghệ thuật, (4), tr.5 - 11.
73. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu, (Nguyễn Huệ chi soạn, chú và giới thiệu), NXB Văn học, Hà Nội.
74. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam (Những
công trình nghiên cứu của Giáo sư), tập II, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
75. Nguyễn Văn Huyên, Đỗ Trọng Quang (dịch) (2017), Văn Minh Việt Nam,
NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
76. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (Chủ biên) (1994), Lễ hội truyền thống trong
đời sống hiện đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
77. Tạ Quốc Khánh (2013), "Một số đặc điểm lễ hội trong các ngôi chùa thờ Tứ vị
Thánh Tổ ở đồng bằng bắc bộ", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (10), tr.1 - 10.
78. Vũ Ngọc Khánh (2006), Đạo Thánh ở Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
79. Vũ Ngọc Khánh (Chủ biên) (2008), Lễ hội Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà Nội.
80. Vũ Ngọc Khánh (2010), Văn hóa Làng ở Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin,
Hà Nội.
81. Vũ Ngọc Khánh (2011), Chùa Cổ Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà Nội.
82. Vũ Hồng Khiêm (2017), "Giá trị cụm di tích lưu niệm Đại Danh y thiền
sư Tuệ Tĩnh tại Gẩm Giàng, Hải Dương", Tạp chí Thế giới Di sản, (11),
tr.17.
83. Nguyễn Văn Kim (Chủ biên) (2016), Tiếp biến và hội nhập văn hoá ở Việt
Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
84. Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam sử lược, NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ
Chí Minh.
85. Trần Trọng Kim (2019), Đạo giáo, NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
86. Bùi Duy Lan, Phạm Đức Duật (1985), Chùa Keo, NXB Sở Văn hoá thông tin,
Thái Bình.
87. Hoàng Thị Lan (2012), "Phật giáo với việc bảo tồn và phát huy giá trị truyền
thống", Tạp chí Công tác Tôn giáo, (10), tr.28 - 31, 50.
88. Hoàng Thị Lan (2017), "Vai trò của tín ngưỡng dân gian vùng đồng bằng
sông Hồng", Tạp chí Khoa học xã hội, (2), tr.71 - 76.
89. Lê Thị Lan (2012), "Quan hệ giữa Phật giáo và triều đình thời Lý qua trường
hợp Thiền sư Từ Đạo Hạnh một cách giải huyền thoại", Tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo, (4), tr.32 - 36.
160
90. Nguyễn Lang (1973), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, NXB Lá Bối, Sài Gòn.
91. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 2, NXB Văn học, Hà Nội.
92. Vũ Tự Lập (Chủ biên) (1991), Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Hồng,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
93. Nguyễn Quang Lê (2011), Nhận diện bản sắc văn hoá qua lễ hội truyền thống
người Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
94. Lê Hồng Lý (2008), Sự tác động của nền kinh tế thị trường vào lễ hội tín
ngưỡng, NXB Văn hoá thông tin & Viện Văn hoá, Hà Nội.
95. Nguyễn Ngọc Mai (2017), Nghi lễ lên đồng lịch sử và giá trị, NXB Hà Nội,
Hà Nội.
96. Nguyễn Thị Bích Ngọc (2006), Vương triều lý trong văn hoá Việt Nam, NXB
Văn hoá thông tin, Hà Nội.
97. Nguyễn Minh Ngọc (2010), Mật tông trong đời sống văn hoá tinh thần của
người Việt, NXB Văn hoá thông tin và Viện Văn hoá, Hà Nội.
98. Nguyễn Thị Minh Ngọc (2014), "Niềm tin tôn giáo trong mối quan hệ với
niềm tin xã hội", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (12), tr.73 - 89.
99. Phan Ngọc (1998), Bản sắc Văn hoá Việt, NXB Văn học, Hà Nội.
100. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2016), Chính sách, Pháp luật về tôn giáo,
tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại, Hà Nội.
101. Nhà xuất bản Giáo dục (1990), Việt sử thông giám cương mục, tập I, Hà Nội.
102. Nhà xuất bản Hồng Bàng Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây (2012),
Đại Việt sử ký tiền biên, Hà Nội.
103. Nhà xuất bản Hồng Đức (2016), An Nam Chí lược, Hà Nội.
104. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1(in lần
thứ hai có sửa chữa), Hà Nội.
105. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin (2004), Đại Việt sử ký toàn thư,tập 2 (in lần
thứ hai có sửa chữa), Hà Nội.
106. Thích Thanh Ninh, Nguyễn Thế Vinh, Đinh Thế Hinh (2002), Thiền tăng
truyện ký, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
107. Phân viện Nghiên cứu Phật học (1990), Thiền Uyển tập anh, NXB Văn học,
Hà Nội.
108. Phân viện Nghiên cứu Phật học (2008), Từ Điển Phật học Hán - Việt, (tái bản
có bổ sung), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
109. Đỗ Lan Phương (2010), Tục thờ Chử Đồng Tử, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
110. Thạch Phương, Lê Trung Vũ (1995), 60 lễ hội truyền thống Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
111. Lê Xuân Quang (1996), Thờ Thần ở Việt Nam, Tập 2, NXB Hải Phòng, Hải Phòng.
161
112. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp 2013,
Hà Nội.
113. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016), Luật tín ngưỡng,
tôn giáo, Hà Nội.
114. Sống Mới (1960), Việt Điện U linh Tập lục toàn biên những câu chuyện thần
linh cổ nhất nước ta, in tại Sài Gòn.
115. Trần Đăng Sinh (2010), Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên của người Việt ở đồng bằng bắc bộ hiện nay, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
116. Vũ Thanh Sơn (2001), Các vị Thánh sông Hồng, NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
117. Nguyễn Đức Sự, Lê Tâm Đắc (2010), Mấy vấn đề Phật giáo trong lịch sử
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Hà Văn Tấn (1986), "Về ba yếu tố của Phật giáo Việt Nam Thiền, Tịnh, Mật",
in trong sách: Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, chịu
trách nhiệm xuất bản Viện Triết học, in tại nhà in Trường Đại học Tổng hợp,
Hà Nội.
119. Hà Văn Tấn (1994), "Đặc điểm Phật giáo Việt Nam qua ngôi chùa trong đời
sống văn hoá cộng đồng", in trong sách: Những vấn đề tôn giáo hiện nay,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
120. Hà Văn Tấn (2000), "Về một nghi lễ Mật giáo qua bia tháp "Sùng Thiện diên
linh" thời nhà Lý", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (2), tr.31- 36.
121. Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long (1993), Chùa Việt, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
122. Tạ Ngọc Tấn (Chủ biên) (2010), Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt
Nam, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
123. Nguyễn Thị Thanh (2017), Tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề ở quận Hoàn Kiếm
(truyền thống và biến đổi), Luận án tiến sĩ chuyên ngành nhân hoc, Học viện
Khoa học xã hội, Hà Nội.
124. Phạm Minh Thảo, Trần Thị An, Bùi Xuân Mỹ (1997), Thành Hoàng Việt
Nam, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
125. Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, NXB Thành phố Hồ
Chí Minh.
126. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ Lý Nam Đế (554) đến
Lý Thái Tông (1054), tập 2, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
127. Lê Mạnh Thát (2003), Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thời Lý
Nam Đế, tập 1 in lần thứ hai, có sửa chữa bổ sung, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
128. Mật Thể (2008), Việt Nam Phật giáo Sử lược, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
162
129. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Thành phố
Hồ Chí Minh.
130. Đinh Văn Thiên, Nguyễn Trung Minh, Hoàng Thế Long (2010), Đồng bằng
sông Hồng vùng đất - con người, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
131. Thích Đức Thiện, Nguyễn Quốc Tuấn (2011), Phật giáo thời Lý với 1000
năm Thăng Long, Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
132. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
133. Ngô Đức Thịnh (2009), Đạo Mẫu ở Việt Nam, tập 1, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
134. Hồ Đức Thọ (2000), "Từ Viên Quang đến chùa Nghĩa Xá", Tạp chí Nghiên
cứu Phật học, (1), tr.29 - 30.
135. Nguyễn Đăng Thục (1974), Phật giáo Việt Nam, NXB Mặt đất, Sài Gòn.
136. Nguyễn Văn Tiến (2004), Chùa Thầy (Thiên Phúc Tự),NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
137. Trần Mạnh Thường (Chủ biên) (1998), Đình, Chùa, Lăng tẩm nổi tiếng ở Việt
Nam, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
138. Trần Thị Thuỷ (2015), Tín ngưỡng Bà Chúa Kho ở châu thổ Bắc bộ: Nghiên
cứu trường hợp Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ, thành phố Bắc Ninh, Luận án
tiến sĩ Văn hoá học, chuyên ngành Văn hoá dân gian, Viện Văn hoá Nghệ
thuật Quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
139. Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) (1991), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
140. X.A. Tocarev (1994), Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của
chúng,(người dịch Lê Thế Thép), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
141. Chu Quang Trứ (2012), Sáng giá chùa xưa, Mỹ Thuật Phật giáo, NXB Mỹ
Thuật, Hà Nội.
142. Tạ Chí Đại Trường (2014), Thần, Người và đất Việt, NXB Tri thức, Hà Nội.
143. Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn (2012), Toạ đàm khoa học
quốc tế: Tính hiện đại và đời sống tôn giáo hiện nay ở Việt Nam, NXB Tôn
giáo, Hà Nội.
144. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2014), Lễ hội cộng đồng
truyền thống và biến đổi, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
145. Nguyễn Văn Tuân (Dịch chú) (2018), Bách Thần Lục, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
146. Nguyễn Quốc Tuấn (1999), "Về mối quan hệ giữa văn hoá dân tộc và tôn giáo
ngoại sinh", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (1), tr.47 - 53.
163
147. Nguyễn Quốc Tuấn (2000), "Mô hình Phật - Thánh quan chùa Bối Khê - Đại
Bi (Hà Tây)", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (4), tr.16 - 23.
148. Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Ngọc Quỳnh (2007), "Mấy vấn đề về tín ngưỡng
tôn giáo khu vực đồng bằng sông Hồng hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo, (3), tr.19 - 25.
149. Nguyễn Quốc Tuấn (2010), "Góp bàn về Phật giáo thời Lý", in trong: Hội thảo
Khoa học Phật giáo Thời Lý với 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Hà Nội.
150. Nguyễn Quốc Tuấn (2011), Chùa Báo Thiên và Tháp Đại Thắng Tư thiên, tại
trang thưvienhoasen, [truy cập ngày 15/6/2018].
151. Nguyễn Quốc Tuấn (2012), Chùa Bối Khê nhìn từ khảo cổ học Phật giáo,
NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
152. Nguyễn Quốc Tuấn (2012), Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế
kỷ 20, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội.
153. Nguyễn Quốc Tuấn (2014), "Tiếp cận hệ thống về thực thể tôn giáo: một cách
nhìn khác về tôn giáo", Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, (3), tr.3 - 15.
154. Nguyễn Quốc Tuấn (2014), "Triển khai lý thuyết thực thể tôn giáo", Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo, (10), tr.3-19.
155. Võ Văn Tường (2007), 108 Danh lam cổ tự Việt Nam, NXB Thuận Hoá, Huế.
156. Đặng Hữu Tuyền (1991), Chùa Keo Lịch sử và Nghệ thuật kiến trúc, luận án
Phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Viện Khảo cổ học thuộc Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, Hà Nội.
157. Uỷ ban nhân dân xã Sài Sơn (2018), Kế hoạch 50/KH- UBND ngày
16/3/2018, đảm bảo trật tự an toàn giao thống chống ùn tắc giao thông phục
vụ lễ hội chùa Thầy năm 2018, Hà Nội.
158. Đặng Nghiêm Vạn (Chủ biên) (1998), Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn
giáo ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
159. Đặng Nghiêm Vạn (Chủ biên) (1998), Về tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam hiện
nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
160. Đặng Nghiêm Vạn (2012), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
161. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo (2004), Về tôn
giáo và tôn giáo ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Tôn giáo (2011), Nghiên
cứu tôn giáo chặng đường 20 năm (1991-2011), NXB Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
163. Viện Nghiên cứu Phật học (2010), Phật giáo thời Lý, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
164
164. Viện Nghiên cứu Tôn giáo (1994), Về Tôn giáo, tập 1, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
165. Viện Nghiên cứu Tôn giáo, tín ngưỡng (2018), Hội thảo khoa học Xu hướng
biến đổi của đời sống tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Hà Nội.
166. Viện Sử học Việt Nam (1996), Nhà sử học Trần Văn Giáp (tuyển tập), NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
167. Lê Trung Vũ (Chủ biên) (1992), Lễ hội cổ truyền, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
168. Lê Trung Vũ, Lê Hồng Lý (Đồng chủ biên) (2005), Lễ hội Việt Nam, NXB
Văn hoá thông tin, Hà Nội.
169. Trần Quốc Vượng (1996), "Vài ý kiến về Phật giáo và văn hoá dân tộc", in
trong sách: Mấy vấn đề Phật giáo và Lịch sử tư tưởng Việt Nam, NXB Hà
Nội, Hà Nội.
170. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa văn hoá, NXB Văn hoá dân
tộc, Tạp chí Văn học Nghệ thuật, Hà Nội.
171. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, NXB Văn
học, Hà Nội.
172. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (2005), Cơ sởvăn hoá Việt Nam, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
173. Nguyễn Thanh Xuân (2013), Một số tôn giáo ở Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
174. Nguyễn Thanh Xuân (Chủ biên) (2015), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở
Việt Nam, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG
PHỤ LỤC LUẬN ÁN
TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ
Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. ĐỖ LAN HIỀN
2. TS. TẠ QUỐC KHÁNH
HÀ NỘI - 2020
1
Phụ lục 1
BẢNG DANH SÁCH MỘT SỐ NGÔI CHÙA THỜ TỨ VỊ THÁNH TỔ
Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY
TT Tên Chùa Địa điểm Vị Thánh được thờ HÀ NỘI 1 Chùa Láng (Chiêu Thiền Tự) Phố Chùa Láng, Đống Đa, Từ Đạo Hạnh 2 Lý Quốc Sư Phố Lý Quốc Sư, Hoàn
Kiếm Nguyễn Minh Không Từ Đạo Hạnh Nguyễn Giác Hải
Chùa Tổ Ong 79 Lò Đúc, Hà Nội Nguyễn Minh Không 3 Chùa Ngũ Xá (Thần Quang
Tự) hoặc (Phúc Long Tự) Trúc Bạch, Ba Đình Nguyễn Minh Không
4 Chùa Thày (Thiên Phúc Tự) Sài Sơn, Quốc Oai Từ Đạo Hạnh 5 Chùa Đồng Bụt (Thiền Sư
Tự) Ngọc Liệp, Quốc Oai Từ Đạo Hạnh
6 Chùa Tổng (Thiên Hưng Tự) La Phù, Hoài Đức Từ Đạo Hạnh Dương Không Lộ Nguyễn Giác Hải
7 Chùa Cả La Phù (Trung Hưng Tự)
La Phù, Hoài Đức Từ Đạo Hạnh Dương Không Lộ Nguyễn Giác Hải
8 Chùa La Phù (Thiên Hương tự)
La Phù, Hoài Đức Từ Đạo Hạnh Dương Không Lộ Nguyễn Giác Hải
9 Chùa Múa (Thiên Vũ Tự) Dương Nội, Hà Đông Từ Đạo Hạnh Dương Không Lộ Nguyễn Giác Hải
10 Chùa La Dương (Diên Khánh Tự)
Dương Nội, Hà Đông Từ Đạo Hạnh Nguyễn Minh Không Nguyễn Giác Hải
11 Chùa Quán Sứ Số 73 Quán sứ, Hoàn Kiếm Dương Không Lộ
12 Chùa Bến Thôn (Phúc Nghiêm tự)
Dị Nậu, Thạch Thất Từ Đạo Hạnh
13 Chùa Dị Nậu (Bảo Quang Tự)
Dị Nậu, Thạch Thất Từ Đạo Hạnh
14 Chùa Linh Chung Canh Nậu, Thạch Thất Từ Đạo Hạnh
15 Chùa Nền (Đản Cơ tự) Láng Thượng, Đống Đa Từ Đạo Hạnh 16 Chùa Vằn (Thiên Vận Tự) An Khánh, Hoài Đức Từ Đạo Hạnh
Nguyễn Minh Không Nguyễn Giác Hải
17 Chùa Ngãi Cầu (Phổ Quang Tự)
An Khánh, Hoài Đức Từ Đạo Hạnh
THÁI BÌNH 1 Chùa Keo (Thần Quang Tự) Đông Nhuệ, Vũ Thư Dương Không Lộ
2 Chùa Phượng Vũ (Chùa
Múa) Minh Khai, Vũ Thư Từ Đạo Hạnh
2
TT Tên Chùa Địa điểm Vị Thánh được thờ 3 Chùa Hoá Long Quỳnh Thọ, Quỳnh Phụ Nguyễn Minh Không 4 Chùa Am Vũ Tây, Kiến Xương Nguyễn Minh Không
5 Chùa Nổi Vũ Tây, Kiến Xương Nguyễn Minh Không 6 Chùa Bơn Hồng Châu, Đông Hưng, Nguyễn Minh Không 7 Chùa La Vân Quỳnh Hồng, Quỳnh Phụ Nguyễn Minh Không NAM ĐỊNH 1 Chùa Keo (Thần Quang Tự) Xuân Hồng, Xuân Trường Dương Không Lộ 2 Chùa Nội Nam Thành, Nam Trực Dương Không Lộ 3 Chùa Cổ Lễ Thị trấn Cổ Lễ, Trực Ninh Nguyễn Minh Không 4 Chùa Tây Lạc (Viên Quang
Như Tự) Đồng Sơn, Nam Trực Dương Không Lộ
Từ Đạo Hạnh Nguyễn Giác Hải
5 Chùa Lương Hàn (Bảo Quang Tự)
Việt Hùng, Trực Ninh Nguyễn Minh Không Nguyễn Giác Hải
6 Chùa Vũ Lao (Thần Quang Tự)
Tân Thành, Nam Trực Dương Không Lộ
7 Chùa Nam Hà (Diên Phúc Tự)
Tân Thịnh, Nam Trực Dương Không Lộ
8 Chùa Bi (Đại Bi Tự) Nam Giang, Nam Trực Từ Đạo Hạnh 9 Chùa Nghĩa Xá (Viên Quang
Tự) Xuân Ninh, Xuân Trường Nguyễn Giác Hải
Dương Không Lộ Từ Đạo Hạnh Lý Tường Đĩnh
10 Chùa Vị Khê Điền Xá, Nam Trực Dương Không Lộ 11 Chùa Thanh Am Nam Toàn, Nam Trực Dương Không Lộ 12 Chùa Kim Quất Trực Ninh, Nam Định Dương Không Lộ 13 Chùa Xuân Trung Xuân Trung, Xuân Trường,
Nam Định Nguyễn Minh Không
14 Chùa Cổ Ra Xã Nam Hùng, Nam Trực, Nam Định
Nguyễn Minh Không
15 Chùa Thọ Tung Xã Nam Hùng, Nam Trực, Nam Định
Nguyễn Minh Không
16 Chùa Lộng Điền (An Lăng Tự)
Nghĩa Đồng, Nghĩa Hưng, Nam Định
Nguyễn Minh Không
NINH BÌNH 1 Chùa Điềm Giang (Viên
Quang Tự) Gia Thắng, Gia Viễn Nguyễn Minh Không
2 Chùa Địch Lộng Gia Thanh, Gia Viễn Nguyễn Minh Không 3 Chùa Lạc Khoái Gia Lạc, Gia Viễn Nguyễn Minh Không 4 Chùa Hang 5 Chùa Bái Đính (cổ) Tràng An, Hoa Lư Nguyễn Minh Không 6 Chùa, Đình Yên Vệ Khánh Phú, Ninh Bình Nguyễn Giác Hải
Từ Đạo Hạnh Dương Không Lộ
7 Chùa Liêm Thượng (Phổ Hiền tự)
Xích Thổ, Nho Quan Nguyễn Minh Không
CÁC TỈNH KHÁC
3
TT Tên Chùa Địa điểm Vị Thánh được thờ 1 Chùa Ông (Bản Tịch Tự) Tân Quang, Văn Lâm, Hưng
Yên Từ Đạo Hạnh
2 Chùa Trông (Hưng Long Tự)
Hưng Long, Ninh Giang, Hải Dương
Nguyễn Minh Không
3 Chùa Phả Lại (Chúc Thánh Tự)
Đức Long, Quế Võ, Bắc Ninh
Nguyễn Minh Không
4 Chùa Neo Xã Đại Đồng, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương
Nguyễn Minh Không
5 Chùa Kính Chủ Xã An Sinh, huyện Kim Môn
Nguyễn Minh Không
6 Chùa Hàm Long Tp Bắc Ninh Nguyễn Minh Không 7 Chùa Vân Mộng Hà Nam Nguyễn Minh Không CÁC TỈNH KHÁC NGOÀI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 1 Chùa Hàn Sơn Nga Sơn, Thanh Hoá Nguyễn Minh Không 2 Chùa Quỳnh Lâm Hạ Lôi, Đông Triều, Quảng
Ninh Nguyễn Minh Không
(Nguồn: Kết quả khảo sát, tổng hợp của NCS)
4
Phụ lục 2 PHỤ LỤC ẢNH
2.1. Hình ảnh về một số ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh Tổ
Hình 1: Tam quan chùa Láng nơi thờ Thánh Từ Đạo Hạnh
Hình 2: Tam quan chùa Đại Bi (Nam Định) nơi thờ Thánh Từ Đạo Hạnh
5
Hình 3: Tháp chùa Cổ Lễ nơi thờ Thánh Nguyễn Minh Không
3.2. Một số hình ảnh về Tứ vị Thánh Tổ
Hình 1: Khám thờ Thánh Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ
6
Hình 2: Tượng Thánh Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ (Nam Định)
Hình 3: Tượng Tam vị Thánh Tổ ở chùa Tây Lạc (Nam Định)
Hình 4: Tượng Tam vị Thánh Tổ ở chùa Tổng (Hà Nội)
3.3. Một số hình ảnh thực hành nghi lễ của cộng đồng qua lễ hội truyền thống
Hình 1: Lễ vật dâng Thánh Dương Không Lộ trước khi thưc hành nghi lễ Thánh Đản ở chùa Keo Hành Thiện Nam Định
Hình 2: Lễ vật dâng Thánh Từ Đạo Hạnh trong ngày lễ Huý kỵ tại chùa Láng
7
Hình 3: Mâm lễ và thực hành nghi lễ của người dân trong Điện Thánh ở chùa Keo Hành thiện Nam Định
Hình 4: Múa rối chầu Thánh trong nghi lễ Thánh Đản
ở chùa Keo Hành Thiện Nam Định
8
Hình 5: Rước Kiệu Thánh Dương Không Lộ trong nghi lễ Phụng nghinh tại chùa Keo Hành Thiện Nam Định
Hình 6: Đội tế Nam Quan chùa Láng thực hành nghi lễ Tế Thánh Từ Đạo Hạnh trong ngày Huý kỵ
9
Hình 7: Đội Tế Nữ Quan chùa Láng
Hình 8: Thực hành nghi lễ Tế Thánh Từ Đạo Hạnh của đội tế Nữ quan chùa Láng trong ngày Húy kỵ
(Nguồn: NCS chụp trong quá trình điền dã)
10
Phụ lục 3
VỀ THỈNH CẦU CỦA NGƯỜI ĐI LỄ TẠI CHÙA CỔ LỄ VÀ BÁI GIÁO RỐI VĂN HÁT TRONG NGHI LỄ MÚA RỐI CHẦU THÁNH Ở
CHÙA KEO HÀNH THIỆN NAM ĐỊNH
3.1. Những thỉnh cầu của người đi lễ tại chùa Cổ Lễ (Nam Định)
Hình 1: Chùa Cổ Lễ quả chuông cầu nguyện
Hình 2: Những thỉnh cầu của các cá nhân H2.1
H2.2
11
H2.3
H2.4
H2.5
H2.6
12
H2.7
H2.8
H2.9
H2.10
(Nguồn: NCS thu thập trong quá trình điền dã)
13
3.2. Bài Giáo rối văn hát múa rối chầu Thánh trong nghi lễ Thánh đản ở chùa Keo Hành Thiện Nam Định Trống này tôi giáo đời trung hưng vận mở thái hoà
Trống mừng chùa ta nhơn nhơn uy đức Thánh về ngự trị
Khen rằng họ Lý đặt ra trống này
Tôi chẳng biết là đâu cả lớn lên vốn thấy da trâu liên với gỗ, lưng thời đeo sạ,
thấy nhiều điều lạ, chẳng biết là dâu.
Nhớ ngày nọ, học sách sư đẩu. Thần Nông thì dạy dân canh gía
Xem trong thiện hạ, thoạt bước vào lấy nó làm tiên
Con dữ con hiền, chẳng ai phó cho cầu cậy. Thẳng hai mặt tiếng trống kêu lừng
lẫy. Đánh vào thời quốc tộ minh hồng.
Nhức lăn sạ, khô mộc khỏi xông. Dõi truyền để cháu con vạn đại
Rừng đâu mọc khô ra quỷ quái (Sao)
Hình trống là thế ấy, hoà kêu khen, sơn lâm thuỷ tụ lại triều
Rĩ mộc đức vượng già dụ trẻ. Họ Lý chợt mớm cơm vào ra
Tiếng tầm vong già nghe thấy vui thú mừng lòng. Già vui thú, trẻ càng náo nức.
Xem trong phủ có trống rồng vấn đạo.
Trống phát cổ lôi binh, trống tôi đánh mời quan tiến sĩ vào đình
Hồi song rước Vua ra loan xa. Vậy có câu thơ rằng:
Trống là hiệu lệnh phép dùng binh
Nghe tiếng nhơn nhơn giặc quyét không
Mừng thủa thái bình đời thịnh trị
Chúa Đức Thánh ông muôn muôn tuổi ngự ngai vàng
Thần dâng đôi chữ vô vương, vua vạn vạn tuế bốn phương thái bình
Từ bề hải yến hà thương Hương yên khói nhức, đế đô làu làu
Quân thần phù hộ trước sau. Mừng đời Nghêu Thuấn đâu đâu thuận hoà.
Mới đặt ca gióng chời trần bình. Là ông Rối thủa đời Hán quân
Xướng hát lưu truyền vạn dân. Xướng hát lộ truyền, ông Rối là lã đồng tân
Dựng làm léo lượt cải chìm vàng anh. Nó kêu dẻo da dẻo dắt, tách lanh kiều lòng.
Ơ vậy. Sao Đại Việt Hoàng đồ, kính chúc tuổi lễ thọ muôn thu Vua vạn vạn tuế
đương cơn thịnh trị. Tôi mừng tuổi Đức Thánh thọ vạn niên. Mừng đồng xã đắc bình
an sống mỗi ông trăm tuổi, hữu dư trường thọ.
14
Tôi lại mừng bên hàn lâm đông các. Tôi lại mừng bên võ bá tước công hầu
Làm ruộng tốt lúa, nuôi tằm tốt tơ. Buôn bán nhiều bạc, nhiều tiền. Vạn sự giai
thành chẳng kể điều gì. Tôi mới kể một trò nhà Rối. Tôi mới kể mọi nỗi trước sau.
Triều đã lâu, thủa đời Hồ vương chúa Thái Tử có một họ Hồ trị đế đô Lương quốc, lấy
vợ nước Thục làm cung đế vương. Hạnh phòng giao ca râu rót, lấy nhau vừa được hai
mươi mốt năm tròn, Bà Hoàng hậu cầu con chẳng được, Vua mới ban chước ra rằng
Bay ăn chay no bảy ngày nhật dạ, sắm cho no lễ vật tiến tu, Mừng Vua lên chùa Thạch
Tử khiến thầy lão tụng kinh. Đế vương một mình vào lạy. Từ đấy bà Hoàng Hậu thụ
thai, chín tháng mười ngày sinh ra một bọc. Mụ liền nhắc tay chẳng nói, thấy vậy chạy
về tâu Vua cha, Vua mới ban ra rằng đem đi bỏ. Bỏ đâu. Ấy vậy đem bỏ xổi hoa quan.
Đến canh ba giờ Tý trong bọc thanh vẳng tiếng người. Ông thời cười, ông thời khóc.
Ông thời trách mộc than thân. Làm con mình vương phải Vua cha tình phụ, vì vậy
chưa kịp hết lời. Vậy có câu thơ mừng ông Rối rằng:
Dựng làm một Rối tự đời Lương
Dòng dõi con Vua Hồ Kiến Xương
Một sắc một thước làm con đức Phật, đức Thánh
Chúc mừng đồng xã phú quý thiên niên thọ trường
Múa rối ca.
Liên là liền là, vậy liên la la liền, Vậy có cách tập bảy tập ba, Vậy có đường ra
lối vào. Vậy có kẻ nhân tình ai ai. Vậy có kẻ khứ lai đi về. Trợ Vua, trợ Vua, đức nhà
Vua cầm quyền, cho thiên hạ bình an. Làm lễ tam triều ngày nắng mưa. Liền xe liền
xe, giải chiếu xe Vua ngồi. Liền xe liền xe, giải chiếu xe Vua nằm. Vậy Vua nằm trong
gấm điện là vậy Vua nằm ở đền phù dung, phù dung, phù dung, là vậy ở trong vuông
tròn. Mùa xuân, mùa xuân đưa cố nhân ra về. Mùa hạ, mùa hạ nghe tiếng ve âu sầu,
Mùa thu mùa thu bức phù du cực nằm. Mùa đông, mùa đông trực phòng không lạnh
lùng. Sạ lan sạ lan, dài nằm nghe chơi bời. Hô hô hô.
Lê là lê, lê là lê, lê lê lê là lê, cảm Vua vương bá khôn lai.
Trăng lên bức phấn lại bài câu thơ
Một mừng tuổi vua quan vạn tuế, Hai mừng Thánh đế thọ vô cương, Ba mừng
sinh hoàng tử vương Các, các công chúa tuổi được trường sinh, Bốn, Năm mừng đồng
xã khang ninh, Đồng xã đều được hiển vinh sang giầu, Sáu Bảy mừng thịnh sự bỏ trâu,
Tám mừng con cháu tế hôn đầy nhà. Chín mừng tóc bạc trắng hoa. Tuổi sống đến già
15
lại kết tóc xanh. Mừng mừng đồng xã khang ninh. Thọ như lão bành, sống bát bách
niên. Hô hô.
Bông bông bông tầm, cái tập tầm bông. Bông bông bông tầm, cái tập tầm bông.
Là tiếng tầm bông déo da déo dắt. Tiếng tầm bông tiếng thấp tiếng cao. Rạng ngày con
mắt dấp diu, ngồi đâu ngủ đấy đi tầm tầm hoa. Thơ cho đều đế tôi làm đàn con gái.
Một đàn con gái để mụ mà đi. Công mụ dạy dỗ sớm khuya, cớ sao để mụ mà đi cho
đành. Công mụ dạy dỗ năm canh cơ sao để mụ mà đi cho đành. Hô hô hô ..v.v…
Giao Chàng văn
Chàng ơi lối hỡi. Khoan thay đôi mới ban Chàng ở đâu mà đến
Tôi mới ban Chàng ở bên giếng mà lên. Đầu Chàng thời đội cờ,
Tóc chàng là bó tóc tiên
Tôi đã ăn chay khấn nguyện
Chúc mừng đồng xã phú quý thiên niên thọ trường.
(Nguồn: NCS thu thập trong quá trình điền dã)
16
Phụ lục 4 BẢNG HỎI KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC
Phục vụ Đề tài: Tín ngưỡng Tứ vị Thánh Tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay
(Đối tượng khảo sát: Những người đi lễ Thánh)
Thưa các Ông (Bà)!
Tôi là Nghiên cứu sinh của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, đang tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tín ngưỡng Tứ vị Thánh Tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay”, rất mong nhận nhận được các ý kiến từ Ông (Bà). Kết quả trưng cầu ý kiến sẽ được sử dụng cho việc nghiên cứu khoa học và không dùng vào bất cứ việc gì khác. Chính vì vậy, mỗi câu trả lời thẳng thắn và trung thực của Ông (Bà) sẽ giúp nâng cao chất lượng công trình nghiên cứu của chúng tôi, đưa ra những những luận cứ khoa học xác đáng. Ông (Bà) vui lòng đánh dấu (x) vào ô mà Ông (Bà) cho là phù hợp nhất hoặc có thể trình bày ý kiến riêng của Ông (Bà) với những câu hỏi mở. Ông (Bà) không cần ghi tên vào phiếu này. Xin chân thành cảm ơn./.
PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG
1. Thành phố/tỉnh: ………………………………………………. …….
Quận/huyện: ………………………………………………………
Xã/phường: ………………………………………………. …….
2. Ngày phỏng vấn: ………………………………………………. …….
Người phỏng vấn: ………………………………………………. …….
Người giám sát: ………………………………………………. …….
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
1. Ông/Bà cho biết ngôi chùa đang thờ Đức Thánh nào?
Từ Đạo Hạnh Nguyễn Giác Hải
Dương Không Lộ Nguyễn Minh Không
Không biết
Thánh khác (ghi rõ):…………………………………………………………
2. Ông/Bà có biết Đức Thánh hiện đang thờ ở trong chùa như thế nào?
Có Không
(NếuCó chuyển sang câu 3, nếu Không chuyển sang câu 4)
3. Đức Thánh Ông/Bà biết được triều đình và nhân dân tôn vinh là: (có thể lựa chọn nhiều câu trả lời)
17
Quốc sư Tổ nghề múa rối
Thiền sư thời Lý Tổ nghề đúc đồng
Thành hoàng làng Tổ nghề đánh cá
Thầy thuốc Tổ nghề trồng lúa
Không biết Ý kiến khác
4. Theo Ông/Bà Đức Thánh có những công trạng nào?(có thể lựa chọn nhiều câu trả lời)
Có công lao đóng góp cho triều đình nhà Lý
Xây dựng chùa Dạy dân nghề múa rối
Chữa bệnh cho dân Dạy dân nghề trồng lúa
Dạy dân nghề đánh cá Dạy dân nghề đúc đồng
Trừ hoạ cho dân Không biết
Các công trạng khác (ghi rõ):…………………………………………………
………………………………………………………........................................
5. Niềm tin của Ông/Bà vào Thánh như thế nào?
Tin tuyệt đối Tin
Rất tin Nửa tin nửa không
Khá tin Không tin
6. Ông/Bà có tin vào sự phụ hộ độ trì của Thánh không?
Tin tuyệt đối Tin
Rất tin Nửa tin nửa không
Khá tin Không tin
7. Theo Ông/Bà Đức Thánh hiện đang được thờ có linh thiêng không?
Có Không
(Nếu Có chuyển sang câu 8, nếu Khôngchuyển sang câu 9)
8. Ông/Bà đã có trải nghiệm cá nhân nào về sự linh thiêng của Đức Thánh không?
Có Không
Ông/Bà có thể ghi rõ những trải nghiệm cá nhân về sự linh thiêng của Thánh:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
18
9. Ông/Bà có thường tới chùa lễ Thánh
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Ít khi
Lần đầu tiên
10. Ông/Bà tới chùa lễ Thánh vào những dịp nào?
Giao thừa Ngày huý kỵ của Thánh
Ngày mùng một tết Ngày diễn ra lễ hội
Ngày rằm tháng giêng Khi có khó khăn vướng mắc trong cuộc
sống
Ngày rằm, mùng một hàng
tháng
Bất cứ thời điểm nào trong năm
Thời điểm đầu năm
11. Ông/Bà đến lễ Thánh vì lý do? (có thể lựa chọn nhiều câu trả lời)
Thánh linh thiêng
Sợ bị Thánh trách phạt
Thấy làm ăn thuận lợi
Thấy sức khoẻ tốt hơn
Thấy mọi chuyện trong gia đình và cuộc sống may mắn hơn
Cảm thấy được bình an, chở che của thánh
Không thấy gì nhưng để yên tâm
Lễ Thánh theo truyền thống gia đình
Ý kiến khác:……………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
12. Ông/Bà thường cầu xin Đức Thánh ban cho điều gì trong cuộc sống (có thể lựa chọn nhiều câu trả lời)
Cầu bình an cho bản thân và gia đình Cầu sức khoẻ
Cầu gia đình hạnh phúc Cầu Công danh
Cầu được mùa Cầu tài, lộc
Cầu con cái học hành, thi cứ đỗ đạt Cầu con
Cầu tự
Những cầu mong khác (ghi rõ):………………………………………………
…………………………………………………………………………………
19
13. Ông/Bà thường dâng lễ vật gì để cúng Thánh? (có thể lựa chọn nhiều câu trả lời)
Hương, Hoa, Trái cây Cả hai đồ lễ chay và mặn
Tiền vàng mã Các loại sản vật của địa phương
Đồ lễ chay Tiền trần
Đồ lễ mặn Lòng thành
Các loại lễ vật khác (ghi rõ):………………………………………………….
…………………………………………………………………………………
14. Khi đi lễ Ông/Bà có viết sớ để kêu cầu không?
Có Không
15. Cảm xúc của Ông/Bà đạt được sau khi thực hành nghi lễ đối với Thánh
Thanh thản, nhẹ nhàng Kính trọng, biết ơn
Tĩnh tâm Hy vọng
Trút được gánh nặng trong lòng
Các cảm xúc khác (nghi rõ):…………………………………………………
…………………………………………………………………………………
16. Hàng năm, Ông/Bà có tham dự lễ hội thờ Thánh không? (nếu có chuyển sang câu 17, nếu không chuyển sang câu 18)
Có Không
17. Đánh giá của Ông/Bà về một số yếu tố trong lễ hội ở ngôi chùa này hiện nay?
TT Nội dung Đúng Đúng
một
phần
Không
đúng
1 Tình hình an ninh trật tự
2 Vệ sinh môi trường sạch sẽ
18. Thánh có vị trí như thế nào trong đời sống tín ngưỡng của Ông/Bà
Có vị trí rất quan trọng
Có vị trí quan trọng
Có vị trí bình thường
Không có vị trí gì
Xin chân thành cảm ơn các ý kiến của Ông/Bà./.
20
PHẦN III: THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Giới tính: Nam Nữ
2. Năm sinh (ghi rõ):……………………………………………….
3. Dân tộc: Kinh Khác (ghi rõ)
4. Tôn giáo:
Không theo tôn giáo nào Theo tín ngưỡng dân gian
Phật giáo Công giáo Tin lành
Tôn giáo khác (ghi rõ):………………………………………………………
5. Nghề nghiệp của bản thân:
Công nhân Nông dân Cán bộ, CC,VC NN
Giáo viên Nghề tự do Hưu trí
Kinh Doanh Nội trợ Học sinh, sinh viên
Các nghề nghiệp khác (ghi rõ):………………………………………………
…………………………………………………………………………………
6. Trình độ học vấn:
Trung học cơ sở Cao đẳng Thạc sỹ
Trung học phổ thông Đại học Tiến sỹ
Khác (ghi rõ):……………………………………………………………………
7. Là người dân địa phương: Người từ nơi khác đến
8. Nơi ở hiện nay (ghi rõ huyện, tỉnh):……………………………………………
……………………………………………………………………………………
21
Phụ lục 5 BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHIẾU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC
Câu 1: Ông/Bà cho biết ngôi chùa đang thờ Đức Thánh nào?
Từ Đạo Hạnh
Chùa Thầy (102 phiếu )
Dương Không Lộ
Chùa Keo (132 phiếu)
Nguyễn Giác Hải
Chùa Nghĩa Xá(115phiếu)
Nguyễn Minh Không
Chùa Cổ Lễ(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Nhận biết
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Biết 81 79,4% 106 80,3% 74 64,3% 82 75,9% 343 75,1%
Không biết 21 20.6% 26 19,7% 41 35,7% 26 24,1% 114 24,9%
Thánh khác 0 0,0% 0 0,0% 0 0,0% 0 0,0% 0 0,0%
Câu 2: Ông Bà có biết Đức Thánh hiện đang thờ ở trong chùa như thế nào?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Nhận biết
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Có 70 68,6% 103 78,0% 62 53,9% 73 67,6% 308 67,4%
Không 32 31,4% 29 22,0% 53 46,1%% 35 32,4% 149 32,6%
22
Câu 3: Đức Thánh Ông/Bà biết được triều đình và nhân dân tôn vinh là?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Hành Trạng
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Quốc sư 5 4,9% 64 48,5% 1 0,9% 47 43,5%
Thiền sư thời Lý 60 58,8% 44 33,3% 55 47,8% 56 51,8%
Thành Hoàng 0 0,0% 0 0,0% 2 1,7% 7 6,5%
Thày thuốc 15 14,7% 20 15,1% 6 5,2% 14 13,0%
Tổ nghề múa rối 62 60,8% 0 0,0% 0 0,0% 0 0,0%
Tổ nghề đúc đồng 0 0,0% 0 0,0% 0 0,0% 27 25,0%
Tổ nghề đánh cá 1 1% 26 19,7% 0 0,0% 5 4,6%
Tổ nghề trồng lúa 26 25,5% 0 0,0% 0 0,0% 1 0,9%
Ý kiến khác 0 0,0% 5 3,8% 2 1,7% 0 0,0%
Không biết 32 31,4% 29 22,0% 53 46,1% 35 32,4%
23
Câu 4: Theo Ông/Bà Đức Thánh có những công trạng nào?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Công Trạng
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Đóng góp cho nhà Lý 6 5,9% 37 28,0% 8 6,9% 27 25,0%
Xây dựng chùa 26 25,5% 58 43,9% 42 36,5% 46 42,6%
Chữa bệnh cho dân 33 32,3% 18 13,6% 7 6,1% 33 30,6%
Dạy nghề đánh cá 0 0,0% 42 31,8% 0 0,0% 13 12,0%
Dạy nghề múa rối 53 52,0% 0 0,0% 0 0,0% 0 0,0%
Day nghề trồng lúa 7 6,9% 1 0,7% 8 7,0% 0 0,0%
Dạy nghề đúc đồng 0 0,0% 1 0,7% 0 0,0% 29 26,8%
Trừ hoạ cho dân 1 1,0% 0 0,0% 10 8,7% 18 16,7%
Ý kiến khác 1 1,0% 4 3,0% 2 1,7% 1 0,9%
Không biết 28 27,4% 29 22,0% 64 55,6% 33 30,6%
24
Câu 5. Niềm tin của Ông/Bà vào Đức Thánh như thế nào?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Niềm tin
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Tin tuyệt đối 18 17,6% 25 18,9% 16 13,9% 8 7,4% 67 14,7%
Rất tin 14 13,7% 34 25,8% 13 11,3% 19 17,6% 80 17,6%
Khá tin 10 9,8% 20 15,2% 10 8,7% 10 9,3% 50 10,9%
Tin 48 47,1% 33 25,0% 58 50,4% 54 50,0% 193 42,2%
Nửa tin nửa không 8 7,9% 7 5,3% 12 10,5% 12 11,1% 39 8,5%
Không tin 4 3,9% 4 3,0% 6 5,2% 1 0,9% 15 3,3%
Không trả lời 0 0,0% 9 6,8% 0 0,0% 4 3,7% 13 2,8%
25
Câu 6: Ông/Bà có tin vào sự phù hộ, độ trì của Thánh không?
Chùa Thầy (102 phiếu)
Chùa Keo (132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá (115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ (108 phiếu)
Tổng (457 phiếu)
Niềm tin
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Tin tuyệt đối 16 15,7% 22 16,7% 16 13,9% 7 6,5% 61 13,3%
Rất tin 12 11,8% 31 23,5% 13 11,3% 21 19,4% 77 16,8%
Khá tin 6 5,9% 22 16,7% 7 6,1% 9 8,4% 44 9,6%
Tin 56 54,9% 35 26,5% 61 53,1% 53 49,1% 205 44,9%
Nửa tin nửa không 8 7,8% 8 6,0% 12 10,4% 13 12,0% 41 9,0%
Không tin 4 3,9% 3 2,3% 6 5,2% 1 0,9% 14 3,1%
Không trả lời 0 0,0% 11 8,3% 0 0,0% 4 3,7% 15 3,3%
Câu 7: Theo Ông/Bà Đức Thánh hiện được thờ có linh thiêng không?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Thánh linh thiêng
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Có 81 79,4% 115 87,1% 93 80,9% 92 85,2% 381 83,4%
Không 7 6,9% 13 9,9% 8 7,0% 3 2,8% 31 6,8%
Không trả lời 14 13,7% 4 3,0% 14 12,1% 13 12,0% 45 9,8%
26
Câu 8: Ông/Bà đã có trải nghiệm cá nhân về sự linh thiêng của Đức Thánh không?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Trải nghiệm
cá nhân
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Có 40 39,2% 69 52,3% 58 50,4% 31 28,7% 198 43,3%
Không 32 31,4% 34 25,7% 31 27,0% 44 40,7% 141 30,8%
Không trả lời 30 29,4% 29 22,0% 26 22,6% 33 30.6% 118 25,9%
Câu 9: Ông/Bà có thường tới chùa lễ Thánh?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Tần xuất đi lễ
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Thường xuyên 31 30,4% 72 54,5% 51 44,3% 33 30,5% 187 40,9%
Thỉnh thoảng 49 48,0% 30 22,8% 34 29,6% 42 38,9% 155 33,9%
Ít khi 12 11,8% 16 12,1% 20 17,4% 27 25,0% 75 16,4%
Lần đầu tiên 10 9,8% 14 10,6% 10 8,7% 6 5,6% 40 8,8%
27
Câu 10: Ông/Bà tới chùa lễ Thánh vào những dịp nào?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Các dịp đi lễ Thánh
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Giao thừa 5 4,9% 6 4,5% 8 7,0% 10 9,2% 29 6,3%
Ngày mùng một tết 1 1% 4 3,0% 7 6,1% 8 7,4% 20 4,4%
Ngày rằm tháng giêng 4 3,9% 6 4,5% 2 1,7% 12 11,1% 24 5,2%
Ngày rằm, mùng một hàng tháng
21 20,6% 46 34,8% 30 26,1% 13 12,0% 110 24,1%
Ngày huý, kỵ của Thánh 17 16,7% 28 21,2% 25 21,7% 23 21,3% 93 20,3%
Ngày diễn ra lễ hội 40 39,2% 71 53,8% 75 65,2% 44 40,7% 230 50,3%
Khi có khó khăn vướng mắc trong cuộc sống
36 35,3% 31 23,5% 27 23,5% 44 40,1% 138 30,2 %
Bất kỳ thời điểm nào trong năm
39 38,2% 17 12,9% 24 20,8% 15 13,9% 95 20,8%
Thời điểm đầu năm 29 28,4% 22 16,7% 22 19,1% 40 37,0% 113 24,7%
28
Câu 11: Ông/Bà đến lễ Thánh vì lý do?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Lý do đi lễ
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Thánh linh thiêng 34 29,4% 58 43,9% 11 9,6% 34 31,5% 137 30,0%
Sợ bị Thánh trách phạt 0 0,0% 1 0,7% 0 0,0% 2 1,8% 3 0,7%
Thấy làm ăn thuận lợi 13 12,7% 6 4,5% 4 3,5% 19 17,6% 39 8,5%
Cảm thấy bình an, che chở của Thánh
48 47,1% 71 53,8% 40 34,8% 56 51,8% 215 47,0%
Thấy mọi chuyện trong gia đình và cuộc sống may mắn hơn
22 21,6% 32 24,2% 13 11,3% 34 31,5% 101 22,1%
Thấy sức khoẻ tốt hơn 18 17,6% 20 15,1% 31 26,9% 36 33,3% 105 23,0%
Không thấy gì nhưng để yên tâm
10 9,8% 7 5,3% 5 4,3% 16 14,8% 38 8,3%
Lễ Thánh theo truyền thống gia đình
19 18,6% 22 16,7% 26 22,6% 14 13,0% 81 17,7%
Ý kiến khác 15 14,7% 0 0,0% 42 36,5% 13 12,0% 70 15,3%
29
Câu 12. Ông/Bà thường cầu xin Đức Thánh ban cho điều gì trong cuộc sống
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Cầu điều gì
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Cầu bình an cho bản thân và gia đình
95 93,1% 124 94,0% 103 89,5% 101 93,5% 423 92,6%
Cầu sức khoẻ 98 96,1% 126 95,4% 105 91,3% 98 90,7% 427 93,4%
Cầu Gia đình hạnh phúc 55 53,9% 39 29,5% 32 27,8% 52 48,1% 178 38,9%
Cầu tài lộc 27 26,5% 37 28,0% 31 26,9% 63 58,3% 158 34,6%
Cầu công danh 25 24,5% 13 9,8% 17 14,8% 39 36,1% 94 20,6%
Cầu học hành thi cử đỗ đạt
7 6,9% 14 10,6% 17 14,8% 28 25,9% 66 14,4%
Cầu con 1 1,0% 2 1,5% 3 2,6% 4 3,7% 10 2,2%
Cầu tự 7 6,9% 5 3,8% 2 1,7% 0 0,0% 14 3,1%
Cầu được mùa 4 3,9% 6 4,5% 3 2,6% 7 6,5% 20 4,4%
Cầu mong khác 2 2,0% 1 0,7% 10 8,7% 0 0,0% 13 2,8%
30
Câu 13: Ông/Bà thường dâng lễ vật gì để cúng Thánh
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Lễ vật dâng cúng
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Hương hoa, trái cây 79 77,4% 88 66,7% 73 63,5% 84 77,8% 324 70,9%
Tiền vàng mã 15 14,7% 46 34,8% 15 13,0% 40 37,0% 116 25,4%
Đồ lễ chay 10 9,8% 13 9,8% 7 6,1% 8 7,4% 38 8,3%
Đồ lễ mặn 7 6,9% 10 7,6% 8 6,9% 0 0,0% 25 5,5%
Cả hai đồ lễ chay và mặn 2 2% 6 4,5% 5 4,3% 17 15,7% 30 6,6%
Sản vật địa phương 9 8,8% 4 3,0% 0 0,0% 4 3,7% 17 3,7%
Tiền trần 67 65,7% 89 67,4% 90 78,3% 80 74,1% 326 71,3%
Lòng thành 3 2,9% 8 6,1% 10 8,7% 2 1,8% 23 5,1%
Ý kiến khác 0 0,0% 2 1,5% 3 2,6% 0 0,0% 5 1,1%
31
Câu 14: Khi đi lễ Ông/Bà có viết sớ kêu cầu?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Sớ kêu cầu
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Có 64 62,7% 76 57,6% 40 34,8% 48 44,4% 228 49,9%
Không 26 25,5% 56 42,4% 62 53,9% 45 41,7% 189 41,3%
Không ý kiến 12 11,8% 0 0,0% 13 11,3% 15 13,9% 40 8,8%
Câu 15. Cảm xúc Ông/Bà đạt được sau khi thực hành nghi lễ đối với Thánh?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Cảm xúc đạt được
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Thanh thản, nhẹ nhàng 77 75,5% 96 72,7% 97 84,3% 76 70,4% 346 75,7%
Tĩnh Tâm 37 36,3% 47 35,6% 29 25,2% 39 36,1% 152 33,3%
Kính trọng biết ơn 25 24,5% 12 9,1% 11 9,6% 34 31,5% 82 17,9%
Hy vọng 20 19,6% 4 3,0% 13 11,3% 29 26,8% 66 14,4%
Trút được gánh nặng trong lòng
3 2,9% 6 4,5% 0 0,0% 5 4,6% 14 3,1%
Cảm xúc khác 1 1,0% 2 1,5% 7 6,1% 0 0,0% 10 2,2
32
Câu 16: Hàng năm, Ông/Bà có tham dự lễ hội thờ Thánh không?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Tham dự lễ hội
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Có tham dự 76 74,5% 102 77,3% 103 89,6% 65 60,2% 346 75,7%
Không tham dự 26 25,5% 30 22,7% 12 10,4% 43 39,8% 111 24,3%
Câu 17: Đánh giá của Ông/Bà về một số yếu tố trong lễ hội hiện nay
Chùa Thầy
(76 phiếu)
Chùa Keo
(102 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(105 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(65 phiếu)
Tổng
(346 phiếu)
Đánh giá lễ hội
Đúng Đúng một
phần
Không đúng
Đúng Đúng một
phần
Không đúng
Đúng Đúng một
phần
Không đúng
Đúng Đúng một phần
Không đúng
Đúng Đúng một
phần
Không đúng
68 7 1 89 9 4 95 8 0 23 40 2 275 64 7 Tình hình an ninh trật tự tốt
29,5% 9,2% 1,3% 87,2% 8,8% 4,0% 92,2% 7,8% 0,0% 35,4% 61,5% 3,1% 79,5% 18,5% 2,0%
60 11 5 82 20 0 69 34 0 25 37 3 236 102 8 Vệ sinh môi trường sạch sẽ
78,9% 14,5% 6,6% 80,4% 19,6% 0,0% 67,0% 33,0% 0,0% 38,5% 56,9% 4,6% 68,2% 29,5% 2,3%
33
Câu 18: Thánh có vị trí như thế nào trong đời sống tín ngưỡng của Ông/Bà?
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Vị trí
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Có Vị trí rất quan trọng 23 22,5% 30 22,7% 13 11,3% 12 11,1% 78 17,1%
Có vị trí quan trọng 61 59,8% 65 49,3% 68 59,1% 74 68,5% 268 58,6%
Có vị trí bình thường 16 15,7% 18 13,6% 21 18,3% 12 11,1% 67 14,7%
Không có vị trí gì 2 2,0% 1 0,8% 3 2,6% 0 0,0% 6 1,3%
Không trả lời 0 0,0% 18 13,6% 10 8,7% 10 9,3% 38 8,3%
34
II. PHẦN THÔNG TIN CÁ NHÂN
1. Về Giới tính:
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Giới tính
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Nam 37 36,3% 47 35,6% 42 36,5% 32 29,6% 158 34,6%
Nữ 65 63,7% 85 64,4% 73 63,5% 76 70,4% 299 65,4%
2. Về Độ Tuổi
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Độ Tuổi
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Dưới 25 7 6,9% 8 6,0% 2 1,8% 4 3,7% 21 4,6%
Từ 25-35 9 8,8% 23 17,4% 6 5,2% 17 15,8% 55 12,0%
Từ 36-44 32 31,4% 29 22% 16 13,9% 32 29,6% 109 23,9%
Từ 45 -55 29 28,4% 36 27,3% 21 18,3% 30 27,8% 116 25,4%
Trên 55 25 24,5% 36 27,3% 70 60,8% 25 23,1% 156 34,1%
35
3. Về Nghề nghiệp
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Nghề nghiệp
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Công nhân 17 16,7% 15 11,4% 7 6,1% 15 13,9% 54 11,8%
Giáo Viên 12 11,8% 10 7,6% 9 7,8% 16 14,8% 47 10,3%
Cán bộ CCNN 18 17,7% 10 7,6% 1 0,9% 21 19,4% 50 10,9%
Nghề tự do 22 21,6% 29 22,0% 10 8,7% 15 13,9% 76 16,6%
Hưu trí 8 7,8% 5 3,8% 23 20,0% 7 6,5% 43 9,4%
Nông dân 13 12,7% 49 37,1% 59 51,3% 20 18,5% 141 30,8%
HSSV 6 5,9% 2 1,4% 1 0,9% 3 2,8% 12 2,7%
Kinh Doanh 5 4,9% 11 8,3% 5 4,3% 8 7,4% 29 6,4%
Nội trợ 1 1,0% 1 0,8% 0 0,0% 3 2,8% 5 1,1%
36
4. Trình độ học vấn:
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Trình độ học vấn
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Trung học cơ sở 5 4,9% 13 9,8% 4 3,5% 5 4,6% 27 5,9%
Phổ thông trung học 29 28,4% 47 35,6% 22 19,1% 26 24,1% 124 27,1%
Cao Đẳng 25 24,5% 15 11,4% 9 7,8% 21 19,5% 70 15,3%
Đại học 30 29,4% 22 16,7% 12 10,4% 5 4,6% 99 21,7%
Thạc sỹ 4 3,9% 5 3,8% 0 0,0% 5 4,6% 14 3,1%
Tiến sỹ 0 0,0% 0 0,0% 0 0,0% 0 0,0% 0 0,0%
Khác: Lớp 10 cũ
3/10, không học
9 8,9% 30 22,7% 68 59,2% 46 14,8% 123 26,9%
5. Nơi đến
Chùa Thầy
(102 phiếu)
Chùa Keo
(132 phiếu)
Chùa Nghĩa Xá
(115 phiếu)
Chùa Cổ Lễ
(108 phiếu)
Tổng
(457 phiếu)
Nơi đến
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
Là người địa phương 69 67,6% 99 75,0% 100 87,0% 61 56,5% 329 72,0%
Các tỉnh, thành khác 33 32,4% 33 25,0% 15 13,0% 47 43,5% 128 28,0%
37
Phụ lục 6 VỀ NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN
TT Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ cá nhân Ngày phỏng vấn Địa điểm PV
1 Trần Thị Vân 60 Kinh doanh Bán hàng tại khu vực cầu Nhật tiên kiều tại chùa Thầy
1/4/2017 (5/3/2017 AL) Chùa Thầy
2 Nguyễn Thị Lan 50 Hướng dẫn viên Chùa Thầy 10/5/2017 (15/4/2017 AL) Chùa Thầy
3 Nguyễn Thị Thơm 61 Nông dân Thôn Dũng Nghĩa, xã Dũng Nhuệ, Vũ Thư, Thái Bình
29/10/2017 (10/9/2017 AL) Chùa Keo TB
4 Nguyễn Thị Tính 68 Hưu trí Khu tập thể Điện lực, Hải Phòng 31/3/2018 (15/2/2018 AL) Chùa Keo TB
5 Phan Thị Hạ 60 Nghề tự do Thị xã Thái Bình 15/7/2018 (3/6/2018 AL) Chùa Keo TB
6 Nguyễn Thị Hậu 54 Nông dân Vũ Đoài, Vũ Thư, Thái Bình 29/10/2017 (10/9/2017 AL) Chùa Keo TB
7 Nguyễn Văn Khang 75 TB Khánh tiết Chùa Keo, Vũ Thư, Thái Bình 09/10/2017 (20/8/2017 AL) Chùa Keo TB
8 Phạm Thị Nga 73 Nông dân Đường Hoàng Diệu, Cầu Bo, Thái Bình 31/3/2018 (15/2/2018 AL ) Chùa Keo TB
9 Nguyễn Thị Ngân 59 Trông coi Điện Thánh
Thôn Dũng Nghĩa, Dũng Nhuệ, Vũ Thư, Thái Bình
09/10/2017 (20/8/2017 AL ) Chùa Keo TB
10 Đỗ Thị Liên 68 Hưu trí
Đội tế nữ quan huyện Đông Hưng
Xã Đông Sơn, huyện Đông Hưng, Thái Bình
31/10/2017 (12/10/2017) Chùa Keo TB
11 Nguyễn Thị Lâm 55 Đội tế nữ quan thị trấn Cổ Lễ
Huyện Trực Ninh, Tỉnh Nam Định 21/6//2017 (03/6/2017) Chùa Cổ Lễ
12 Phạm Thị Bình 43 CBCC Ba Đình, Hà Nội 21/4/2018 (06/3/2018 AL) Chùa Láng
13 Vũ Văn Hưng 63 Nông dân Xóm Chùa, Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định
20/10/2018 (12/9/2018 AL) Chùa Keo NĐ
14 Thích Thanh Quang 40 Trụ trì chùa Chùa Keo Thái Bình 08/9/2017 Chùa Keo TB
38
14 Nguyễn Thuyên 55 Nông dân Duy Nhất, Vũ Thư, Thái Bình 08/9/2017 Chùa Keo TB
15 Phạm Ngọc Uyển 80 Hưu trí Xóm 7, Nghĩa Xá, Xuân Trường, Nam Định
14/7/2018 Chùa Nghĩa Xá
16 Nguyễn Đức Chiến 56 Chấp lễ tại Chùa Cổ Lễ Nam Định
Thị trấn Cổ Lễ, Trực Ninh, Nam Định 14/6/2018 (01/5/2018 AL) Chùa Cổ Lễ
17 Nguyễn Hữu Quý 69 Đội Tế Nam quan chùa Cổ Lễ
Thị trấn Cổ Lễ, Trực Ninh, Nam Định 14/6/2018 (01/5/2018 AL) Chùa Cổ Lễ
18 Phạm Viết Trung 70 TB Khánh tiết Xóm Chùa, Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định
21/10/2018 (13/9/2018 AL) Chùa Keo NĐ
19 Phạm Viết Quy 76 TV Ban Khánh Tiết Xóm Chùa, Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định
21/10/2018 (13/9/2018 AL) Chùa Keo NĐ
20 Nguyễn Văn Long 65 Thành viên đội tế Nam quan
Thôn Đa Phúc, Sài Sơn, Quốc Oai, HN 1/4/2017 (5/3/2017 AL) Chùa Thầy
21 Thích Thanh Chủng 38 Trụ trì Chùa Nghĩa Xá, Xuân Ninh, Xuân Trường, Nam Định
14/6/2018 Chùa Nghĩa Xá
22 Thích Thanh Việt 46 Trụ trì Chùa Tây Lạc, Đồng Sơn, Nam Trực, Nam Định
14/6/2018 Chùa Tây Lạc
23 Nguyễn Văn Duy 68 Tổ trưởng
thôn Trung
Đường Láng, Hà Nội 02/11/2018 (25/9/2018) Chùa Láng
39
Phụ lục 7
BIÊN BẢN PHỎNG VẤN
1. Biên bản phỏng vấn số 1
Người được phỏng vấn: Sư Thích Thanh Quang,
Nghề nghiệp: Trụ trì chùa Keo.
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Keo Thái Bình
Ngày phỏng vấn: 08/9/2017
Hỏi (H): Chùa Keo hiện nay như thế nào?
Trả lời (TL): Chùa Keo được xếp hạng quốc gia đặc biệt. Từ khi được xếp hạng có sự khác biệt đó là có thêm ban quản lý di tích. Đây là ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo được công nhận di tích cấp quốc gia đặc biệt. Năm 2017, Công bố quyết định ghi danh Lễ hội Chùa Keo vào danh mục văn hoá phi vật thể cấp quốc gia.
H: Trước đây và hiện nay hình thức tổ chức lễ hội có khác nhau không?
TL: Trước đây chùa Keo có một thời gian dài không tổ chức lễ hội, từ năm 1980 trở lại đây, lễ hội chùa keo được khôi phục và hàng năm chúng tôi tổ chức hai lần lễ hội mùa xuân và lễ hội mùa thu. Lễ hội mùa thu rất đông người tham dự, chỉ đám rước Thánh vào ngày 15/9 AL đã quy tụ khoảng hơn 400 người dân địa phương tham gia rước. Chùa Keo có giá trị văn hoá riêng vô cùng đặc biệt cũng bởi lễ hội mùa thu góp phần. Chưa chùa nào được vinh danh cả kiến trúc vật thể và phi vật thể, nhưng riêng chùa Keo đã có hai vinh danh, một vinh danh cho di tích và một vinh danh cho lễ hội.
H: Tại sao ở Điện Phật lại có 3 ban Tam bảo?
TL: Nghe Thầy tôi kể lại chùa nhiều tượng từ thời cải cách ruộng đất, do sự phá đền chùa, nên nhiều pho tượng ở các chùa khác quanh khu vực dồn lại và đặt ở chùa Keo nên chùa Keo có hai toà Nam Tào - Bắc Đẩu, không biết là dồn từ chùa nào về. Chị quan sát sẽ thấy, bên tay phải của ban chính một ban gần như một toà Tam bảo, ban này gồm có 12 pho tượng. Ban bên tay trái thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và Nam Tào Bắc Đẩu không nằm trong trục chính của khu thờ phụng.
H: Theo quan sát, việc bố trí các pho tượng thờ có sự khác biệt so với chùa Keo Hành Thiện Nam Định, tại sao?
TL: Riêng chùa Keo có sự sắp xếp bố trí khác với các ngôi chùa khác bởi liên quan đến giá trị bản địa, phong tục tập quán của địa phương và chịu sự chi phối của người dân ở trong vùng và nhà sư trực tiếp tu hành, trông coi ngôi chùa vì thế không mặc định thờ nam tào bắc đẩu phải nằm trên trục chính. Thường thường các ngôi chùa ở miền Bắc thờ Nam Tào, Bắc Đẩu, Thổ Địa, Thánh Tăng, Ngọc Hoàng Thượng đế.\
40
H: Hàng năm có những ngày lễ trọng nào liên quan đến Thánh Không Lộ
TL: Chùa Keo là dạng chùa tiền Phật hậu Thánh. Chùa thờ Thánh Dương Không Lộ ngày giỗ của ngài là 3/6/1094. Cứ vào ngày giỗ, dân làng và tín đồ phật tử tham gia, đặc biệt là lễ hội mùa thu chùa Keo bắt đầu từ ngày 10 – 15/9AL hàng năm, lễ hội này lớn lắm có lẽ lớn nhất đối với những nơi khác cũng thờ Thánh Không Lộ.
H. Hiện nay sự tham gia của chính quyền địa phương vào công tác tổ chức lễ hội như thế nào?
TL: Hiện nay chùa được xếp hạng di tích quốc gia hạng đặc biệt nên có Ban Quản lý di tích, họ cũng tham gia vào công tác tổ chức lễ hội, đảm bảo vệ an ninh trật tự, phân luồng giao thông, vệ sinh môi trường,… nói chung là chính quyền tham gia nên an ninh được đảm bảo cô ạ, còn nhà chùa vẫn tổ chức phần tâm linh lễ bái.
H: Lễ vật dâng cúng Thánh như thế nào?
TL: Lễ vật dâng cúng Phật, Thánh, đều là đồ thanh tịnh, hoa quả, xôi chè, ban Tam bảo và ban Thánh đều khuyến cáo tín đồ phật tử không dâng lễ mặn, mà chỉ dâng lễ chay, nhưng nhiều khách thập phương đến lễ vẫn dâng đồ mặn, không cấm được họ, cũng có giải thích cho họ hiểu, các vị vốn là những vị sư tu hành đắc đạo không hưởng lễ mặn đâu, nhưng họ có nghe đâu vẫn dâng lễ mặn đấy.
H: Người dân đến lễ Phật, lễ Thánh, theo nhận xét của Thầy thì họ thể hiện niềm tin vào Phật và Thánh như thế nào?
TL: Vấn đề tín ngưỡng đó là “linh tại ngã, bất linh tại ngã”. Ở Chùa Keo không chỉ có đức Thánh linh thiêng mà Đức Ông cũng linh thiêng lắm. Các ngôi chùa khác thường ban Đức Ông là thờ Ông Cấp Cô Độc nhưng riêng chùa Keo Thái Bình Ban Đức Ông là thờ hai nhân vật là cụ Hoàng Nhân Dũng, người vận động bà con nhân dân xây chùa và lập nên làng Dũng Nhuệ và cụ Nguyễn Văn Trụ là người thiết kế lên chùa. Ngoài ra cụ Hoàng Nhân dũng còn được thờ là Thành hoàng làng ở trong Đình làng. Trước đây ban Đức Ông nằm ở bên tay phải, mới đổi sang thờ ở bên tay trái. Đức Thánh được thờ toà nhà riêng, được phong làm quốc sư là Đệ Nhất Nam Thiên Thánh Tổ. Còn niềm tin của người dân đối với chùa là niềm tin vào cả cụm di tích. Mọi hoạt động ở trong chùa đều như nhau và cân bằng như nhau, không đặt cao nơi nào hơn nơi nào cô ạ.
H: Đức Thánh Không Lộ rất linh thiêng, vậy Thầy đã trải nghiệm sự linh thiêng đó chưa?
TL: Chùa Keo thiêng lắm, sự linh thiêng của Ngài bản thân nhà chùa cũng cảm nhận được. Năm 2008 chùa đúc tượng đức Thánh, được ngài báo mộng hai ngón tay của ngài đang thiết kế bằng nhau. Gáy người thường có vết lõm giữa gáy, nhưng tượng Thánh không có vết lõm này. Đức Thánh có khu đền thờ riêng, từ trong ra ngoài tất các ban thờ đều thờ Đức Thánh, bên trong cung cấm thờ tượng Ngài bằng gỗ trầm hương, được gìn giữ, dân làng muốn vào để chiêm ngưỡng Thánh phải ăn chay 3 tháng 10 ngày để thân tâm được thanh tịnh vì ăn chay để nuôi dưỡng lòng từ bi thì mới được vào lễ Ngài ở trong cung cấm và không phải ai cũng vào diện kiến nhà Ngài được đâu.
41
H: Lễ hội hàng năm có thực hành nghi lễ mộc dục cho Thánh không?
TL: 3 năm mới một lần làm lễ Mộc dục cho Ngài, bởi tượng Thánh 3 năm có một lần “phấn diện”, việc thay áo thì ở trong làng có một gia đình được truyền lại từ nhiều đời. Gia đình này phải có đầy đủ phúc đức con cháu, do làng đứng ra lựa chọn, khi cụ già yếu thì phải lựa chọn người khác thay thế, nếu gia đình không có người đáp ứng được yêu cầu thì phải lựa chọn một người khác trong làng với tiêu chí gia đình đầy đủ, con cháu đề huề, có nam, có nữ có tử, có tôn, có trình độ của kỹ mỹ thuật, bởi tượng Thánh ở trong cung cấm không phải là tượng sơn mà là tượng vẽ. Toàn bộ tượng chỉ là một khúc gỗ lắp ghép lại, trong 3 năm lớp phấn diện cũ nhạt mầu thì lại được phấn diện lại bức tượng của ngài. Màu dùng là do gia truyền hoàn toàn bằng sản phẩm cổ truyền, 3 năm phải chế lại nguyên vật liệu, xin phép cung thỉnh ngài xuống, tắm bằng ngũ vị hương để sạch lớp phấn diện cũ đi và dùng sản phẩm mới để vẽ lại gương mặt cho ngài.
H: Thế có sự thay đổi khuôn mặt của Thánh không?
TL: Không, trước khi vẽ thì bao giờ người thợ cũng phải vẽ lại hình ảnh của ngài ra một tờ giấy, sau đó mới vẽ lại ngài giống như bản (có thể gọi là truyền thần). việc phấn diện cho ngài được thực hiện trước hội tháng 9, thời gian vẽ lâu nhất vào khoảng 20 ngày, tất cả mọi công việc đều kết thúc trước mùng 9/9AL. Cân đo đong đếm từng chi tiết, không chụp ảnh, người thực hiện hoàn toàn bằng phương pháp thủ công, tâm đặt hoàn toàn vào công việc. Khi một dục tượng thánh sử dụng chất liệu hoàn toàn từ thực vật, dùng dầu hạt bưởi để pha mầu quyét lên tượng, không dùng keo, sử dụng kỹ thuật cổ truyền, và chỉ một người được phép phấn diện cho ngài. Nguyên liệu cũng được truyền lại nhiều đời và chỉ gia đình được lựa chọn này biết.
H: Lễ rước Thánh diễn ra như thế nào?
TL: Đám rước bao gồm thuyền rồng: Tái hiện lại sự tích ngài được vua cho đón vào cung để chữa bệnh. Thuyền cò: Tái hiện lại nghề chài lưới của ngài, kiệu Long đình, kiệu chính. Rước kiệu Thánh từ trong đền ra Tam Quan nội sau đó lại rước vào. Trước đây 1 năm rước kiệu Thánh một lần, hiện nay thì 3 năm mới rước kiệu một lần. Ngày 13/9 là ngày bách nhật không tổ chức hoạt động tâm linh vì đây là ngày buồn nên chỉ có các hoạt động tâm linh diễn ra đó là rước kiệu ngài ra tam quan nội. Ngày 14/9 là ngày sinh nhật Ngài, mới tổ chức những hoạt động vui chơi, văn hoá, văn nghệ, ngày rước kiệu chính của Ngài. Trong hoạt động văn hoá của ngày 14/9 có điệu múa ếch vồ và bơi chải cạn, trò diễn được diễn ra ở diễn ra ở toà Giá Roi trước Điện Thánh, 42 trai kiệu sẽ trực tiếp biểu diễn điệu múa. Biểu diễn điệu ếch vồ phải do trai khênh kiệu chính biểu diễn điệu múa ếch vồ và bơi chải cạn. Thời gian diễn ra các nghi thức này vào khoảng cuối buổi sáng. Nhằm mục đích kể lại công trạng và hành trạng của Thánh ngày còn làm nghề chài lưới
H: Lễ hội hiện nay có kéo dài hơn trước đây không?
TL: Lễ hội hiện dài hơn trước, trước đây lễ hội chỉ diễn ra trong ba ngày 13,14,15, hiện nay lễ hội diễn ra trong 10 ngày, ba ngày 13,14,15 là những ngày hội chính còn lễ mở cửa là ngày 10/9, lễ tạ hội 20/9.
42
H: Chùa Keo có sư về trụ trì lâu chưa?
TL: Không biết chính xác vào năm nào, nhưng vào khoảng những năm 1950 – 1960, cũng không biết cụ nào là đầu tiên mà chỉ biết có hai người về hoằng pháp tại chùa và mất tại chùa, vườn tháp 4 ngôi mới được xây dựng, tháp gần đây nhất được xây năm 1999.
H: Thánh Không Lộ vốn tu hành theo lối Mật giáo, hiện nay ở chùa còn yếu tố nào liên quan đến Mật giáo?
TL: Hiện nay chùa không có liên quan đến yếu tố Mật, Chùa tu theo phái đại thừa thiền, tịnh song tu, trong đó yếu tố tịnh độ là chủ yếu, hiện trong chùa không có yếu tố gì liên quan đến Mật tông, kể cả đồ thờ, tế, khí…
Biên bản phỏng vấn số 2
Người được phỏng vấn: Anh Nguyễn Văn Thuyên
Nghề nghiệp: Nông dân
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Keo Thái Bình
Ngày phỏng vấn: 08/9/2017
H: Anh có thể cho biết về lịch sử ngôi chùa?
TL: Đây là ngôi chùa đặc sắc nhất không chỉ ở Thái Bình mà còn ở cả miền bắc, đặc biệt là về kiến trúc, chùa được dựng hoàn toàn bằng gỗ, quy mô lớn so với các chùa phía bắc, đây là ngôi chùa cổ có tượng pháp đặc sắc. Ngôi chùa gắn liền với cuộc đời thiền sư Không Lộ, được dựng ở bên hữu ngạn sông Hồng. Chùa nằm theo hướng chính Nam, đây là hướng, là hướng tý ngọ của trục thần đạo. Vị trí của Chùa khác với các chùa khác, đó là không bị cản trở bởi yếu tố nào, trước chùa là một khoảng không bao la, đối diện cửa sông Ninh cư, đây là ngã ba sông.
H: Chùa Keo hiện nay được xây dựng năm nào?
TL: Chùa được xây dựng năm 1630 vào thế kỷ 17, đây là thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, lấy sông Gianh làm giới tuyến, với nội chiến liên miên. Chúa Trịnh đã bỏ tiền xây ngôi chùa và chọn thợ giỏi để xây dựng, ngôi chùa được xây dựng trên làng Dũng Nhuệ (làng Keo). Để dựng ngôi chùa có công lao đóng góp của cụ Hoàng Nhân Dũng, cụ là người đốc công xây dựng chính của ngôi chùa và là người kêu gọi đóng góp tiền của để xây dựng Chùa. Vợ cụ Hoàng Nhân Dũng là bà Lại Thị Ngọc Luyến là người có tâm, có duyên với Phật pháp, và mời những người trong phủ chúa để làm hội chủ, huy động tài chính để dựng chùa trong đó có bà đông cung vương phi Trịnh thị Ngọc Giao, đã mời 42 hiệp thợ giỏi để xây dựng lại chùa. Cùng với người thủ hoạ Nguyễn Văn Trụ thiết kế nên ngôi chùa. Người dân là những người chuyển cư từ bên hữu ngạn sông hồng sang tả ngạn sông Hồng, thời kỳ đó kinh tế phát triển, phù sa bồi đắp, giao thông thuận lợi, cư dân đông đúc, sung túc và trù phú. Thế kỷ 16, không có trị thuỷ
43
nên thường diễn ra ngập lụt, vùng ven sông Hồng, hay bị lũ lụt nên thường bị vỡ đê do hệ thống đê điều kém.
H: Hiện tại trong chùa có di vật lịch sử quý nào không?
TL: Chùa có rất nhiều di vật quý, nhưng di vật quý nhất ở trong Chùa là tượng thiền sư Không Lộ được tạc bằng gỗ trầm hương đặt ở trong cung cấm. Đây là bức tượng cổ, một năm một lần tượng Thánh được làm lễ phục y và cứ 3 năm người làm phấn diện sẽ làm việc cắt áo cho Thánh, áo màu đỏ, mũ màu vàng, người dân chỉ cúng vải, hài và thắt lưng của ngài được làm bằng mầu xanh. Bởi tượng như người thật, nên áo không phải là khoác ra ngoài mà được mặc vào… phải có kỹ thuật cắt may riêng bí truyền.
H: Hệ thống tượng pháp được thờ ở chùa như thế nào?
TL: Chùa Keo đặc sắc trong hệ thống tượng thờ, vật liệu làm tượng đa dạng, có tượng bằng gỗ, tượng bằng đất sét. Ngoài khu vực chùa Phật có hai pho tượng Hộ pháp là một trong những pho tượng đẹp của Chùa Keo. Nguyên vật liệu để tạc nên là đất sét, hai pho tượng được tạc ở thế ngồi trên hai con sư tử, diễn tả khuôn mặt khác hẳn nhau, một người khuôn mặt hiền từ ngôi trên lưng con sư tử tay cầm lọng, một người khuôn mặt dữ tợn hơn tay cầm thanh long đao. Mặt của hai con sư tử khác hẳn nhau, một người khuyên người ta hướng thiện, làm việc thiện, một vị khuyên mọi người không làm việc ác, về mặt điêu khắc đã diễn tả được hai thần thái hoàn toàn khác nhau. Ngoài ra còn một số bức như nhị vị kim cương, tượng tuyết sơn, tượng la hán bằng gỗ, phần diện diễn tả mỗi người một vẻ. Toà cửa long, đây là toà cửu long khá đặc biệt, mặc dù pho tượng được tạc rất nhỏ, nhưng về mặt nghệ thuật điêu khắc đã diễn tả lại thời kỳ phật thích ca sơ sinh, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, chạm chín con rồng phu nước tắm, tượng được đặt ở chính giữa ban thờ ở Điện Phật.
Biên bản phỏng vấn số 3
Người được phỏng vấn: Ông Phạm Ngọc Uyển
Nghề nghiệp: Hưu trí (Nguyên cán bộ giáo dục của huyện Hà Nam Ninh cũ).
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Nghĩa Xá, xã Xuân Ninh, Xuân Trường, Nam Định
Ngày phỏng vấn: 14/7/2018
H: Ông có thể cho cháu biết lịch sử hình thành ngôi chùa Nghĩa Xá?
TL: Ngôi chùa này trước gọi là chùa Viên Quang, được xây dựng năm thiên phù duệ vũ thứ ba tức năm 1122, vì Vua lý Nhân tông đổi niên hiệu sang thiên phù duệ vũ năm 1120. Chùa trước đây không biết dựng ở đâu, chỉ biết tên đầu tiên của chùa là Diên Phúc, do đức Giác Hải bậc danh sư, pháp sư tài danh đứng ra tạo dựng. Chùa được xây dựng dưới thời nhà Lý, Cụ lấy vợ, có con có cháu, trong đó có một người chắt của cụ có công với chùa và khi viên tịch trở thành một trong bốn vị Thánh tổ được thờ trong chùa đó là cụ Lý Tường Lĩnh. Lý Tường Lĩnh làm quan trong triều Lý, có công lao
44
kêu gọi cúng tiến xây dựng chùa, trước đây chùa có quy mô rất lớn với 36 toà hàng trăm gian, cụ Lý Tường Đĩnh được phong Lục Thượng Thái sư. Trước đây dân làng nghĩa xá vốn là dân Nam trực, ở làng Hộ Xá, chùa được xây ở Ấp Bát Dương, người làng chủ yếu là họ Phạm. Chùa được di chuyển qua nhiều lần, về sau do sạt lở do dòng sông Hồng đổi dòng, bên hữu ngạn đều bị sạt lở, đến năm 1741, tổ họ Phạm và họ Nguyễn (thông gia) làm đơn xin với triều đình cấp đất mới để định cư và xây chùa, được triều đình cấp cho 456 mẫu đất ở xứ Quần Mông. Năm 1804 ấp Nghĩa Xá được đổi thành làng Nghĩa Xá, trước đây là dân ngụ cư đến 1804 trở thành làng và là cấp hành chính, các cụ mới được tham gia chính quyền. Năm 1866, dân làng quyết định dỡ chùa xuống đất mới, và được các quan lớn trong triều trong đó có quan Bố chánh tỉnh Nam Định là cụ Lê Khắc Nghị tham gia giúp cho làng cùng với dân làng kêu gọi những nhà giầu có trong làng lấy tiền di chuyển chùa xuống khu vực này và tồn tại cho đến ngày nay. Trong đất Nam Định, Chùa Viên Quang là một trong những ngôi chùa cổ, tới nay chùa đã xuống cấp nên những dấu tích cũ không còn tồn tại. Quy mô chùa trước đây rất lớn, có mấy chục mẫu ruộng, toàn bộ cánh đồng 19 mẫu ruộng cho thuê để lấy lợi nhuận nhằm tổ chức việc tế lễ trong chùa.
H: Ngôi chùa hiện đang thờ những vị Thánh nào?
TL: Ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh: Giác Hải, Lý Thần Tông, Nguyễn Minh Không, Lý Tường Lĩnh.
H: Ông cho cháu biết rõ hơn về Thánh Lý Tường Đĩnh là ai và có hành trạng như thế nào được không ạ?
TL: Tôi cũng nghe các cụ xưa nói lại, tương truyền từ đời xưa Cụ Lý Tường Đĩnh là chắt đời thứ tư của sư Nguyễn Giác Hải, làm quan trong triều đình nhà Lý, được phong triều đình phong chức “Lục Thượng Thái sư”, có công lao kêu gọi cung tiến đóng góp xây dựng chùa. Vì là chắt của sư Giác Hải lại là người có công lao đối với chùa vì thế được nhân dân suy tôn và thờ thành vị Thánh thứ tư ở chùa gọi là “Thánh Chém”. Gọi là đức “Thánh Chém” vì trước đây cứ vào ngày hội tháng 3 (AL) hàng năm dân làng đều tổ chức rước kiệu của các vị Thánh Tổ ra ngự ở toà Giải Vũ của chùa, tuy nhiên cứ năm nào rước kiệu của “Lục Thượng Thái sư” ra ngoài thì năm đó nhân dân mất mùa vì thế không rước kiệu Thánh ra toà Giải Vũ trong ngày hội nữa. H: Lễ hội trước đây và hiện nay có diễn ra hàng năm? Các nghi thức, nghi lễ diễn ra như thế nào?
TL: Trước đây cứ 3 năm tổ chức hội một lần, đến nay hàng năm đều tổ chức hội. trong đó có tục bơi chải cạn nhớ lại tích xưa cụ Minh Không đi sang tàu để quyên góp đồng để về đúc chuông, đúc tượng; rước kiệu thánh ra toà nhà Dải Vũ; nghi lễ tế Thánh. Tế lễ ngày xưa khắt khe hơn, Chủ tế phải là Lý trưởng hoặc vị Tiên chỉ mới ở ngôi Chủ tế, còn các vị trong đội tế phải là những người chức sắc hoặc chia ra cho các họ trong làng, trong đó có hai họ lớn là họ Nguyễn và Phạm. Còn tế lễ bây giờ mang tính hình thức không còn được như trước nữa.
H: Cháu về chùa nhiều lần nghe các cụ trong làng nói là các Thánh linh thiêng lắm, thế bản thân cụ đã chứng nghiệm sự linh thiêng của các Thánh chưa ạ?
45
TL: Các thánh rất linh thiêng, nếu ai lấy gì của chùa đều phải mang đến trả. Thời cải cách ruộng đất có người hăng hái xung phong lên đập đền, chùa con cái đều bị chết trẻ. Có những điều linh ứng tự bản thân tôi nghiệm trong cuộc sống. Người làng Nghĩa xá đến Chùa trước lễ Phật sau lễ Thánh để cầu mong nhiều điều trong cuộc sống.
Tôi đề nghị cô nghiên cứu và đưa vào kiến nghị đến các cấp chính quyền về sự xuống cấp của ngôi chùa, hàng ngày nhìn ngôi chùa xuống cấp xót xa lắm cô ạ. Chùa được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia nên việc tu sửa chùa phải xin phép Chùa không được các cấp chính quyền quan tâm mặc dù đây là chùa có kiến trúc cổ, chùa Nghĩa Xá thiệt thòi nhiều thứ lắm đấy cô ạ.
Biên bản phỏng vấn số 4
Người phỏng vấn: Bác Nguyễn Văn Khang
Nghề nghiệp: Trưởng ban Khánh tiết chùa Keo Thái Bình
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Keo Thái Bình
Ngày phỏng vấn: 09/10/2017
H: Bác làm ở Ban Khánh tiết đã lâu chưa ạ?
TL: Bác làm việc nhà Thánh đến nay là 10 năm rồi,
H: Công việc của Bác do người làng phân công hay do xã phân công? Tiêu chỉ để được vào làm việc Thánh như thế nào?
TL: Ngôi chùa này thuộc về người dân thôn Dũng Nhuệ, mọi người trong các ban đều do người làng cắt cử. Tiêu chí để chọn vào làm việc Thánh trước đây khắt khe lắm cháu ạ, giờ thì cũng khắt khe nhưng không thể bằng các cụ nhà ta trước đây được, để được vào làm việc Thánh phải là những người khoẻ mạnh, sống đức độ, có hiểu biết nhất định về lịch sử ngôi chùa, gia đình hạnh phúc, con cháu ngoan ngoãn. Được giúp việc nhà Thánh là một vinh hạnh đấy cháu ạ, ai mà được chọn làm Chủ hội thì là điều phấn khởi của cả dòng họ ấy chứ.
H: Những ngày hội không khí ở đây náo nhiệt lắm Bác nhỉ?
TL: Khỏi phải nói, vào hội đông lắm, dân trong xã trong huyện đến trảy hội không kể làm gì, khánh thập phương đến cũng rất đông lắm, xe ôtô, xe máy cứ gọi là nối đuôi nhau thành hàng, đông nhất là vào ngày 14, cháu đã dự hội bao giờ chưa? Vui lắm.
H: Cháu nghe nói lễ rước ở chùa Keo Thái bình hoành tráng vào loại bậc nhất có phải không ạ?
TL: Đúng thế. Lễ rước ở chùa chúng tôi to lớn lắm, tổng toàn bộ lực lượng rước là 475 người không ở một làng mà thu quân trong 3 xã Duy Nhất, Vũ Đoài, Vũ Tiến, chưa kể nhân dân xem đám rước, vui lắm. Chúng tôi chuẩn bị kỹ càng lắm, trước khi làng vào
46
hội bao giờ chúng tôi cũng rà soát nhân lực, tổ chức họp làng vào ngày 20/8AL theo lệ làng. Khi làng vào hội thì công tác chuẩn bị đã phải xong hết rồi, khi tập kết tập kết từ đình đến chùa Giá Roi, các đội kiệu phải kén nhận đất, trình với đức Thánh về quân số đã đủ, xin vào rước đức Thánh. Có 5 kiệu thì có 5 xấp quân, mỗi xấp đi hết một đường đạo theo thứ tự rước ra. Tôi nói theo thứ tự đám rước nhé, đi đầu là Cầu kiều, tiếp đến là hai Ông ngựa hồng, bạch, chiêng, trống, Tiểu đĩnh, Thuyền rồng, Long đình, Kiệu chính, trên bờ rước, dưới hồ bơi chải gồm 12 đứa trẻ mục đồng. Đông vui, nhộn nhịp lắm, trước đây thì lực lượng rước ăn nghỉ tại chùa, nhưng hiện nay thì đến giờ do điều kiện không cho phép nên lực lượng rước đúng 4 giờ có mặt tại chùa để chuẩn bị. Cả 3 ngày 13,14,15 đều diễn ra lễ rước, nhưng chỉ có ngày 14 là kiệu Thánh mới ra thôi.
H: Từ khi giúp việc nhà Thánh bác có thấy gặp nhiều may mắn đối với bản thân và gia đình không?
TL: Có chứ, từ khi tham gia bác thấy khoẻ hẳn lên, trước đây bác cũng hay đau yếu, gia đình trước đây cũng bình thường, nhưng khi bác tham gia các con bác làm ăn thuận lợi, các cháu đều ngoan ngoãn, làm ăn khấm khá, khá giả cả.
H: Bác đã có trải nghiệm cá nhân nào về sự linh thiêng của đức Thánh chưa ạ?
TL: Thánh linh thiêng lắm, cái sự trải nghiệm đó tuỳ vào mỗi người, kể cho cháu nghe chuyện trước đây nhé, mà chính bác được ngài độ cho đấy, ngày trước còn trẻ bác làm nghề chài lưới ở trên sông, thường đậu thuyền ở bến Thái Hạc, bến này nhiều vong lắm cháu ạ vì nơi đó là quân Pháp xử bắn du kích với cán bộ hoạt động cách mạng của ta. Một hôm vào khoảng 9h tối, trời tối lắm, ngày ấy dầu thắp còn chẳng có chứ làm gì có điện sáng như bây giờ, bác nằm trên thuyền mơ màng vì bị bóng đè, toàn người chết đã bị chặt đầu không toàn thây thôi, đầu tiên bác tưởng mình mơ, sau nhiều đêm vẫn bị như thế, Bác nghe người ta mách sang Đền Quán ở thị xã xin một “tờ khoán” để khi đi ngủ trùm lên mặt thì sẽ không có vong, ma nào đè được nữa, bác làm theo nhưng không hiệu nghiệm, chẳng đi đâu xa, bác về chùa làng là chùa Keo Thái Bình đây này, xin khoán của Đức Thánh Tổ, thế mà nghiệm cháu ạ, từ đấy bác không bị vong đè nữa. Ngày còn nhỏ bác cũng nghe ông cụ nhà bác kể lại Đức Thánh Tổ linh thiêng vô cùng, trước có một ông trong làng không biết sợ là gì, giờ người ta bảo là không “Tín” ấy, năm ấy vào hội, làng họp để bàn bạc ông ấy cũng tham gia, đến trước điện Thánh có hai Ông Ngựa, ông ta to gan vỗ lên lưng ông ngựa và bảo con ngựa này to thật, nếu mà làm thịt thì có mà đãi cả làng, thế rồi về ông ta bị ốm đấy, ốm nặng lắm nhưng không biết là bệnh gì, chạy chữa đều không khỏi, nghe người làng, gia đình ông ta sắm lễ lên để xin Thánh cho khỏi bệnh thế là ông ta khỏi. Thánh thiêng lắm, cầu gì được nấy cháu ạ, mới đây cũng có chị ở mãi ngoài Quảng Ninh trước về cầu tự, cầu con giai đấy, giờ về tạ lễ, chị ấy bảo cháu đã được 8 tuổi rồi nhưng năm nào chị ấy cũng thu xếp về để tạ lễ nhà ngài.
H: Bác và gia đình có thường đến lễ Thánh vào các ngày rằm mùng một không?
TL: Bác thì ở chùa thường xuyên, còn bác gái thì cũng thi thoảng ngày rằm mùng một đến thắp hương lễ Thánh. Bác ở chùa còn nhiều hơn ở nhà, vào chùa lễ Phật, lễ Thánh bác cảm thấy bình yên lắm, nhiều khi chẳng muốn về nữa cháu ạ, vào chùa không khí thanh tịnh, thấy cuộc sống nhẹ nhàng, thanh thản hơn.
47
H: Bác thường dâng lễ vật gì khi đến lễ Thánh?
TL. Thành tâm là chính thôi cháu ạ, bác chỉ có nén hương với chút tiền giọt dầu thôi, bác là đàn ông nên cũng chẳng biết mua bán gì, nên cứ thành tâm là được.
Biên bản phỏng vấn số 5
Người được phỏng vấn: Chị Trần Thị Vân
Nghề nghiệp: Tự do
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Thầy
Ngày phỏng vấn: 1/4/2017.
H: Chị bán hàng ở đây lâu chưa?
TL: Tôi bán hàng ở đây cũng lâu rồi đấy, có đến gần chục năm rồi.
H: Chị người ở đây hay là người nơi khác lấy chồng về đây?
TL: Tôi là người thôn thuỵ khuê đây chứ đâu, lấy chồng cũng lấy người cùng làng luôn nên ở đây luôn.
H: Chị bán hàng có đông khách không?
TL: Cũng được cô ạ, vào dịp đầu năm và lễ hội thì đông hơn, còn những ngày khác thì bình thường, chùa lúc nào cũng có khách thập phương đến tham quan lễ Phật nên cũng túc tắc bán được hàng, kiếm đồng ra đồng vào thôi.
H: Khách đến chùa từ nhiều nơi à chị?
TL: Khách đến từ nhiều nơi em ạ, có người ở mãi tận An Giang, nghe nói chùa Thầy phong cảnh đẹp, thiêng nên ra đấy cô ạ, tôi ngồi đây nên biết, nhiều người đến lễ nhà Ngài cầu xin làm ăn, công danh, cầu con cô ạ.
H: Chị có hay vào chùa Thầy lễ không?
TL: Có chứ, ngày bé thường hay theo mẹ đi lễ, lớn lên lấy chồng thì tự đi lễ, tôi thường xuyên vào lễ ở chùa, có mấy bước chân mà không vào chùa lễ Phật, Thánh thì các ngài phạt cho đấy.
H: Chị có thấy sự thay đổi trong cuộc sống của mình khi đi lễ ở chùa Thầy không ạ?
TL: Tôi nói rồi, tôi thì thường xuyên đến chùa cầu Phật và cầu Thánh gia độ cho, Thánh ở đây tu ba kiếp nên linh thiêng lắm cô ạ, lần nào lễ tôi cũng cầu Thánh độ cho gia đình tôi mạnh khoẻ, và cũng nhờ Thánh ban cho gia đình tôi sức khoẻ mà vợ
48
chồng tôi từ lâu rồi chẳng có ai ốm đau gì sất, các con tôi cũng thế, giờ chúng nó lớn cả rồi, chẳng đứa nào phải đi viện bao giờ, chẳng mấy khi mất viên thuốc nào sất cô ạ.
H: Ngoài chùa Thầy thì chị có đi lễ ở chùa nào nữa không?
TL: Tôi chủ yếu đi lễ ở chùa Thầy, thi thoảng cũng sang chùa Long Đẩu, đấy ngôi chùa kia kìa, cô đã sang chưa, chùa Long Đẩu thì nhỏ hơn chùa Thầy, chùa đấy không thờ Thánh Từ.
H: Mỗi lần đi lễ chùa chị có thấy hạnh phúc hay bình an không?
TL: Có chứ, những lúc khó khăn hoặc những lúc có việc gia đình tôi cũng thường ra chùa xin ngài độ cho, đối với tôi chùa Thầy như là nơi giải toả những căng thẳng, nhà tôi ở gần chùa nên khi vướng mắc trong cuộc sống tôi thường đến chùa lễ, xin các ngài độ cho giúp tôi thanh thản hơn, mỗi lần như thế tôi thấy tâm minh thoải mái không còn lo âu suy nghĩ nhiều nữa.
H: Lễ hội ở chùa Thầy hàng năm lớn lắm phải không chị?
TL: Vâng, lớn cô ạ, khách thập phương đến đông lắm, nên tôi cũng buôn bán được, ấy nhưng mà bán hàng ngày hội lại không bằng trông xe đâu cô ạ, cháu nhà tôi trông xe đấy, đông lắm, suốt ngày, cũng vất vả nhưng cũng có thêm thu nhập.
Biên bản phỏng vấn số 6
Người được phỏng vấn: Chị Nguyễn Thị Lan
Nghề nghiệp: Hướng dẫn viên ở chùa Thầy
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Thầy
Ngày phỏng vấn: 10/5/2017
H: Chị ơi chị vào làm ở đây đã lâu chưa?
TL: Chị cũng mới vào làm hướng dẫn trong chùa thôi em ạ, được 5 năm rồi.
H: Khách đến chùa thường là người dân ở đâu?
TL: Nói chung là khách thập phương, bắc nam đều có cả Hà Nội gần đây, rồi Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Bắc Giang, Bắc Ninh, có ở Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh… nói chung là đông vì chùa Thầy nổi tiếng mà em, đây là ngôi chùa cổ được dựng từ thời Đinh, đến thời Lý chính Thánh Từ cho trùng tu tôn tạo lại, cho đúc chuông, tô tượng thờ, hiện nay chùa thờ Phật, Thánh Từ là người tu hành đắc đạo thần thông nổi tiếng khắp xứ Đoài cơ mà.
49
H: Khách đến đông thì người dân ở xung quanh chùa cũng được hưởng lợi chị nhỉ, như là bán hàng, trông xe,…
TL: Đúng thế em ạ, nhiều năm nay khách đến chùa cứ năm sau đông hơn năm trước, bây giờ người dân cũng có điều kiện rồi, họ đi tham quan, du lịch suốt, mấy năm nay lại phát triển du lịch tâm linh nên chùa Thầy cũng đã trở thành điểm du lịch rồi đấy. Du khách đến đông nhất là vào dịp lễ hội thì người dân ở đây hầu hết đi bán hàng, rồi mở cửa hàng ăn, trông xe để phục vụ du khách, cũng phát triển và mang lại thu nhập nhưng chắc không bằng chùa Hương, đền Hùng em ạ
H: Chị làm hướng dẫn ở đây thì thu nhập có khá không ạ?
TL: Cũng được em ạ, Thánh cho ăn lộc, có tháng nhiều, tháng ít nhưng cũng sống tốt.
H: Em nghe nói mấy năm trước vào dịp lễ hội lộn xộn lắm phải không chị?
TL: Trước đây thôi, ở nơi nào đông người mà chẳng có móc túi, chẳng có vấn đề về an ninh, rồi xả rác bừa bãi, rồi cũng có những người bán hàng hám lợi, hét giá bắt chẹt khách, rồi ăn xin ăn mày đầy ra, nhưng nay khác rồi em ạ, lễ hội ở chùa Thầy văn minh lắm, lễ hội đều có Ban Tổ chức lo mọi việc từ an ninh, đến vệ sinh môi trường, em đến vào ngày thường hay ngày lễ hội bây giờ không có chuyện chặt chém nữa đâu, chỉ có lễ hội đông thì thi thoảng vẫn có khách bị móc túi đấy, nhưng tránh làm sao hết được.
H: Chị hướng dẫn ở chùa nhiều năm có nghe câu chuyện nào về sự linh thiêng hay bản thân chị đã trải nghiệm sự linh thiêng của Thánh Từ chưa ạ?
TL: Có chứ, Đức Thánh Từ linh thiêng lắm em ạ, người dân ở Sài Sơn này vẫn truyền nhau câu thơ: Đến Chùa thắp một tuần hương/ Để cho Ngài độ lên đường gặp may/ Linh thiêng là đất chùa Thầy/ Khi về hưởng lộc biết ngày nào quên. Còn với bản thân gia đình chị, chị thấy cũng gặp nhiều may mắn, trước đây chị hay ốm vặt, người lúc nào cũng quặt kẹo em ạ, từ khi chị vào làm hướng dẫn viên ở đây chị khoẻ hẳn không còn như trước, hai thằng con giai nhà chị cũng khoẻ mạnh, các cháu đều học giỏi cả, một cháu đã ra trường có việc làm ổn định rồi, nhà chị được ăn lộc ở cửa Thánh mới được như thế đấy em ạ.
H: Lễ vật dâng Thánh mỗi khi chị đi lễ?
TL: Cũng đơn giản thôi em ạ, chủ yếu là ở tấm lòng của mình, chị cũng chỉ sắm sửa chút hoa quả, trầu cau, hương, hoa và chút tiền giọt dầu công đức cho nhà chùa thế thôi.
H: Ngoài chùa chị có biết ngôi chùa nào thờ Thánh Từ nữa không?
TL: Có, chùa Láng, chùa Tổng nữa em ạ, chị nghe các cụ nói ngài được thờ ở nhiều nơi lắm vì ngài tu hành đắc đạo và rất linh thiêng nhưng mà chị cũng không biết nhiều chỉ biết ở hai ngôi chùa đấy thôi.
H: Chị có đến chùa Láng, chùa Tổng để lễ Thánh không?
50
TL: Không em ạ, chùa Thầy là nơi thờ gốc rồi, với lại lễ Thánh ở chùa nào mà chẳng như nhau, chỉ cần đến một ngôi chùa là đủ, bởi mình có tâm thì bất kỳ ở chùa nào thì Phật và Thánh đều chứng.
Biên bản phỏng vấn số 7
Người được phỏng vấn: Cô Nguyễn Thị Thơm
Nghề nghiệp: Nông dân
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Keo Thái Bình
Ngày phỏng vấn: 29/10/2017
H: Cháu chào cô? cô là người dân ở địa phương hay ở người nơi khác đến?
TL: Tôi là người dân ở đây.
H: Cô có đi chùa thường xuyên không?
TL: Có chứ, tuần rằm nào mà chẳng ra chùa.
H: Cô thường hay sắm lễ gì?
TL: Tôi sắm lễ như mọi người thôi, thông thường thì chỉ dâng hoa quả, còn lễ hôm ngày 3/6 và ngày hội thì thường tôi sắm thêm bánh dày, nói chung là cứ có tâm là được, đôi khi không kịp sắm lễ thì đặt chút tiền giọt dầu và nén hương dâng ngài cũng được, ngài có bắt phải sắm gì đâu, tất cả là do mình đấy chứ.
H: Cô có thường viết sớ khi đi lễ không?
TL: Đầu năm thì tôi cũng có viết sớ, còn lại thì mình có thể cầu trực tiếp với Phật, Thánh
H: Cô ơi cô đến đây lễ thì thường cầu xin những gì?
TL: Cầu bình an, cầu sức khoẻ, có được hai cái đó là được tất cháu ạ.
H: Cháu nghe nói là Thánh thiêng lắm, nhiều người đến đây cầu tự phải không cô?
TL: Đúng thế, Ngài thiêng lắm, nhiều người đến đây cầu con đều được cả đấy, ở xa người ta cũng về vì nghe tiếng Ngài.
H: Cô có nghe ai kể về sự linh ứng của Thánh không?
TL: Nhiều chứ, ngày xưa nghe các cụ kể lại nếu nhà nào mà mất trộm ra cửa Thánh kêu cầu thế nào cũng tìm được vật đã mất, kẻ trộm không tiêu thụ được lại phải mang đến trả.
51
H: Bản thân cô đã nhận được sự phù hộ của Thánh chưa?
TL: Có chứ, năm tôi 28 tuổi, bị chửa ngoài dạ con, thủng và vỡ chẩy không biết cơ man nào là máu, dân làng đều tin là chết vì bệnh nặng quá, nhưng nếu Phật, Thánh không độ và không nhờ phúc đức gia đình thì tôi đã chết rồi, vì năm đó thiếu thốn lắm không có tiền đi bệnh viện lớn mà mổ ở ngay bệnh viện huyện, chỗ chợ đấy, lúc nào tôi cũng nhất tâm và được Phật, Thánh phù hộ, cho đến bây giờ khoẻ mạnh, cứ dắt xe đạp ra ngoài nhà để đi đâu đó tôi đều niệm Phật, Thánh vì Phật, Thánh độ cho tôi mới sống được đến bây giờ, tôi có hai cháu trai và một cháu gái các cháu cũng thành đạt. Tôi rất tin vào sự linh thiêng của Thánh, tôi không bao giờ đi xem bói, tôi gặp khó khăn gì trong cuộc sống thì đều đến cửa Thánh để xin Ngài độ cho.
H: Ngoài đi lễ ở đây có có đến Đình lễ không ạ?
TL: Có chứ, nhưng mà Đình mới xây dựng nên cũng mới sang Đình lễ thôi.
H: Cô có hay tham dự lễ hội không?
TL: Có chứ, năm nào chẳng tham dự lễ hội, tôi hầu như chưa bỏ hội. Bố đẻ tôi trước làm chủ hội mà. Cụ làm chủ hội mấy năm liền đấy. Cụ tín lắm, bao giờ có việc gì đi qua cổng chùa là cụ cũng xuống dắt xe, việc có vội mấy thì vội cụ cũng xuống dắt xe, mà từ xưa rồi chứ không phải bây giờ, cụ theo lệ cũ, cụ bảo ngày xưa các quan đi ngựa qua cổng chùa còn phải xuống dắt ngựa nữa là dân thường. Cưới con chị gái tôi, đi ôtô qua cổng, xe nào đi qua không biết nhưng xe của cụ ngồi là cụ bắt tất cả xuống xe để cho xe chạy qua cổng chùa thì mới lại lên xe, cụ kỹ lắm.
H: Mỗi lần đến lễ chùa cô thấy cảm giác thế nào?
TL: Thấy nhẹ nhàng, thanh thản.
Biên bản phỏng vấn số 8
Người được phỏng vấn: Cô Nguyễn Thị Tính
Nghề nghiệp: Hưu trí
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Keo Thái Bình
Ngày phỏng vấn: 31/3/2018
H: Cháu chào cô, cô và anh đến lễ Thánh lâu chưa?
TL: Tôi đến từ sáng, lễ rồi, ngắm cảnh rồi, nghỉ ngơi một chút rồi ra xe về.
H: Cô là người địa phương hay người nơi khác đến?
TL: Tôi ở Hải Phòng.
52
H: Cô có thường hay đến chùa này không ạ?
TL: Ba năm nay năm nào gia đình tôi cũng về một lần có năm còn đi hai lần
H: Cô thường đi lễ vào thời điểm nào ạ?
TL: Cũng tuỳ, năm thì đi vào đầu năm, năm thì đi vào cuối năm, nói chung là cứ một năm phải về một lần thì mới yên tâm.
H: Tại sao cô biết chùa này mà đến lễ?
TL: Chùa Keo nổi tiếng thế ai mà chẳng biết, với lại tôi cũng nghe người cùng phố họ đi lễ ở đây rồi về mách cho để đến chùa.
H: Lần đầu tiên cô đi chùa này là năm nào?
TL: Năm 2015, đến lần đầu tiên, thấy quang cảnh chùa đẹp quá
H: Cô đến chùa thường cầu điều gì ạ?
TL: Tôi cầu sức khoẻ bình an, cầu nhiều thứ lắm, mong muốn điều gì thì cầu điều đó.
H: Trong quá trình đi lễ ở đây cô có thấy sự thay đổi trong đời sống của cô không?
TL: Có, thay đổi chứ.
H: Cháu cũng nghe nhiều người mách là Thánh được thờ trong chùa thiêng lắm, cô có thấy Thánh thiêng không?
TL: Có, Thánh thiêng lắm cứ nhất tâm cầu là được.
H: Cô đã thấy sự linh ứng của Thánh trong đời sống của cô không?
TL Có, chẳng dấu gì cô, năm 2015, tôi nghe có người mách muốn có con trai thì đến chùa Keo Thái Bình, chùa đó có vị Thánh thiêng lắm, cầu gì được nấy, rất nhiều người muốn có con trai đều đến đây cầu, Thánh thiêng lắm. Vào tầm tháng 11 tôi đưa hai vợ chồng “nó” chỉ vào anh con trai bà nói tiếp đến chùa lễ Phật cầu bình an cho gia đình, đến lễ Thánh cầu con giai cho vợ chồng nó, rồi năm 2016 gia đình tôi lại đến lễ Thánh để xin Ngài ban lộc cho gia đình có thêm cậu con giai vì vợ chồng nó có hai cô con gái rồi, đến năm 2017 cháu có bầu và đã sinh được thằng cu đến nay tròn ba tháng rồi, nên tôi và chồng cháu đến đây để tạ lễ nhà Ngài.
H: Cháu chúc mừng cô và gia đình ạ. Vậy mỗi lần đến lễ Thánh cô thường sắm lễ gì?
TL: Việc sắm lễ dâng nhà ngài đều do các cháu (chỉ vào anh con trai) trong nhà lo liệu, nói chung cứ phải có tâm thì mới cầu được, tôi lần nào đến lễ xin đài âm dương đều được cả, phải có tâm thì Thánh mới ban cho phúc, cho lộc.
H: Cô đi lễ ở đây về có giới thiệu cho ai biết để đến lễ ở chùa Keo không?
53
TL: Nói chung đây là vấn đề tâm linh khó nói lắm, họ phải tin thì nói người ta mới nghe.
Biên bản phỏng vấn số 9
Người được phỏng vấn: Cô Phan Thị Hạ
Nghề nghiệp: tự do
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Keo Thái Bình
Ngày phỏng vấn: 15/7/2018
H: Cô ơi tại sao cô biết chùa Keo này mà đến lễ?
TL: Người dân Thái Bình nào mà chẳng biết chùa Keo? Không biết chùa Keo có mà không phải là dân Thái Bình, người ở các nơi khác còn biết đến lễ nữa là người dân ở đây.
H: Vậy chắc chắn cô là người Thái Bình rồi
TL: Đúng thế
H: Cô ơi cô có thường xuyên đến lễ ở chùa Keo này không?
TL: Năm nào cô cũng đi lễ ở đây, trước đi lại khó khăn thì năm đến một lần, bây giờ từ thị xã đi xuống đây nhanh lắm đi xe máy chưa đến một tiếng là đến nơi nên cô đi lễ thường xuyên hơn, có năm đầu năm một lần, ngày kỵ Thánh, lễ hội một lần có khi cuối năm nếu có thời gian cô cũng đến lễ.
H: Cô đi lễ ở chùa Keo đã lâu chưa?
TL: Cô đến chùa lễ lâu lắm rồi, chẳng nhớ chính xác là từ bao giờ nhưng có đến vài chục năm rồi đấy.
H: Cô thường sắm lễ như thế nào?
TL: Cô sắm lễ đơn giản thôi, hoa quả, tiền vàng, thẻ hương, gói bánh hoặc hộp kẹo, nói chung là không cần cầu kỳ tiền nhiều lễ lớn mà lễ phải có lòng thành, do tấm lòng thành của mình cho dù lễ ít hay nhiều không quan trọng, nếu mình có lỗi thì phải xám hối các ngài cũng bỏ đi cho.
H: Cô thường cầu Thánh ban cho điều gì?
TL: Cô cầu sức khoẻ, cầu buôn bán gặp may mắn, cô làm nghề bán cá kho ở chợ Thái Bình nên mong muốn có sức khoẻ và việc bán hàng của cô được thuận lợi, cầu cho cả gia đình bình an.
54
H: Cô có thấy Thánh được thờ ở chùa Keo linh thiêng không?
TL: Thánh thiêng lắm đấy cháu ạ, nhiều người đến chùa đều công nhận như thế chứ không phải là mỗi cô nói đâu
H: Cô có tin vào sự linh thiêng của Thánh không?
TL: Có chứ, cô tin chứ, Thánh không thiêng thì sao nhiều người tìm đến đây lễ để làm gì, họ cũng tin là linh thiêng thì mới tìm đến chứ.
H: Có ai kể cho cô nghe về sự độ trì của Thánh cho họ chưa?
TL: Ai tin thì người đấy sẽ được Thánh chứng và ngài sẽ độ cho, mỗi người đến lễ đều tự nhận thấy cháu ạ. Cô thì thấy Thánh linh lắm.
H: Cô có trải nghiệm cá nhân về sự linh thiêng của Thánh không? Thánh có phù hộ cho cô điều gì không?
TL: Có, nên cô thường đến chùa ăn mày lộc Phật, lộc Thánh, trước đây cô có hai đứa con gái, cô đi đâu xem bói mười người thì đến chín người đều bảo cô chỉ có con một bề, cô nghe nói đến chùa cầu xin là có con trai, cô về chùa và tự cô cầu xin Thánh phù hộ cho cô có một người con trai, về cô được ăn lộc Thánh cô đã sinh được con trai năm nay em ấy 33 tuổi rồi, từ đấy năm nào cô cũng về để lễ Phật, lễ Thánh, tạ ơn các ngài đã ban lộc cho cô.
H: Cảm giác của cô mỗi lần đi lễ xong như thế nào?
TL: Cô là người nóng tính, làm nghê buôn bán nên cũng hay bực bội nóng nẩy, nhưng mỗi lần cô đi lễ Thánh về, cô cảm thấy thanh thản, bình an, yên tâm để làm ăn cháu ạ, nếu mà không đi lễ Thánh được cô thấy nóng nẩy, bực bội, khó chịu. Vào chùa cũng làm cho tâm tính thay đổi đấy với bản thân cô là cô thấy như thế.
Biên bản phỏng vấn số 10
Người được phỏng vấn: Cô Nguyễn Thị Ngân
Nghề nghiệp: Trông coi đền Thánh ở chùa Keo Thái Bình
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Keo Thái Bình
Ngày phỏng vấn: 9/10/2019
H: Cô ơi chùa này thờ vị Thánh nào?
TL: Thánh Dương Không Lộ
H: Thánh có công gì đối với người dân làng mình không?
55
TL: Có chứ, ngài dậy dân mình nghề chài lưới, ngài còn là người đi lấy đồng ở bên Trung Quốc về để dậy dân nghề đúc đồng nữa, chữa bệnh cho dân, ngài giúp dân nhiều lắm.
H: Cô đọc sách viết về Thánh hay nghe các cụ kể lại ạ?
TL: Ngày xưa nhà cô nghèo, học ít, biết không được mấy chữ nên cũng không đọc sách, cô nghe các cụ trước kể lại như thế thôi.
H: Ngoài được thờ ở chùa mình cô còn biết Thánh được thờ ở chùa nào nữa không?
TL: Ngài có công lớn lắm nên được thờ ở nhiều nơi lắm, chùa Keo Hành Thiện ở bên Nam Định cũng thờ ngài đấy nhưng chẳng ở đâu mà thờ Thánh được như chùa Keo Thái Bình cả.
H: Tại sao ạ?
TL: Vì chùa này mới là cái gốc, ngày trước chùa này do ngài dựng nên để tu hành, nhiều người khẳng định ngôi chùa này là chùa gốc đấy.
H: Cháu nghe nhiều người đi lễ nói Thánh ở chùa mình linh thiêng lắm phải không cô?
TL: Ngài rất linh thiêng, có nhiều người đến đây cầu cúng và đã cầu được, đều được Ngài hiển linh độ cho tài lộc đấy, người thì cầu con được con, người cầu quan chức thì được lên chức, đầy người khi cầu được họ về đây tạ lễ nhà Ngài đấy.
H: Cá nhân cô có được Thánh ban cho tài lộc không?
TL: Có chứ, không được ngài độ thì làm sao mà mạnh khoẻ được, làm sao mà giúp việc cho nhà ngài được.
H: Cô trông coi ở đây theo năm hay theo tháng, có người coi cùng cô không?
TL: Chúng tôi trông coi theo sự phân công của làng, có lịch phân công cụ thể chứ, đến phiên ai thì người ấy ra đây để phụ giúp nhà chùa đèn nhang cho nhà Ngài.
H: Vậy ngoài việc trông coi, ngày rằm, mùng một, hay những ngày huý kỵ, lễ hội cô có tham gia không?
TL: Có chứ, những ngày ấy bận mấy thì bận cũng phải thu xếp để ra chùa chứ.
H: Khi gặp khó khăn trong cuộc sống hoặc khi gia đình có việc hệ trọng cô có đến cửa Thánh để kêu cầu không?
TL: Có, mỗi khi gia đình có việc lớn tôi cũng đến chùa kêu ở cửa nhà ngài để ngài độ cho, như mới đây cô con gái nhà tôi lấy chồng, tôi cũng kêu ở cửa nhà ngài để ngài độ cho mọi việc được hanh thông, không gặp trắc trở.
H: Cô thường dâng Thánh lễ vật gì mỗi khi đi lễ?
56
TL: Thì sắm sửa lễ vật tuỳ tâm, cũng không cần có tiền của nhiều để mua lễ dâng thì ngài mới chứng mà chỉ cần nhất tâm và có tấm lòng thì chỉ một nén hương thôi ngài cũng chứng giám cho.
H: Cô thường cầu Thánh ban cho điều gì ạ?
TL: Thì cầu sức khoẻ, bình an cho gia đình, cầu cho con cái thành đạt, gia đình được êm ấm hạnh phúc, ai đi lễ mà chẳng cầu như thế.
H: Mỗi lần đến chùa lễ cô thấy tâm trạng thế nào?
TL: Chẳng cần đi lễ mà mỗi lần đến chùa để giúp việc đèn hương cho nhà Ngài là đã thấy thoải mái rồi.
H: Cô ơi người đến lễ ở đây chủ yếu là người Thái Bình mình hay còn nhiều người ở nơi khác nữa?
TL: Ở khắp các mọi nơi, trong nam, ngoài bắc đều có cả, đầu năm và lễ hội là đông người ở các nơi khác đến lắm.
H: Lễ hội chùa Keo mình đông vui lắm cô nhỉ?
TL: Đông vui lắm, cơ mà đông quá nên việc đi lễ cũng khó khăn, gớm cả gian thờ này (chỉ vào Điện Thánh) chật người, người ra, người vào đông quá, đặt lễ cũng khó, chẳng có chỗ mà đặt lễ.
Biên bản phỏng vấn số 11
Người được phỏng vấn: Cô Nguyễn Thị Lâm
Nghề nghiệp: Nông dân (tham gia đội tế nữ quan thị trấn Cổ Lễ)
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Cổ Lễ
Ngày phỏng vấn: 26/6/2017
H: Cô ơi cô tham gia đội tế lâu chưa?
TL: Tôi tham gia đội tế cũng lâu rồi.
H: Đội tế của cô thường tế Thánh vào những dịp nào?
TL: Tế vào ngày kỵ của ngài và lễ hội hàng năm.
H: Ngoài những dịp tham gia đội tế để lễ Thánh thì cô có hay đến chùa không?
TL: Cũng thi thoảng, cô cũng còn mải làm ăn
57
H: Cô làm nghề gì ạ?
TL: Cô làm nghề nông thôi, ngoài ra cũng phụ các cháu trông cửa hàng buôn bán thêm của chúng nó
H: Khi có khó khăn vướng mắc trong cuộc sống cô có đến chùa để cầu Thánh giúp mình không?
TL: Có chứ, mỗi khi gia đình có việc hệ trọng là cô lại đến chùa dâng lễ và nhờ sư Thầy kêu thay lạy đỡ ở cửa Thánh để ngài độ cho mọi việc được thuận lợi.
H: Cô thường sắm những lễ vật gì?
TL: Hương hoa, tiền giọt dầu, gọi là một chút lòng thành thôi. Quan trọng là muốn Phật, Thánh độ cho thì cái tâm mình phải thật, mình phải tin vào Thánh thì mới ứng nghiệm cháu ạ, trước kia cô hay đau ốm từ khi cô đi hầu Thánh cô thấy mình khoẻ hẳn ra, từ đấy cô chẳng có bệnh tật gì, khoẻ mạnh cháu ạ, đến cửa Thánh phải nhất tâm cầu khấn thì Thánh sẽ ban cho sức khoẻ, cho tài, cho lộc, cho bình an.
H: Cô có công đức vào chùa không?
TL: Có chứ, công đức để những lúc mình không đi lễ được, các sư thầy lấy để giúp mình hương đăng trà quả lễ ngài chứ.
Biên bản phỏng vấn số 12
Người được phỏng vấn: Chú Vũ Văn Hưng
Nghề nghiệp: Nông dân ( Ban Bản tự chùa Keo Hành Thiện Nam Định)
Địa điểm phỏng vấn: Chùa Keo Hành Thiện Nam Định
Ngày phỏng vấn: 20/10/2018
H: Cháu chào chú, chú tham gia Ban Bản tự chùa lâu chưa ạ?
TL: Tôi tham gia lâu rồi.
H: Thành phần tham gia vào Ban Bản tự là những ai ạ?
TL: Ban Bản tự hiện nay gồm 31 thành viên, trước những năm 1987 thành viên của Ban Bản Tự là toàn bộ người của dòng họ Vũ, hiện nay đã có một vài họ khác tham gia như họ Đào, họ Lã nhưng về cơ bản họ Vũ vẫn là những thành viên chủ chốt của Ban này. Các thành viên tham gia làm công quả tại chùa, không hưởng “lương”, tiêu chí tham gia vào Ban Bản tự phải là nam giới và đủ 18 tuổi trở lên. Việc cắt cử người trông coi chùa do Trưởng ban phân công, cứ 15 ngày có 1 người trực 24/24, ngoài ra các buổi tối có thêm 02 người cùng trực để cùng bảo vệ bên Đông và bên Tây của chùa.
58
H: Chùa thuộc về cộng đồng vậy tại sao chỉ có dòng họ Vũ được tham gia vào Ban Bản tự ạ?
TL: Chùa ở đây có đặc thù là từ thời ngày xưa đến giờ đều không có sư, cụ tổ trong coi đèn nhang cho chùa này vốn là người của dòng họ Vũ, vì thế tiếp nối việc trông coi chùa cũng là người của dòng họ Vũ vừa là đèn nhang, vừa đón tiếp khách thập phương xa gần về chiêm bái Thánh. Chùa này có tiếng là oai linh, kẻ trộm vào đây lấy gì đều phải trả lại hết. Chùa có đôi lộc bình cổ rất quý đã bị kẻ gian lấy hai lần nhưng vẫn không mất được, lần thứ nhất mất vào năm 1972 đôi lộc bình cũng đã mang ra khỏi chùa mang đến địa phận huyện hải hậu thì gặp đội tuần tra, liền vứt bao tải đựng đôi lộc bình để chạy, mang đến xã thì nhận ra là đôi lộc bình của chùa này. Mới đây nhất là năm 2012 đúng ngày phật đản 4/4, đêm kẻ trộm cũng lấy đôi lộc bình đấy, chúng tôi cứ đinh ninh là mất rồi, sau độ nửa tháng trộm đem đóng vào thùng bìa cát tông chở xuống cầu Lạc Quần để đón xe đưa đôi lộc bình đi tẩu tán, anh xe ôm có sự nghi ngờ liền báo công an, công an đến kiểm tra thì không ai nhận, mở ra thấy đôi lộc bình liền lại đem trả cho nhà chùa.
H: Chùa này do ai đứng ra xây dựng?
TL: Theo gia phả của làng mà các cụ xưa để lại, ngôi chùa cổ được xây dựng ở trên làng Dũng Nhuệ trước là trên khu Cổ lễ bây giờ, sau khi lụt lội cuốn trôi ngôi chùa thì 1/3 số dân chạy về bên Thái Bình và 2/3 là dân ở đây hiện nay. Chùa Keo Thái Bình dựng lại trước ngôi chùa Keo Hành Thiện. Hai ngôi chùa vẫn có tấm lòng phụng sự Thánh tổ. Ngôi chùa này được xây dựng nguyên bản theo ngôi chùa cũ còn chùa Keo Thái Bình đã thay đổi không còn kiến trúc ban đầu nên gác chuông ở chùa Keo Thái Bình mới đặt ở đằng sau điện Thánh. Người họ Vũ đứng lên kêu gọi hưng công tín thí của nhân dân mới có tiền xây chùa.
H: Chùa thờ cụ Dương Không Lộ hay Nguyễn Minh Không?
TL: Hiện tại trong cung đang thờ hai pho tượng, trong gia phả của làng thì không viết cụ thể là chùa thờ cụ nào, nhưng trong các bài kinh, các khoa cúng để thỉnh bạch các Thánh về thì lại thỉnh cụ Dương Không Lộ, có tích là cụ xuất phát là dân chài lưới, thấy cuộc sống của nhân dân khổ nên ngài có tâm đi tu tập để cầu cho dân được quốc thái dân an, cụ cùng với đức Giác Hải và đức Từ Đạo Hạnh kết nghĩa anh em cùng nhau tu tập.
H: Lễ hội chùa diễn ra vào thời điểm nào?
TL: Trước đây lễ hội chính chùa Keo là mở từ 12 đến 15/9, gần đây thì được sự đồng ý của chính quyền thì hội mở từ ngày 10 – 15/9AL, nhưng mà theo thông lệ cũ thì cứ đến ngày 5/9 là người dân trong làng đến bao sái, trang trí đồ thờ cúng để chuẩn bị mở hội.
H: Có gì đặc sắc trong lễ hội không?
TL: Có lễ rước kiệu Thánh và bơi chải diễn ra vào ngày 15/9. Cứ kiệu Thánh được rước ra bên ngoài đền thì ở ngoài sông bắt đầu cuộc thi bơi chải.
59
H: Trong lễ rước kiệu có bao giờ chứng kiến kiệu bay không?
TL: Có chứ, kiệu bay nhiều chứ, nhưng phải nói các cụ làm kiệu tính toán rất tinh vi, thiết kế có độ dơ, nên cho dù kiệu bay thì người vẫn đi thẳng và vẫn giữ được thăng bằng. Cũng như việc xây dựng chùa này cũng thế, có hai hiệp thợ, mỗi hiệp thợ làm một nửa che chiếu không hiệp thợ nào được nhìn cách làm của hiệp thợ nào họ giữ thế không cho nhau xem ấy vậy mà khi ghép lại thì rất hoàn chỉnh. Năm 2013, Trung ương cũng cho nguồn kinh phí 17 tỷ để trùng tu lại hai bên hành lang.
H: Việc sắm lễ dâng Thánh thường là lễ chay hay lễ mặn?
TL: Lễ vật dâng Thánh chúng tôi vừa dâng lễ chay vừa dâng lễ mặn, nhưng lễ mặn không được dâng vào bên trong hậu cung mà chỉ được dâng ở gian ngoài thôi.
H: Lễ vật chính dâng Thánh là gì?
TL: Lễ vật chính phải có là bánh dày.
H: Lễ vật bánh dày do người dân trong làng làm hay mình đi đặt mua?
TL: Trước đây các cụ kỹ lắm lễ vật phải do chính dân làng tự làm dâng Thánh, nhưng nhiều năm trở lại đây do điều kiện kinh tế cũng có, thời gian lại hạn chế, con cháu đi làm ăn xa, con cháu cũng lại không quan tâm nhiều đến việc chuẩn bị lễ vật, ngại làm, làm lại không ngon nên thường đi đặt ở các cửa hàng trên thành phố Nam Định chuyển xuống.
H: Theo cảm nhận của chú thì Thánh được thờ ở chùa có linh thiêng không?
TL: Thánh thiêng lắm chứ, không thiêng thì làm sao mà cứ mất trộm đồ trong chùa lại tìm thấy. Nhiều người về đây cầu gì là được nấy, cầu con được con, cầu thăng quan tiến chức được thăng quan tiến chức. Chúng tôi ở đây chứng kiến Có một bà đồng, cách đây mấy năm chẳng biết căn quả thế nào mà cứ bị như điên như dại, ốm gần chết, phải kêu cầu lễ bái nhà ngài mới giải thần tính cho mà khỏi bệnh đấy. Cách đây mấy chục năm có hai thằng vào chùa ăn cắp tượng đồng đen, ngày trước điện không có, thắp đèn, người ta bắt được cưa gót chân máu chảy ròng ròng, quàng đưa đi quanh làng, trẻ con thì đánh trống để bêu riếu kẻ ăn cắp trong chùa. Có một thằng chút nữa bị một ông xẻo đứt tai bằng dao vót nan, mà dao vót nan thì sắc thế nào cô biết rồi đấy.
H: Bản thân chú có trải nghiệm sự linh thiêng của đức Thánh không?
TL: Tôi đến chùa giúp việc nhà Thánh đồng thời cũng để lấy lộc cho con cái, nhà tôi có 2 trai, 2 gái nhờ ngài cho lộc mà đứa nào tôi cũng dựng vợ gả chồng rồi, làm ăn thì đều phát đạt cả.
60
Biên bản phỏng vấn số 13
Người được phỏng vấn: Bác Nguyễn Văn Duy
Nghề nghiệp: Hưu trí (tham gia Tổ trưởng Ban Quản lý thôn chung)
Địa điểm phỏng vấn: chùa Láng
Ngày phỏng vấn: 2/11/2018
H: Cháu chào Bác, cháu biết hôm nay là ngày Kỵ của Thánh Từ, bác có thể cho cháu biết hôm nay làng mình làm những việc gì không ạ?
TL: Buổi sáng các làng tham gia đóng cỗ, buổi chiều vào 2 giờ Ban quản lý và UBND phường Láng Trúng cùng các ban ngành đoàn thể thành lập tổ chấm thi giữa các mâm cỗ xem mâm cỗ nào đẹp nhất để dâng Thánh. Đến 3h chiều thôn Thượng dâng lễ vào 3h30 thôn Trung dâng lễ, 4h thôn Hạ dâng lễ, sau đó nhân dân địa phương dâng lễ, 17h các thầy cúng nhà sư làm lễ thỉnh Ngài để ngày mai các cụ ông tế lễ, sau lễ tế của các cụ ông là đoàn tế nữ quan dâng hương.
H: Trước đây trong ngày kỵ Thánh có tổ chức thi cỗ không ạ?
TL: Trước đây thì không thi, bây giờ Ban quản lý tổ chức chấm cỗ, mục đích là nâng cao tính thẩm mỹ trong việc dâng lễ đạt tiêu chuẩn là mâm cỗ phải đẹp để thờ Thánh.
H: Lễ vật như bánh chưng, bánh dày là tự tay dân làng mình làm đấy ạ?
TL: Trước đây toàn bộ lễ vật là phải tự làm lấy hết gồm bánh chưng, bánh dày, chè kho, còn hiện nay thì sản vật hầu hết là đặt mua, do nhân lực không có, việc đặt mua phải đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn.
H: Lễ vật hiện nay có khác so với trước đây không?
TL: Cũng có khác đấy, trước đây gồm bánh dày, bánh chưng và chè kho, hoa quả thì bày 5 loại quả, giờ hoa quả bánh kẹo phong phú thì bày nhiều hơn cho mâm cỗ đẹp hơn.
H: Trong nghi lễ kỵ thánh trước đây và hiện nay có khác biệt không?
TL: Ngày trước thời các cụ đây thì việc thực hiện nghi lễ cẩn trọng lắm, nghi lễ kỵ thánh không chỉ tổ chức ở chùa, mà trước đây 3 thôn 9 xóm khi tế lễ Thánh ở chùa xong thì lại về thôn tổ chức tế Thánh ở thôn, đến thời chúng tôi lớn lên cũng nhiều yếu tố tác động nhất là giai đoạn nhà nước không cho thực hành tế lễ nên một năm giờ chỉ có hai lần tế Thánh tại chùa vào ngày kỵ và vào lễ hội thôi không còn tế Thánh về hàng thôn hàng xóm nữa.
H: Sư về trụ trì ở chùa Láng lâu chưa?
TL: Trước cụ Đàm Huyền thì có cụ sư khác, cụ về từ thời cải cách ruộng đất, sau cụ mất đi là đến sư Đàm Huyền, sư cũng về trụ trì phải đến ba bốn chục năm nay rồi.
61
H: Ngày trước nếu chưa có sư về trụ trì thì nghi thức thờ cúng do ai chịu trách nhiệm?
TL: Cộng đồng thực hành nghi lễ chính. Hiện nay, nghi lễ Tế vẫn thuộc về cộng đồng địa phương chứ các sư có tham gia tế thánh đâu. Trước đây mỗi thôn là một đội tế ông, hiện nay cả ba thôn có chung một đội tế gồm 10 người, quy định mỗi năm một thôn làm chủ tế, các thành viên đội tế là cả ba thôn. Trước đây không có dâng hương của đội tế nữ, hiện nay chùa Láng có 03 đội dâng hương tế nữ.
H: Cháu nghe nhiều người đi lễ ở chùa Láng đều bảo Thánh Từ rất linh thiêng? Theo Bác đức Thánh có linh thiêng không ạ?
TL: Đây là mặt tâm linh có người tin và có người không tin, phải là người nào gặp thì mới tin còn những người không gặp là người ta còn hoài nghi, nếu trong tâm tin có thánh là có thánh trong tâm tin là thánh thiêng thì Thánh linh thiêng. Đối với tôi Thánh linh thiêng lắm, đây này ông này tên là Ông Huy Phó Ban Quản lý (chỉ vào một Bác ngồi bên cạnh), mấy năm trước ung thu, cắt cả quả thận, ông phụng sự nhà thánh, gia đình lễ bái, nhà chùa lễ bái cho thế mà bệnh ung thư khỏi đấy. Tôi cũng là tưởng chết vào năm ngoái vì viêm màng não thế mà tôi khỏi bệnh, ai cũng bảo ông mà không có Phật, có Thánh độ cho có mà chết rồi, gia đình tôi cũng phải nhờ nhà chùa kêu cầu giúp đấy chứ.
H: Gia đình bác có thường xuyên đến lễ ở chùa không?
TL: Nhà tôi thì các cháu bận đi công tác nên chỉ có ngày kỵ, hoặc lễ hội chúng ra chùa dâng lễ thôi, còn bà nhà tôi thì ngày rằm mùng một nào mà chẳng ra chùa.
H: Khi gia đình bác có công việc đại sự như làm nhà, dựng vợ gả chồng cho con cái hoặc khi gặp khó khăn vướng mắc trong cuộc sống bác có ra chùa lễ Thánh không ạ?
TL: Có, nhưng việc đấy bà nhà tôi thường làm, lần nào nhà tôi có việc lớn là bà tôi sắm lễ ra chùa để nhờ sư kêu cầu để đức Thánh độ cho mọi việc được suôn sẻ, như lần tôi ốm nặng vì viêm màng não ấy bà nhà tôi cũng kêu cầu ở cửa nhà ngài, nhờ ngài độ cho mà tôi mới khoẻ mạnh trở lại.
H: Được làm việc Thánh bác có thấy tinh thần của mình được bình an không?
TL: Có chứ, được giúp việc nhà Thánh là vinh hạnh, mà cũng thanh thản cháu ạ.
62
Biên bản phỏng vấn số 14
Người được phỏng vấn: Sư Thích Thanh Việt
Nghề nghiệp: Trụ trì chùa Tây Lạc
Địa điểm: Chùa Tây Lạc (Nam Định) tên chữ: Viên Quang Như Tự
Ngày phỏng vấn: 14/6/2018.
H: Thầy về trụ trì chùa lâu chưa?
TL: Tôi cũng về chùa này được 22 năm rồi, tôi về chùa từ năm 1996.
H: Lịch sử ngôi chùa này như thế nào?
TL: Ngôi chùa này cũng mới được dựng lại trên nền ngôi chùa cũ, nhưng cũng phải là ngôi chùa cổ từ ngày xưa đâu bởi ngôi chùa cổ trước đây hiện không còn dấu tích gì, các di vật liên quan đến ngôi chùa cổ cũng chẳng còn, trước đây còn nghe các cụ kể lại ngôi chùa có 9 sắc phong liên quan đến các Thánh nhưng cho đến hiện nay do chiến tranh, do điều kiện thực tiễn không thể bảo quản được nên 9 sắc phong này cũng đã mất rồi. Trước đây xung quanh chùa có 9 cái giếng, nhưng đến nay thì 9 chiếc giếng này cũng đã bị lấp đi. Thời Lý chùa có tên chữ là Viên Quang Cửu Tỉnh, đến thời Lê đổi tên chữ của chùa thành Viên Quang Như Tự và tên này tồn tại cho đến bây giờ, còn người dân thì vẫn gọi là chùa Tây Lạc.
H: Thầy có biết ngôi chùa này thờ Tam vị Thánh tổ lâu chưa? từ thời nào không?
TL: Trước, các cụ cho biết trong gia phả ghi lại chùa này thờ các Ngài từ thời nhà Lý.
H: Hiện còn lưu giữ gia phả này không ạ?
TL: Gia phả cũng chẳng còn giữ được, cô biết đấy người dân mình không có ý thức giữ gìn dấu tích văn hoá của cha ông nên những đồ quý đó giờ làm gì còn.
H: Tại sao chùa lại bố trí thờ các Thánh ở khu vực Tiền Đường? Việc bố trí như thế vốn có từ trước đây hay là mới.
TL: Tôi cũng chẳng biết việc bố trí như thế có từ bao giờ nhưng theo tôi thì chắc theo phong tục tập quán của nhân dân địa phương thôi, trước đây việc sắp xếp thờ các ngài vẫn ở khu vực Tiền Đường nhưng có khác đôi chút đó là các Thánh được thờ ở hai bên, một bên thờ cụ Không Lộ và cụ Giác Hải và một bên là thờ cụ Từ Đạo Hạnh, sau tôi về thấy không phù hợp nên đưa cả ba cụ vào thờ một bên. Chùa thờ cụ Không Lộ là chủ yếu nên hiện nay ở trong khám kín sắp xếp tượng thờ cũng là cụ Không Lộ ngồi giữa còn cụ Giác Hải ngồi bên phải, cụ Đạo Hạnh ngồi bên trái. Trước đây chùa này làm gì có sư, do người dân tự bố trí sắp xếp thờ tự.
H: Chùa này có sư trụ trì về từ bao giờ?
TL: Chùa có sư về trụ trì vào khoảng từ năm 1935, vị sư đầu tiên là Hoà thượng Thích Thanh Thăng sau đó đến Hoà thượng Thích Tâm Thi, rồi đến Hoà thượng Thích Thanh Thuê, đến Hoà thượng Thích Quảng Tuyên, rồi đến tôi.
63
H: Hàng năm chùa có tổ chức lễ hội liên quan đến các Thánh không?
TL: Có, năm nào chùa cũng tổ chức lễ hội, lễ hội diễn ra trong hai ngày 25, 26 tháng giêng hàng năm.
H: Lễ tế Thánh ở chùa do ai thực hiện?
TL: Do đội tế của địa phương, là các cụ cao niên trong làng đứng ra thành lập và tham gia trong đội tế.
H: Vậy Thầy có tham gia trong nghi lễ Tế của địa phương không?
TL: Không, nhà chùa không tham gia, đây là việc người dân thờ cúng vị Thánh của họ nên do người dân thực hiện.
H: Trong lễ hội có tổ chức rước kiệu các Thánh không?
TL: Không mà chỉ có các thôn rước lễ lên để cúng Thánh thôi.
H: Lễ mộc dục cho các Thánh được thực hiện vào thời điểm nào?
TL: Được làm vào tối ngày 25 tháng giêng hàng năm, lễ mộc dục làm kín dân làng không tham gia mà chỉ có ông Chủ tế và hai ông Đông xướng, Tây xướng thực hiện.
H: Y phục của các ngài do nhân dân cung tiến hay do nhà chùa chuẩn bị?
TL: Trước đây tượng của các Ngài có mặc y phục nhưng không đảm bảo do chùa ở khu vực cánh đồng rộng nên nhiều chuột lắm, chuột vào cắn nát y phục của các Ngài nên không thay y phục nữa.
H: Trong lễ hội có nghi lễ gì đặc sắc không?
TL: Trước đây tương truyền rằng Thánh rất thích xem đấu vật nên trong lễ hội chùa bao giờ cũng có nghi thức Vật chầu Thánh.
H: Tôi nghe nói các Thánh được thờ ở trong chùa rất là linh thiêng, thầy trụ trì ở đây lâu rồi có nghe người dân kể lại sự ứng nghiệm trong đời sống của họ hay thầy có thấy sự linh ứng đối với chính bản thân Thầy không?
TL: Dân ở đây đều cho rằng các Thánh rất thiêng, họ cầu là đều linh ứng, đặc biệc ở chùa này, cầu Tự là rất ứng nghiệm, phải đến 90%. Có câu chuyện như này, Năm 1996 có một cơn bão rất to làm đỗ cây cối, mưa lớn, cụ trụ trì đã dọn dẹp chùa nhưng cụ lại không dọn cung Thánh, tối hôm đó cụ không ngủ ở chùa sang một ngôi chùa khác cũng ở Nam Định đây này, đêm hôm đó cụ mơ thấy cung Thánh toàn nước là nước cụ mới về thì đúng như thế thật, có cành nhãn rơi đúng vào mái khu cung Thánh nên ngói bị vỡ, nên dột nước vào trong cung Thánh thật. Bản thân tôi cứ làm việc gì tôi cũng lên cầu các Thánh gia độ cho là đều được việc kể cả các việc liên quan đến Phật pháp.
64
H: Chùa quay về hướng nào?
TL: Chùa quay về hướng Tây Nam.
H: Ngôi chùa này trở thành Trường Hạ lâu chưa?
TL: Trở thành Trường Hạ từ năm 2003.
H: Mỗi năm có bao nhiêu vị sư đến tu học?
TL: Cũng tuỳ vào từng năm, cơ mà năm nay có 65 vị về đây hành trì an cư.
65
Phụ lục 8
PHỤ LỤC SẮC PHONG
8.1. Sắc phong thánh Từ Đạo Hạnh tại chùa La Phù - Hoài Đức - Hà Tây (nguồn: Luận án tiến sỹ văn hoá học của Phạm Thị Thu Hương)
Sắc số 1:
Phiên âm:
Sắc:
Linh diệu Từ Đạo Hạnh đại giác thiền sư chi thần. Hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng.
Minh Mệnh nhị thập nhất niên trị ngã Thánh tổ nhân Hoàng đế ngũ tuần đại khánh tiết, khâm ban bảo chiếu, đàm âm lễ long đăng trật. Tứ kim, phi ứng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia phong tặng Linh diệu. Huyền thông chi thần nhưng chuẩn Từ Liêm huyện, La Phù, Ngãi Cầu, nhị xã y cựu phụng sự Thần kỳ tướng hựu bảo ngã lê dân.
Khâm tai.
Thiệu Trị lục niên thập nhất nguyệt nhị thập tứ nhật.
Dịch nghĩa:
Sắc cho: Linh diệu Từ Đạo Hạnh đại giác thiền sư chi thần, giúp nước trợ dân, tích chứa
linh ứng. Minh Mệnh năm thứ 21, chính lúc đại khánh tiết mừng đức Thánh Tổ, nhân
Hoàng Đế ta tròn 50 tuổi. Kính ban chiếu báu, mở rộng ân trạch điển lễ, thăng cấp. Nay, ta nối thừa mệnh sáng, xa nhớ ơn thần, có thể gia tăng Linh diệu Huyền thông chi thần. Chuẩn cho hai xã La Phù, Ngãi Cầu huyện Từ Liêm phụng sự thần như cũ, mong ngài bảo trợ cho dân ta.
Khâm tai. Thiệu Trị năm thứ sáu, tháng 12, ngày 14. (Phần này dịch chưa chính xác, NCS
đính chính lại là: Thiệu Trị năm thứ sáu, tháng 11, ngày 24)
8.2. Sắc phong thánh Dương Không Lộ tại chùa Keo Hành Thiện – Nam Định (nguồn: Luận án tiến sỹ văn hoá học của Phạm Thị Thu Hương).
Phiên âm:
Sắc:
Không Lộ linh thông, Hiển ứng, Thần diệu, Xung hoá, Quảng đức, Hộ quốc, Huyền đạt, Phả hộ, Sùng chân, Uyên tĩnh, Hựu quốc, Hồng ân, Thi huệ, Tế chúng, Tĩnh nạn, Khang quốc, Diệu thuật, Tu hành, Huyền diệu, Trợ dân, Trợ uy, Trạch dân, Tế thế, Hựu dân, Dương vũ, Phù tộ, Hộ đức, Chí nhân, Khoáng tạ, Đại độ, Cương đoán, Anh nghị, Kích thiên, Pháp tổ, Trí huệ, Thần thông, Quảng mặc, Diên phúc, Hợp đức, Triệu mưu, Tá tích, Khang dân, Hộ thế, Tán trị, Định công, Cảm ứng, Tế thế, An khang, Huyền mặc, Diệu thông, Diên lộc, Phù hưu, Tích khánh, Đốc bật, Minh trí, Chiêu đạo, Thuỳ khánh, Thông minh, Duệ trí, Linh thông, Hiền ứng, Hoằng ân, Phúc
66
quốc, Khang dân, Minh Pháp, Tinh thuật, Trọng đạo, Tích khánh, Đốc tâm, Tu nhân, Dụ đức, Kinh thiên, Vĩ địa, Linh thông, Phi tiên, Thiết giáo, Xung thiên, Diệu đạo, Pháp giáo, Dũng mãnh, Uy linh, Tế khang, An dân, Phụ vật, Phù vận, Diên huống, Linh ứng, Phổ hoá, Huy diệu, Tĩnh nguyên, Ngưng hoà, Xiển Bý, Chân tiên, Hiển thánh, Phù vận, Hiển khánh, Hiển phúc, Tuý tinh, Quang đại, Hàm hoằng, Hàm chân, Thể đạo, Linh cảm, Thể thiên, Hành hoá, Bái trạch Thánh tổ, Đại pháp thiền sư.
Phật đế thông huyền, Thien đình tích mệnh, Thực phiệt từ hàng, đô tế độ, khoát khai phương tiện chi môn, thuỵ vân pháp vũ tổng linh thông, vĩnh giới hồ chi phúc, thân tích vĩnh trung cảnh huống hoài nhu hạp cử cựu trương vi phụng tự vương, tiến phong vương vị, lâm cư chính phủ, lễ hữu đăng trậg, ứng gia phong mỹ tự tam tự khả gia phong:
Không Lộ linh thông, Hiển ứng, Thần diệu, Xung Hoá, Quảng đức, Hộ quốc, Huyền đạt, Phả hộ, Sùng chân, Uyên tĩnh, Hựu quốc, Hồng ân, Thi huệ, Tế chúng, Tĩnh nạn, Khang quốc, Diệu thuật, Tu hành, Huyền diệu, Trợ dân, Trợ uy, Trạch dân, Tế thế, Hựu dân, Dương vũ, Phù tộ, Hộ đức, Chí nhân, Khoáng tạ, Đại độ, Cương đoán, Anh nghị, Kích thiên, Pháp tổ, Trí huệ, Thần thông, Quảng mặc, Diên phúc, Hợp đức, Triệu mưu, Tá tích, Khang dân, Hộ thế, Tán trị, Định công, Cảm ứng, Tế thế, An khang, Huyền mặc, Diệu thông, Diên lộc, Phù hưu, Tích khánh, Đốc bật, Minh trí, Chiêu đạo, Thuỳ khánh, Thông minh, Duệ trí, Linh thông, Hiền ứng, Hoằng ân, Phúc quốc, Khang dân, Minh Pháp, Tinh thuật, Trọng đạo, Tích khánh, Đốc tâm, Tu nhân, Dụ đức, Kinh thiên, Vĩ địa, Linh thông, Phi tiên, Thiết giáo, Xung thiên, Diệu đạo, Pháp giáo, Dũng mãnh, Uy linh, Tế khang, An dân, Phụ vật, Phù vận, Diên huống, Linh ứng, Phổ hoá, Huy diệu, Tĩnh nguyên, Ngưng hoà, Xiển Bý, Chân tiên, Hiển thánh, Phù vận, Hiển khánh, Hiển phúc, Tuý tinh, Quang đại, Hàm hoằng, Hàm chân, Thể đạo, Linh cảm, Thể thiên, Hành hoá, Bái trạch ư. Huyền diệu, Uy linh, Thần hoá Thánh Tổ Đại pháp thiền sư.
Cố sắc
Cảnh Hưng tứ thập tứ niên, ngũ nguyệt, thập lục nhập
Dịch nghĩa
Sắc:
Không Lộ Linh thông, Hiển ứng, Thần diệu, Xung hoá, Quảng đức, Hộ quốc, Huyền đạt, Phả hộ, Sùng chân, Uyên tĩnh, Hựu quốc, Hồng ân, Thi huệ, Tế chúng, Tĩnh nạn, Khang quốc, Diệu thuật, Tu hành, Huyền diệu, Trợ dân, Trợ uy, Trạch dân, Tế thế, Hựu dân, Dương vũ, Phù tộ, Hộ đức, Chí nhân, Khoáng tạ, Đại độ, Cương đoán, Anh nghị, Kích thiên, Pháp tổ, Trí huệ, Thần thông, Quảng mặc, Diên phúc, Hợp đức, Triệu mưu, Tá tích, Khang dân, Hộ thế, Tán trị, Định công, Cảm ứng, Tế thế, An khang, Huyền mặc, Diệu thông, Diên lộc, Phù hưu, Tích khánh, Đốc bật, Minh trí, Chiêu đạo, Thuỳ khánh, Thông minh, Duệ trí, Linh thông, Hiển ứng, Hoằng ân, Phúc quốc, Khang dân, Minh pháp, Tinh thuật, Trọng đạo, Tích khánh, Đốc tâm, Tu nhân, Dụ đức, Kinh thiên, Vĩ địa, Linh thông, Phi tiên, Thiết giáo, Xung thiên, Diệu đạo, Pháp giáo, Dũng mãnh, Uy kinh, Tế khang, An dân, Phụ vật, Phù vận, Diên huống, Linh ứng, Phổ hoá, Huy diệu, Tĩnh nguyên, Ngưng hoà, Xiển bí, Chân tiên, Hiển thánh, Phù vận, Hiển khánh, Hiển phúc, Tuý tinh, Quang đại, Hàm hoằng, Hàm chân, Thể đạo, Linh cảm, Thể thiên, Hành hoá, Bái trạch, Thánh tổ Đại pháp thiền sư.
67
Vua Phật nối phép huyền, Thiên đình ban mệnh, thực ngồi thuyền từ, đều tế độ, mở toang cửa phương tiện, mây lành mưa phép đều linh thông mãi nối phúc thiêng, thân chứa mối sáng, chất vốn nhu mềm, hợp cử điển chương là vua thờ tự, tiến phong ngôi vua, vào ngôi chính chủ, lễ nên đăng trật, nên gia phong ba chữ mỹ tự, khả gia phong:
Không Lộ Linh thông, Hiển ứng, Thần diệu, Xung hoá, Quảng đức, Hộ quốc, Huyền đạt, Phả hộ, Sùng chân, Uyên tĩnh, Hựu quốc, Hồng ân, Thi huệ, Tế chúng, Tĩnh nạn, Khang quốc, Diệu thuật, Tu hành, Huyền diệu, Trợ dân, Trợ uy, Trạch dân, Tế thế, Hựu dân, Dương vũ, Phù tộ, Hộ đức, Chí nhân, Khoáng tạ, Đại độ, Cương đoán, Anh nghị, Kích thiên, Pháp tổ, Trí huệ, Thần thông, Quảng mặc, Diên phúc, Hợp đức, Triệu mưu, Tá tích, Khang dân, Hộ thế, Tán trị, Định công, Cảm ứng, Tế thế, An khang, Huyền mặc, Diệu thông, Diên lộc, Phù hưu, Tích khánh, Đốc bật, Minh trí, Chiêu đạo, Thuỳ khánh, Thông minh, Duệ trí, Linh thông, Hiển ứng, Hoằng ân, Phúc quốc, Khang dân, Minh pháp, Tinh thuật, Trọng đạo, Tích khánh, Đốc tâm, Tu nhân, Dụ đức, Kinh thiên, Vĩ địa, Linh thông, Phi tiên, Thiết giáo, Xung thiên, Diệu đạo, Pháp giáo, Dũng mãnh, Uy kinh, Tế khang, An dân, Phụ vật, Phù vận, Diên huống, Linh ứng, Phổ hoá, Huy diệu, Tĩnh nguyên, Ngưng hoà, Xiển bí, Chân tiên, Hiển thánh, Phù vận, Hiển khánh, Hiển phúc, Tuý tinh, Quang đại, Hàm hoằng, Hàm chân, Thể đạo, Linh cảm, Thể thiên, Hành hoá, Bái trạch ư, Huyền diệu, Uy linh, thần hoá Thánh tổ Đại pháp thiền sư.
Cho nên ban sắc này.
Ngày 16 tháng 05 năm Cảnh Hưng thứ 44.
8.3. Sắc phong thánh Nguyễn Minh Không tại chùa Điềm Giang, Gia Viễn, Ninh Bình (nay là Đền Thánh Nguyễn). (nguồn: Luận án tiến sỹ văn hoá học của Phạm Thị Thu Hương)
Sắc số 1:
Phiên âm: Sắc: Hiển ứng, Diệu ngô, Thần hoá, Linh uy, Phổ chiếu, Giác viên, Thanh tịnh,
Huyền sâm, Quảng thông, Xung tĩnh, Quốc pháp, Cao minh, Duệ quốc, Trang ý, Chiêm lợi, Phổ huệ, Phổ ân, Phổ ứng, Hiển linh, Chiêu cảm, Phù hưu, Đốc khánh, Hựu quốc, Khang dân, Sùng đạo, Hộ thế, Phù vận, Trợ uy, Nỗi khánh, Hậu trạch, Hộ dân, An quốc, Phúc bính, Phù cương, Thiệu mưu, Tá tích, Pháp tổ, Thần quang, Thông đạt, Hậu đức, Chí nhân, Uy linh, Hiểu hựu, Chấp phù, Thể đạo, Huyền thông, Diệu cảm, Mật tối, Điềm tĩnh, Biến hoá, Linh thông, Chí đạo, Đạt đức, Tuyên uy, Bá dũng, Trương tiện, Từ bi, Cứu thế, Độ dân, Tích hựu, Diên huống, Hồng hy, Gia khánh, Hậu chiên, Cảm cách Minh Không Thiền sư, thể đạo khiêm xung, tâm cao viễn chí, vi chí diệu thần biến hoá chi cơ, dũ cửu dũ linh, phù miên trường chi tự nghiệp, thân tích khái trưng, hồng huống hoài nhụ, nghi cử cựu chương, vi xung nhân quang, thụ thuyền truyền kim, tư vương tiến phong đại vị, lễ hữu đăng trật, ứng nhất thể gia phong, khả gia phong Hiển ứng, Diệu ngộ, Thần hoá, Linh uy, Phổ chiếu, Giác viên, Thanh tịnh, Huyền sâm, Quảng thông, Xung tĩnh, Quốc pháp, Cao minh, Duệ quốc, Trang ý, Chiêm lợi, Phổ huệ, Phổ ân, Phổ ứng, Hiển linh, Chiêu cảm, Phù hưu, Đốc khánh, Hựu quốc, Khang dân, Sùng đạo, Hộ thế, Phù vận, Trợ uy, Nỗi khánh, Hậu trạch, Hộ dân, An quốc, Phúc bính, Phù cương, Thiệu mưu, Tá tích, Pháp tổ, Thần quang, Thông đạt, Hậu đức, Chí nhân, Uy linh, Hiểu hựu, Chấp phù, Thể đạo, Huyền thông, Diệu cảm, Mật tối, Điềm tĩnh, Biến hoá, Linh thông, Chí đạo, Đạt đức, Tuyên uy, Bá dũng,
68
Trương tiện, Từ bi, Cứu thế, Độ dân, Tích hựu, Diên huống, Hồng hy, Gia khánh, Hậu chiêu cách Minh Không thiền sư, Tinh chân, Sảng lãng, Đoan ý, Minh nghị, Sùng tín, Thuần cẩn thiền sư.
Cố sắc. Vĩnh Khánh nhị niên, thập nhị nguyệt thập nhật. Dịch nghĩa: Sắc cho: Hiển ứng, Diệu ngộ, Thần hoá, Linh uy, Phổ chiếu, Giác viên, Thanh tịnh,
Huyền sâm, Quảng thông, Xung tĩnh, Quốc pháp, Cao minh, Duệ quốc, Trang ý, Chiêm lợi, Phổ huệ, Phổ ân, Phổ ứng, Hiển linh, Chiêu cảm, Phù hưu, Đốc khánh, Hựu quốc, Khang dân, Sùng đạo, Hộ thế, Phù vận, Trợ uy, Nỗi khánh, Hậu trạch, Hộ dân, An quốc, Phúc bính, Phù cương, Thiện mưu, Tá tích, Pháp tổ, Thần quang, Thông đạt, Hậu đức, Chí nhân, Uy linh, Hiển hựu, Chấp phù, Thể đạo, Huyền thông, Diệu cảm, Mật tối, Điềm tĩnh, Biến hoá, Linh thông, Chí đạo, Đạt đức, Tuyên uy, Bá dũng, Trương tiện, Từ bi, Cứu thế, Độ dân, Tích hựu, Diên huống, Hồng hy, Gia khánh, Hậu chiêu, Cảm cách Minh Không thiền sư, thể đạo tràn đầy, tâm cao chí xa, làm cơ màu biến hoá thần diệu, vừa dài lâu vừa linh thiêng, giúp cho sự nghiệp trường cửu, thâm chứa điều hay, lòng thân thắm thiết, nên cử điển chương cũ, làm ánh sáng truyền đời, thụ thiền truyền đến nay. Từ khi vương tiến phong chức lớn, lễ đáng lên cấp nên gia phong thêm Hiển ứng, Diệu ngộ, Thần hoá, Linh uy, Phổ chiếu, Giác viên, Thanh tịnh, Huyền sâm, Quảng thông, Xung tĩnh, Quốc pháp, Cao minh, Duệ quốc, Trang ý, Chiêm lợi, Phổ huệ, Phổ ân, Phổ ứng, Hiển linh, Chiêu cảm, Phù hưu, Đốc khánh, Hựu quốc, Khang dân, Sùng đạo, Hộ thế, Phù vận, Trợ uy, Nỗi khánh, Hậu trạch, Hộ dân, An quốc, Phúc bính, Phù cương, Thiện mưu, Tá tích, Pháp tổ, Thần quang, Thông đạt, Hậu đức, Chí nhân, Uy linh, Hiển hựu, Chấp phù, Thể đạo, Huyền thông, Diệu cảm, Mật tối, Điềm tĩnh, Biến hoá, Linh thông, Chí đạo, Đạt đức, Tuyên uy, Bá dũng, Trương tiện, Từ bi, Cứu thế, Độ dân, Tích hựu, Diên huống, Hồng hy, Gia khánh, Hậu chiêu cách Minh Không thiền sư, Tinh chân, Sảng lãng, Đoan ý, Minh nghị, Sùng tín, Thuần cẩn thiền sư.
Cố sắc. Vĩnh Khánh năm thứ hai, tháng 12, ngày mồng 10.
Sắc số 2: Phiên âm Sắc: Minh Không thiền sư, hộ quốc tý dân, nẫm trứ công đức, kinh hữu lịch triều phong tặng, phụng ngã Thế tổ Cao hoàng đế, thống nhất hải vũ khánh bị thần nhân, Tứ kim, phi thừa cảnh mệnh, quang thiệu hồng đồ, miến niệm thần hưu, hạp long ân điển, khả gia tặng Linh tuệ chi thần. Chuẩn hứa Gia Viễn huyện, Điềm Xá, Điềm Giang nhị xã y cựu đồng phụng sự thần kỳ tướng hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai. Minh Mệnh ngũ niên, thập nhị nguyệt sơ tứ nhật. Dịch nghĩa Sắc cho:
69
Minh thông thiền sư giúp nước trợ dân, tích chứa công đức, từng được các triều trước phong tặng, vì công thờ đức Thế tổ Cao Hoàng đế ta thống nhất giang sơn, đem phúc cho dân. Nay, ta nối mệnh sáng, tiếp nối cơ đồ, xã nhớ ơn thần, mở rộng ân điển, có thể gia tặng là Linh tuệ chi thần. Cho phép hai xã Điềm Xá, Điềm Giang huyện Gia viễn phụng sự thần như xưa để thần bảo trợ cho lê dân ta. Khâm tai. Minh Mệnh năm thứ năm, tháng 12 ngày mồng 4.
8.4. Sắc phong thánh Nguyễn (Lý) Giác Hải tại chùa Phúc Long (nguồn: Hồ sơ di tích chùa Phúc Long, xã Khánh Phú, tỉnh Ninh Bình, lưu trữ tại Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Ninh Bình )
Sắc số 1: Dịch nghĩa: Sắc phong cho thiền sư Giác Hải (từng được phong mỹ tự): Thần diệu, Hiển ứng, Linh thông, Phổ tế, Quảng vận, Xung hoá, Uyên Thánh, Phù tá, Thông cảm, Quang minh, Chương dụ, Hộ quóc, Phù tộ, Khuông quốc, Phúc tá, Dực thánh, Hồng ân, Huân ý, Hậu đức, Chí nhân, Hiệp ân, Hồng mỹ, Anh hùng, Hào kiệt, Chấp phù, Thể đạo, Huyền thông, Phổ diệu, Anh linh, Ứng giáng, Quảng đức, Đại pháp, Phúc quốc, Trấn an, Độ thế, Đại đức, Tích hưu, Diên huống, Hoằng dận, Long nghiệp, Diệu vận, Thông linh, Đam thâm, Quảng đại, Cứu thế, Độ dân. Trời Nam vận đẹp, non nhạc giáng thần, từ bi đức lớn, cứu giúp một phương tốt lành, công bảo vệ to lớn cho cơ đồ được muôn thuở, thực lớn lao thay: Từng tỏ rõ sự lớn lao ở điển, nay nối tiếp nghiệp lớn, ở ngôi chính phủ, tôn phù xã tắc củng cố cơ đồ, lễ có thứ bậc, ứng với điều đó phong thêm ba mỹ tự, có thể phong là thiền sư Giác Hải Thần diệu, Hiển ứng, Linh thông, Phổ tế, Quảng vận Xung hoá, Uyên Thánh, Phù tá, Thông cảm, Quang minh, Chương dụ, Hộ quóc, Phù tộ, Khuông quốc, Phúc tá, Dực thánh, Hồng ân, Huân ý, Hậu đức, Chí nhân, Hiệp ân, Hồng mỹ, Anh hùng, Hào kiệt, Chấp phù, Thể đạo, Huyền thông, Phổ diệu, Anh linh, Ứng giáng, Quảng đức, Đại pháp, Phúc quốc, Trấn an, Độ thế, Đại đức, Tích hưu, Diên huống, Hoằng dận, Long nghiệp, Diệu vận, Thông linh, Đam thâm, Quảng đại, Cứu thế, Độ dân, Bách trạch, Diên hi, Tập phúc. Cho nên có sắc phong. Cảnh Hưng (1767) năm thứ hai tám, ngày 8 tháng 8. Sắc số 2: Sắc phong cho thần Xung tuệ Giác Hải thiền sư, giúp nước giúp dân, niệm trước công đức, từng ban cấp sắc và chuẩn cho phụng sự thàn. Năm thứ 11 đời vua Minh Mạng (1830), Thánh tổ nhân hoàng đế triều ta tròn 50 tuổi, là ngày vui lớn, kính nghĩ ơn thần, có thể tặng thêm là Xung Tuệ Trừng tĩnh và chuẩn cho xã Yên Vệ, huyện Yên Khánh theo trước phụng sự thần cũng giúp đỡ bảo vệ dân ta. Kính cẩn thay. Thiệu Trị (1843) năm thứ 4, ngày 12 tháng 5. Sắc số 3: Sắc chỉ cho xã Yên Vệ, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, theo trước phụng sự thần Giác Hải thiền sư Xung tuệ Trừng tĩnh Viên tĩnh Đoan túc Dực bảo Trung hưng,
70
thần giúp nước giúp dân, niệm trước linh ứng, từng ban cấp sắc và chuẩn cho phụng sự thần. Nay nhà vua ta tròn 40 tuổi, là ngày vui lớn, từng ban chiếu tỏ rõ ơn thần, lễ có thứ bậc, tặng thêm là Trác vi thượng đẳng thần và chuẩn cho phụng sự, nhân ngày lễ lớn, thoải mái tế tự như điển lệ. Kính cẩn thay. Khải Định (1924) năm thứ 9, ngày 25 tháng 7.